Cây chè và kỹ thuật chế biến (202trang)
Mở đầu Chè là một loại thức uống phổ biến của hầu hết các dân tộc trên thế giới . Con người đã sớm nhận biết được tính ưu việt và tính đa năng của loại thức uống này.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cây chè và kỹ thuật chế biến (202trang), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của chất chát và chất pectine cho nên phải coi trọng
phương pháp bao gĩi và bảo quản chè tinh chất.
138
Với mục đích tìm ra điều kiện bảo quản tốt nhất, người ta đã
tiến hành thí nghiệm như sau:
- chè tinh chất được bảo quản ở dạng bột nguyên viên lại,
bột ngọt (pha trộn chè với đường) và viên ngọt.
- Bao bì để đựng chè gồm cĩ: lọ thuỷ tinh cĩ nắp đậy kín,
giấy nhơm, hộp sắt tây cĩ bọc giấy, hộp cát tơng.
Trong các loại bao bì nĩi trên dù là dùng chè tinh chất ở các
dạng khác nhau, qua thực nghiệm thấy rằng tốt nhất là bảo quản
trong lọ thuỷ tinh. Sau 15 năm bảo quản ở điều kiện bình thường
của phịng thí nghiệm ở Mockva khơng cĩ trường hợp nào thấy
độ ẩm của chè tăng lên đáng kể và chất giảm đi. Loại bao bì dùng
giấy nhơm để gĩi chè chiếm vị trí thứ hai. Nếu dùng hộp sắt tây
và hộp giấy để đựng chè tinh chất ở dạng bột nguyên, cĩ thể nĩi
khơng được thuận tiện lắm bởi vì bảo quản chè trong điều kiện
này chè dẽ dàng bị hút ẩm. Đối với chè tinh chất ở dạng bột, nếu
được bảo quản trong hộp sắt tây và hộp giấy cĩ nắp hồn tồn kín
thì vẫn cĩ thể bảo quản tốt vì trong trường hợp này khơng thấy
chất lượng của chè xấu đi và khơng mất độ xốp mặc dù thuỷ phần
của chè cĩ tăng lên. (1-2%)
139
Đối với chè tinh chất đã viên lại thì dù là dạng tinh khiết hay
hỗn hợp với đường đều cĩ thể sử dụng tất cả các loại bao bì nĩi
trên. Muốn giữ được chất lượng của chè tinh chất và đơn giản hố
vấn đề là dùng bao bì để chứa nĩ, người ta thấy rằng phương
pháp tốt nhất là bảo quản nĩ ở dạng viên sau khi trộn lẫn với
đường.
4.3.7. Trồng & chế biến trà Oolong Ở VN HIỆN NAY
Trà Oolong là một sản phẩm trà cao cấp được du nhập từ
Trung Quốc và Đài Loan. Vốn là một đặc sản của ngườI Trung
Quốc, trà Oolong được rất nhiều ngườI ưa chuộng vì mùi vị
đặc biệt và hương thơm tự nhiên của nĩ, tuy nhiên giá bán trên
thị trường hiện nay là khá cao do đĩ trà Oolong thu hút được
sự quan tâm của rất nhiều nhà sản xuất, hầu hết các sản phẩm
trà Oolong chính hiệu được sản xuất tạI cơng ty Đài Loan
(đĩng trên địa bàn Bảo Lộc), hiện nay cơng ty TNHH Tâm
Châu cũng đưa vào và dần mở rộng quy trình sản xuất và chế
biến sản phẩm này.
140
141
142
143
144
Nhờ chính sách của đảng và nhà nước ta, vài năm gần đây
nhiều cơng ty trà nước ngồi đã đến đầu tư sản xuất trà tại tỉnh
Lâm Đồng. Đặc biệt các doanh nghiệp trà Đài Loan đã đến đầu
tư và mang theo những giống trà đặc sản cùng với các kỹ thuật
canh tác, chế biến mới mẻ so với cách canh tác, chế biến ở địa
phương trước đây. Những giống trà mới nhập này được các
cơng ty Đài Loan trồng, cĩ chất lượng rất đặc biệt, hương thơm
145
tự nhiên, là những giống cĩ trọng lượng búp nhỏ, rất phù hợp
để sản xuất trà Oolong.
Trà Oolong là cây trà được du nhập từ miền núi Long Tĩnh
Đài Loan, đây là loại trà được trồng và thu hái theo kỹ thuật,
đầu tư lớn nhưng giá trị kinh tế cũng rất cao.
Các giống trà như: R27, R29, Thanh Tâm, Tứ Quý. Oolong
Thuần, đây là các giống trà cĩ chất lượng cao được du nhập từ
Đài Loan. Những giống trà này địi hỏi quy trình chế biến với
kỹ thuật cao, kinh nghiệm truyền thống khắt khe, đầu tư lớn,
thời gian bảo quản sau khi thu hoạch ngắn từ 4 – 6h vì vậy
vùng nguyên liệu phải gắn với khu vực chế biến thì mới cĩ
hiệu quả và chất lượng tốt nhất. Chính vì vậy cơng ty đã tổ
chức theo mơ hình nơng trường gắn liền với nhà máy chế biến
các giống trà cao cấp nhập nội này để xuất khẩu theo cơng
nghệ của Đài Loan để chất lượng được đảm bảo tốt nhất.
Đặc điểm của các giống trà này là:
- R27: là giống trà cĩ hình dáng lá dài, kích thước trung bình
từ khoảng 7 – 8cm chiều dài, 3.5 – 4cm chiều rộng, màu
xanh đậm, lơng tơ ít, lá cĩ từ 6 – 7 đơi gân, lá hơi cứng,
trọng lượng búp (1 tơm 2 lá) trung bình là 0.51 g.
- R29: kích thước trung bình 7.2cm chiều dài, rộng lá 3.2cm
cĩ từ 6 – 7 đơi gân, màu hơi lợt, trọng lượng búp (1 tơm 2
lá) trung bình là 0.55g.
- Tứ Quý: chiều dài lá trung bình 7.6cm, rộng 3.4cm màu
đậm, lá mềm cĩ từ 6 -7 đơi gân lá, trọng lượng búp trung
bình là 0.52g.
- Thanh Tâm: lá nhỏ, chiều dài trung bình 7.2cm, rộng 2 –
3cm, lá xanh nhạt, mềm, trọng lượng búp trung bình 0.41g.
- Oolong: cĩ chiều dài 6.4cm, rộng lá 2.5cm cĩ từ 6 -7 đơi gân
lá, màu đậm, thân lá mềm, trọng lượng trung bình 0.41g.
146
Nếu nguyên liệu để hái là trà xanh và trà đen của Việt Nam
là những búp non 1 tơm 2 lá thì nguyên liệu sử dụng để chế biến
trà Oolong giống du nhập từ Đài Loan yêu cầu hái, thu hoạch
khơng chỉ những búp đã trưởng thành 1 tơm 2 lá mà lá cuối phải
rộng và dày, thời gian thu hái dao động trong khoảng từ 43 – 45
ngày.
Theo Sở NN&PTNT Lâm Đồng, hiện nay doanh thu từ 1ha chè
chất lượng cao như Kim Tuyên, Tứ Quý, Ngọc Thúy, Ơ Long đạt
bình quân 200 triệu đồng/năm, cao gấp 10 lần so với các giống
chè cành, chè hạt truyền thống ở địa phương.
Kiểm tra chất lượng chè Ơ Long trước khi thu hái ở
Cơng ty Haiyih (Đà Lạt)
147
Các giống chè trên được trồng theo cơng nghệ cao, trong đĩ
giống nhập khẩu từ Đài Loan nên năng suất luơn đạt từ 12-15
tấn/ha/năm. Hiện Lâm Đồng cĩ trên 1.500ha chè chất lượng cao,
chiếm 6% diện tích chè tồn tỉnh, chủ yếu của các doanh nghiệp
cĩ vốn đầu tư nước ngồi. Hiện một số nơng trường chè ở Bảo
Lộc, Bảo Lâm cũng đang chuyển đổi sang giống chè chất lượng
cao.
A. PHƯƠNG PHÁP TRỒNG TRỌT, CHĂM SĨC, THU HÁI
TRÀ OOLONG
Trà oolong được trồng trọt và chế biến bằng cơng nghệ sạch
(IPM)
Hiện nay, trong xu thế phát triển chung của xã hội, với sự tiến bộ
của khoa học kỹ thuật, các phương pháp chăm sĩc cây trà bằng
cơng nghệ vi sinh đã thay thế cho việc phịng trừ sâu bệnh và
chăm bĩn bằng các loại nơng dược cĩ tính độc hại (thuốc trừ sâu,
phân bĩn hĩa học). Đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của
người tiêu dùng về mặt an tồn sinh học. Những chế phẩm sinh
học này hồn tồn vơ hại với cơ thể của người sử dụng sản phẩm.
Nơng trường Tâm Châu áp dụng nguyên tắc quản lý hệ thống
sinh thái trà IPM. Kỹ thuật bĩn phân và phịng trừ sâu bệnh hại
trà bằng các phương pháp và chế phẩm sinh học.
148
Trà oolong được hái bằng tay. Định kỳ 45 ngày một lần. Tuyển
chọn những búp đạt yêu cầu cĩ hình thể 1 tơm hai lá, riêng đối
với búp mù xoè hái hai lá. Trà được hái sau khi tan sương vào
buổi sáng, khơng hái vào lúc trời nắng gắt hoặc vào những ngày
trời mưa. Để bảo đảm búp trà tươi nguyên, nghĩa là khơng bị dập,
ơi, ngốt, trà khi hái được chứa trong gùi tre, trọng lượng trà trong
gùi khơng vượt quá 3kg, thời gian một lần hái khơng quá 40’, sau
đĩ được tập kết về một điểm và đưa vào nhà máy chế biến ngay.
B. QUY TRÌNH CƠNG NGHỆ CHẾ BIẾN TRÀ Ơ LONG:
149
150
Héo nắng
Héo mát
Rũ hương
Lên men
Trà búp tươi, 01 tơm
02 lá
Đĩng gĩi (rút
chân khơng)
Sấy khơ
Tạo hình
Sấy nhẹ
Vị
Sao diệt men
Trà thành phẩm bảo
quản trong kho lạnh
151
I. Nắng héo : nhiệt độ: 25 — 30oC; thời gian : 30 — 45’
Trà búp tươi được rải mỏng trên vải bạt, cĩ giàn che bên trên để
hạn chế nắng gắt. Nhằm sử dụng ánh nắng mặt trời để tăng nhanh
quá trình thốt hơi nước trong búp trà, làm mất tính bán thấm của
màng tế bào, tăng hàm lượng các thành phần hố học trong tế
bào, đặc biệt là hàm lượng cathechin, tăng hoạt tính của enzym,
thúc đẩy quá trìonh oxy hố để lên men tự nhiên.
II. Mát héo nhiệt độ: 20 - 22oC; thời gian: 30 — 45’
Búp chè được đưa vào phịng, rải mỏng đều trên nong đồng thời
đảo trộn để tiếp tục quá trình thốt hơi nước, làm dập các tế bào,
xúc tiến quá trình lên men, thời gian 12 giờ.
152
Hình 1: Trà trong phịng làm héo mát
III. Quay thơm (rũ hương): 15 - 30 phút.
Làm dập tế bào, dịch tế bào tràn phủ búp trà, tiếp xúc với oxy
trong khơng khí để đẩy mạnh quá trình lên men.
153
Hình 2: Máy quay thơm
IV. Lên men : nhiệt độ: 18 — 20 oC; thời gian : 180 — 200’
Trà sau khi quay thơm được rải, để im trên nong để thúc đẩy quá
trình thủy phân oxi hố khử diễn ra dưới tác dụng của các enzym
để hồn thiện quá trình lên men, tạo hương thơm tự nhiên, vị và
màu nước đặc trưng của trà oolong. Quan trọng nhất của qua trình
này là kỹ thuật viên phải bảo đảm mức độ lên men ở 50 — 60%.
V. Xào diệt men : nhiệt độ: 80 — 85 oC ; thời gian : 30 — 45’
Khi trà đã đạt độ lên men cần thiết, đưa trà vào ống sao để dùng
độ nĩng cao phá vỡ hoạt tính lên men, ức chế quá trình tiếp tục
lên men của trà để bảo trì hương vị, khơng cĩ mùi ngái, giữ cho
hương vị của trà khơng thay đổi trong các bước chế biến tiếp
theo.
154
Hình 3: Máy xào chuyên dùng trong chế biến trà
Oolong
VI. Vị chuơng: thời gian : 1’ — 1.5’
Sử dụng lực của máy chuyên dùng làm cho khối trà chuyển động
và tự ma sát vào nhau. Làm dập vỡ tế bào đồng thời phân bố lại
chất dịch lên các bộ phận của búp trà.
Hình 4: Máy vị chuơng
155
Hình 4: Máy vị chuơng
VII. Sấy dẻo : nhiệt độ: 80 — 85 oC; thời gian : 35 — 45’
Làm giảm thủy phần của trà đến mức cần thiết, loại bỏ những
enzym cịn lại sau khi vị, chấm dứt lên men, tạo thuận lợi cho
quá trình làm khơ.
VIII. Tạo hình: thời gian : 480 — 600’
Tạo hình thể viên trịn đặc trưng của trà oolong
- Sao / sấy : dùng nhiệt làm nĩng và mềm để quá trình siết banh,
vị banh được dễ dàng.
- Máy siết banh : dùng vải đựng trà và dùng máy siết, siết chặt tạo
hình như trái banh để giúp quá trình vị nén được thuận lợi.
156
Hình 5: Máy siết banh
- Vị nén (vị banh) : làm dập vỡ các tổ chức của tế bào, làm ngấm
chất dịch lên bề mặt lá trà, sau đĩ ngưng kết và được làm khơ để
cĩ thể dung giải khi pha chế sau này. Đồng thời để đạt hình thể
dạng viên xoăn trịn vừa tăng vẻ mỹ quan vừa giảm thể tích trà
thành phẩm tiện cho việc tồn trữ, bảo quản. Để đạt được yêu cầu,
quá trình sao, sấy, siết banh, vị banh lập đi lập lại rất nhiều lần.
157
Siết banh
Lăn banh
Đánh tơi
Sấy nĩng
Trà bán thành
phẩm
Hình 6 Lược đồ giai đoạn tạo hình
158
Hình 7: Dàn lăn banh
IX. Sấy khơ : nhiệt độ: 85 — 95 oC; thời gian : 120 — 140’.
159
Dùng máy sấy nhiều lần để làm giảm thủy phần đến 3 — 5%, ổn
định các chỉ tiêu về phẩm chất của trà, tăng hương thơm cho trà.
Hình 8: Máy sấy
X. Phân loại : tách trà cánh bạc, cọng, cám ra khỏi trà chính
phẩm.
160
XI. Đĩng gĩi: đĩng trong bao nhơm, rút chân khơng.
XII. Sản phẩm hồn chỉnh được bảo quản trong kho lạnh.
X. Mỗi một cơng đọan chế biến đều phải tuân theo quy trình
nghiêm ngặt cả về nhiệt độ lẫn thời gian. Thời gian để từ búp
tươi trở thành sản phẩm hồn thiện mất 36 tiếng và khoảng
4.5 kg trà tươi cho ra 1 kg thành phẩm. Để cĩ được trà ngon,
phải bảo đảm tuân thủ yêu cầu kỹ thuật từ khâu nguyên liệu
cho đến các cơng đoạn từ trà tươi sang trà khơ.
4.3.8.CƠNG NGHỆ SẢN XUẤT CHÈ LỎNG
4.3.8.1 CƠNG NGHỆ SẢN XUẤT NƯỚC TRÀ CHANH
Nguyên liệu:
Nguyên liệu dùng để sản xuất trà chanh bao gồm: chè khơ,
nước, đường saccharose, và một số nguyên liệu phụ như hương
chanh, axit citric, các loại Vitamin …
Chè
- Nguồn cung cấp: Cơng ty chè Thái Nguyên…..
- Kiểm tra chất lượng chè dựa theo TCVN 1455-1993 do Ban
Kỹ thuật thực phẩm biên soạn, Tổng cục Tiêu Chuẩn - Đo lường -
161
Chất lượng đề nghị và được Bộ Khoa học - Cơng nghệ và Mơi
trường ban hành theo Quyết định số 212/QĐ ngày 12 tháng 5
năm 1993.
Tiêu chuẩn này áp dụng cho chè xanh rời, được sản xuất từ
chè xanh đọt tươi theo phương pháp: Diệt men - Vị - Sấy (hoặc
sao khơ) - Phân loại.
Các chỉ tiêu kiểm tra chè nguyên liệu gồm các chỉ tiêu cảm quan
và chỉ tiêu hĩa lý của chè.
Chè nguyên liệu dùng để sản xuất nước trà chanh là loại chè xanh
đặc biệt đảm bảo chất lượng theo TCVN 1455-1993. Vì vậy khi
sản xuất trà xanh sẽ được đưa vào hệ thống trích ly ngay mà
khơng cần phải qua khâu xử ly nào.
Nước.
Nước là thành phần chính thứ hai sau nguyên liệu chè trong quá
trình sản xuất nước trà xanh hương chanh.Yêu cầu của nước sử
dụng phải đáp ứng các chỉ tiêu chất lượng cao đồng thời phải thỏa
mãn yêu cầu chất lượng nước uống thơng thường và phải cĩ độ
cứng thấp nhằm giảm tiêu hao axit thực phẩm trong quá trình chế
biến. Về bản chất nước dùng trong nước giải khát phải trong suốt,
khơng màu, khơng cĩ mùi vị lạ, khơng chứa vi sinh vật gây bệnh
cho người và gây nhiễm cho quá trình chế biến, đồng thời phải
162
thỏa mãn các chỉ tiêu hĩa học như độ cứng, độ mềm, độ oxi hĩa,
độ cặn
Đường(RE) – Saccharose
Đường saccharose chứa khoảng 8 – 10 %
trong nước trà chanh, được chế biến từ cây mía.
Tùy theo giống mía, đất đai và điều kiện canh
tác, hàm lượng mía cĩ thể từ 8 – 16 %. Khi sản
xuất lấy được 78 – 90 % lượng đường trong cây mía, trong điều
kiện sản xuất thủ cơng thu được 55 – 65 %.
Hiện nay trên thị trường cĩ hai loại đường chính là:
RE: là chữ viết tắt của Refined Extra - Đường tinh luyện
thượng hạng.
RS: là chữ viết tắt của Refined Standar - Đường tinh luyện
tiêu chuẩn.
Nhờ cĩ các máy sàng đa tầng, đường tinh luyện được phân ra
thành nhiều cỡ hạt khác nhau, đáp ứng nhu cầu đa dạng của
khách hàng. Tùy theo cỡ hạt mà đường RE cĩ các sản phẩm khác
nhau xuất hiện trên thị trường: RE thị trường - RE sản xuất - RE
hạt nhuyễn - RE hạt mịn …
Axit thực phẩm.
163
Tuy nĩ chiếm một lượng rất nhỏ nhưng nĩ là thành phần khơng
thể thiếu được trong cơng nghệ sản xuất nước trà chanh, nĩ tạo
cho nước uống cĩ vị chua dịu hấp dẫn. Loại axit thực phẩm được
sử dụng trong nước trà chanh là: axit citric.
*Axit citric( C6H8O7) (axit limonie)
Axít citric là một axít hữu cơ thuộc loại yếu và nĩ thường được
tìm thấy trong các loại trái cây thuộc họ cam quít. Nĩ là chất bảo
quản thực phẩm tự nhiên và thường được thêm vào thức ăn và đồ
uống để làm vị chua. Ở lĩnh vực hĩa sinh thì axít citric đĩng một
vai trị trung gian vơ cùng quan trọng trong chu trình axít citric
của quá trình trao đổi chất xảy ra trong tất cả các vật thể sống.
Ngồi ra axít citric cịn đĩng vai trị như là một chất tẩy rửa, an
tồn đối với mơi trường và đồng thời là tác nhân chống oxy hĩa.
Axít citric cĩ mặt trong nhiều loại
trái cây và rau quả nhưng trong
trái chanh thì hàm lượng của nĩ
được tìm thấy nhiều nhất, theo ước
tính axít citric chiếm khoảng 8%
khối lượng khơ của trái chanh.
164
Axít Citric:
Thơng tin tổng quát:
Tên chuẩn 2-hydroxypropane-1,2,3-
tricarboxylic acid
Tên thường Axít chanh
CTPT C6H8O7
SMILES (1) C(C(=O)O)C(CC(=O)O)(C(=O)O)O
Khối lượng
PT
192.13 g/mol
Cĩ dạng Tinh thể màu trắng
Số CAS (2) [77-92-9]
Tính chất
KL riêng 1665 kg/m3
Nhiệt độ
nĩng chảy
153ºC (307.4ºF, 426K)
Nhiệt độ sơi Phân hủy ở 175ºC
pKa pKa1=3.15
pKa2=4.77
165
pKa3=6.40
Phương pháp thu nhận.
+ Bằng phương pháp nuơi cấy vi sinh vật: lên men dịch đường do
tác dụng của ezym chứa trong chủng nấm mốc Aspergillus niger.
+ Tách từ phế thải của cơng nghệ sản xuất nicotin.
+ Tách từ rau quả như: chanh, cam...
Axit citric là tinh thể khơng màu, ngậm 1 phân tử nước. Hàm
lượng trong sản phẩm > 99%. Các tạp chất cho phép : độ tro >=
0,5%, lượng H2SO4 tự do < 0,05 %, hàm lượng Asen < 0,00014%.
Khi hịa tan trong nước cất dung dịch phải trong suốt, vị chua
tinh khiết khơng cĩ mùi vị lạ.
Vitamin:
Vitamin C
Axit ascorbic cịn được gọi là vitamin C được tìm thấy nhiều
nhất trong trái cây là chất dinh dưỡng rất cần thiết cho sự sống
của sinh vật. Ở lĩnh vực hĩa sinh, nĩ là chất chống oxi hĩa, tham
gia vào các quá trình tổng hợp enzim, tăng sức đề kháng, phục
hồi sức khỏe, đặc biệt ngăn ngừa bệnh scurvy ở người. Axit
ascorbic cịn được dùng làm chất bảo quản thực phẩm, hương vị
cho một số nước uống làm tăng giá trị dinh dưỡng. Lượng
166
vitamin C hiện nay được tìm thấy nhiều nhất là trong quả Billy
Goat plum (3150mg/100g). Trong 100g ớt đỏ cĩ 1900mg, trong
đu đủ, dâu, cam, chanh cĩ từ 40-60mg.
- Tên thơng thường: axit ascorbic, vitamin C
- Cơng thức phân tử: C6H8O6
- Cơng thức cấu tạo:
- Khối lượng phân tử: 176,13 g/mol
- Cĩ dạng: bột màu trắng đến vàng nhạt
(khan)
-Nhiệt độ nĩng chảy: 1930C (phân hủy)
-pKa:pKa1=4,17
pKa2=11,56
- Khả năng hịa tan trong nước: Cao
Tínhchất.
Dù trong CTCT khơng cĩ nhĩm –COOH nhưng vitamin C vẫn
167
cĩ tính axit. Đĩ là do trong phân tử cĩ hệ liên hợp p- π, π- π từ O
của nhĩm –OH đến O của C=O làm cho H của nhĩm –OH gắn
trên C cĩ nối đơi trở nên rất linh động, cĩ khả năng tách ra, vì thế
cĩ tính axit. Mặt khác, khi hịa tan vào nước, 1 lượng nhỏ sẽ bị
thủy phân tạo thành axit.
Ở nhiệt độ phịng, axit ascorbic ở dạng khan cĩ màu trắng cho
đến vàng nhạt. Nĩ cĩ tính chất hĩa học chung của các axit thơng
thường, cĩ khả năng bị oxi hĩa và bị phân hủy thành CO2 và
nước ở 193oC.
b.Sảnxuất.
Hiện nay, vitamin C vẫn chủ yếu được tổng hợp từ đường
glucozơ, nguồn nguyên liệu rẻ tiền.
Quy trình tổng hợp vitamin C từ đường Glucozơ:
Ngồi ra, cĩ thể chiết tách vitamin C từ nguồn nguyên liệu
thiên nhiên như chanh, cam, cà chua.v.v….
Vitamin B.
168
Vitamin B6 (Pyridoxin)
Vitamin B6 ở dạng pyridoxal phosphate (PLP), là coenzyme
của trên 60 phản ứng sinh hĩa chuyển hĩa protein và các acid
amin: các phản ứng chuyển nhĩm amin; phản ứng khử amin;
phản ứng khử carboxyl.
Ngồi phản ứng chuyển amin hĩa ra, vitamin B6 cịn tham gia
vào quá trình loại CO2 của các acid amin và liên quan đến cân
bằng năng lượng.
Piridoxin là tinh thể khơng màu, cĩ vị hơi đắng và hịa tan tốt
trong nước, rượu.Chúng bền trong mơi trường axit nhưng trong
mơi trường kiềm thì chúng bị phân hủy nhanh chĩng.
Vitamin B6 cĩ 3 dạng liên quan: pyridoxine, pyridoxal và
pyidoxamin. Trong các mơ cơ thể, vitamin tồn tại chủ yếu dưới
dạng phosphoryl hĩa và pyridoxal phosphate và pyridoxamin
phosphate.
Nguồn cung cấp: nấm men bia, thịt, cá….
Nhu cầu sử dụng: 2mg/ngày.
Vitamin B12 (Cobalamin)
Cấu tạo:
169
Vitamin B12 tham gia vào quá trình sinh học cần thiết cho
tổng hợp AND và do vậy, nĩ cần thiết cho quá trình phát triển và
phân chia tế bào.
Vitamin B12 là các tinh thể màu đỏ, khơng cĩ vị và mùi. Nĩ
tan tốt trong nước và rượu.
Nguồn cung cấp: gan, thịt, cá, trứng, sữa…
Nhu cầu sử dụng: 3 – 4 γ / ngày.
Các chất màu
Trong quá trình chế biến nước trà chanh, muốn cho nước cĩ
màu đẹp, hấp dẫn người ta sử
dụng thêm chất màu caramen nhĩm III.
Caramen là sản phẩm đường cháy thu được từ đường
saccharose khi đun nước tới 180 – 190oC, là chất lỏng màu sẩm
tối, hơi đắng nên gọi là keo đắng.
Đường cháy hịa tan tốt trong nước nên được dùng để tạo màu
đặc trưng cho sản phẩm trà xanh.
- Chuẩn bị dung dịch Cole – đường cháy.
Cole đường cháy(Caramen keo đắng) là chất màu tự nhiên
được bằng cách nấu saccharose trong nồi tới nhiệt độ 180 –
190oC, cao hơn so với nhiệt độ nĩng chảy của saccharose(tonc
saccharose= 160oC)
170
Khi nhiệt độ 190oC sẽ mất nước tạo thành
caramenlan(C24H36O18)màu vàng ĩng, lúc này dịch đường bị mất
khoảng 10,5% lit nước. Tại tời điểm này nếu thời gian kéo dài lâu
hơn thì sẽ chuyển thành caramelen(C36H50O25) mất khoảng 14%
nước . Khi nhiệt độ cao hơn 200oC sẽ bị mất khoảng 25% nước
và caramelin(C24H36O13) hình thành.Caramelan và caramelen hịa
tan tốt trong nước, cịn caramelin thì hầu như khơng hịa tan. Vì
vậy khi sản xuất cần caramen dừng lại khi tạo ra caramelen.
Cùng với hiện tượng mất nước để tạo caramen, dưới tác dụng
của khơng khí đường cịn bị oxy hĩa để tạo ra các sản phẩm
khác, phân hủy đường đến các axit hữu cơ bay hơi và khơng bay
hơi. Các chất này sẽ làm tăng tốc độ phản ứng vì vậy nấu đường
cháy khơng nên tăng quá 200oC.
Nếu dung dịch caramen cĩ nồng độ chất khơ 80% thì hiệu suất
đạt được từ 105% so với đường đem nấu.Khi chuẩn bị đúng kỹ
thuật và chất lượng tốt thì cường độ màu của dung dịch là 0,05%
sẽ tương đương với độ màu của 5 ml dung dịch iot 0,1N pha
trong 1 lit nước.
Màu được pha chế trong giới hạn tối đa cho phép và được giới
hạn bởi GMP.
Hương liệu
171
Hương chanh là một trong những nguyên liệu quan trọng trong
thành phần của nước trà chanh.Tuy chỉ chiếm số lượng rất ít
nhưng nĩ tạo cho nước trà cĩ hương thơm đặc trưng và hương
mát dịu.
Hương chanh là một chế phẩm, cĩ thể là đơn chất cũng cĩ thể là
hỗn hợp, cĩ nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp , tạo ra tồn bộ
hoặc một phần cảm giác mùi đặc trưng của nước trà xanh khi
uống.
Quy trình sản xuất nước trà chanh ( Trà C2)
172
4.3.8.2 Trà tan nhanh
Trà khơ Đường
Trích ly(100oC,320s)
Dịch trà Siro
Lọc
Nấu siro(80oC,5 phút)
Lọc
Phối trộn
Nước
Chất phụ gia Làm lạnh(8-10oC)
Bán thành phẩm
Thanh trùng
Chiết chai
Đĩng nắp, in date
Dán nhãn
Thành phẩm
Bã trà
Rửa chai
( to=60 – 65oC,
t = 15 – 20 phút)
Chai
Soi chai
173
Trà tan nhanh cĩ nhiều chất cĩ giá trị dinh dưỡng đối với cơ
thể con người, sử dụng thuận tiện, phù hợp với xã hội hiện đại,
khơng cĩ bã chè rác thải, sử dụng nhiều trong quân đội, hàng
khơng, hàng hải, hầm mỏ… Dùng làm nước giải khát, dược liệu,
chất màu thực phẩm… Cĩ nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng.
Sơ đồ cơng nghệ:
4.3.9. Biên pháp cơng nghệ cơ bản sản xuất trà lá già và ép
bánh
Trà xanh ép bánh là một loại sản phâm cĩ giá trị xuất khẩu
nhất là đối với một số dân tộc ít người ở Liên Xơ cũ, và Trung
Quốc, loại chè này dễ bảo quản vận chuyển đến những vùng sâu
vùng xa miền núi.
Nguyên liệu là trà xanh và bán thanh phẩm
Cơng nghệ hai cơng đoạn:
Chế biến chè già ướp bánh.
Nguyên liệu gồm hai loại: loại mặt chè bọc ngồi phải non
hơn và thường hái vào mùa thu, loại ruột gồm lá già hơn và cành
non cịn xanh hoặc nâu nhạt hái vào mùa đơng, trọng lượng là
Chè nguyên liệu khơ Chiết xuất Lọc Cơ đặc chân khơng
Sấy phun sương Trà (bột) bột hồ tan.
174
chiếm 70%, cành 30%, theo tài liệu Liên Xơ cũ, thành phần hố
học giống như chè non, nhưng hàm lượng ít hơn.
Cơ sở sinh hố của kỹ thuật chế biến trà lá già chủ yếu là
quá trình oxi hố ở nhiệt độ cao của các chất thành phần sinh hố
của lá già, nhất là các chất gây mùi hăng và đắng, ngày từ giai
đoạn đầu là 110 – 1200C để diệt hết men trong lá chè sau đĩ làm
nguội và sấy sơ bộ giảm độ ẩm cịn 18 – 20%, rồi đánh đống 15-
20 ngày, ủ chè ở nhiệt độ 55-600C tạo ra mùa sắc vàng và hương
vị, vị chè chát dịu và dễ chịu.
Sơ đồ cơng nghệ:
Sao chè: ở nhiệt độ cao thời gian 2-3 phút, để diệt men và
làm cho lá mềm dẻo và đàn hồi để sau này dễ vị; nhiệt độ thùng
sao là 250-3000C, khơng khí thốt ra là 110 – 1200C, nhiệt độ lá
chè là 65-750C, chất chát khơng cịn vị đắng ban đầu, màu xanh
clorophin biến thành màu xanh oliu, hương thơm chát dịu.
Đánh đống: chè chất thành đống dài và cao khoảng 1m,
trong 2-3 giờ; nhiệt độ mặt luống hạ thấp và nguội dần, cịn trong
đống vẫn là 50 – 600C, về chất là giai đoạn nhiệt luyện để tạo
màu xanh oliu và phá huỷ clorophin, diệt mùi hăng.
Vị chè: để làm dập tế bào và cuộn lá chè, thời gian 30-
40ph, khơng ép.
Sao chè Đánh đống Vị chè Sấy nhẹ ủ chè Sấy chè
175
Sấy nhẹ: ở nhiệt độ 80-950C để giảm độ ẩm của là chè ủ từ
550C xuống khoảng 20%.
Ủ chè: chè sấy xong được đảo tới trộn đều, cho nguội và
đồng đều, đánh đống chè và để ủ mổi đống 3 – 11 tấn chè, rồi dận
chặt tuỳ theo độ ẩm lá chè, đống chè tự bốc nĩng, sau 10-15 ngày
đêm tới 550C là hồn thành; giỡ riêng chè mặt và chè ruột trong
đống, rồi đánh đống mới , chè mặt cho vào giữa, chè ruột cho ra
ngồi, trong 5 ngày nhiệt độ ở giữa đống lên tới 45 – 500C là
được, giỡ chè và đem sấy khơ.
Sấy khơ: một lần, nhiệt độ 85-900C, 15-20ph cho đến khi độ
ẩm cịn 8-9%, cơng đoạn này rất quan trọng cho chè già, vì tăng
cường tác động của tanin với amino acid và glucid, đồng thời gây
sự biến đổi của các chất keo protid và pectin và sự caramen hố
của các chất đường, ngồi ra cịn loại trừ các chất hơi mốc tạo ra
trong khi ủ chè.
Sản xuất chè già theo phương pháp mới:
Sơ đồ cơng nghệ cũ gồm 6 cơng đoạn tiến hành khơng liên
tục nên khơng tận dụng được nhiệt độ của các giai đoạn để nhiệt
luyện chè tốt. Phương pháp mới chỉ mất khoảng 10 – 12 h mà
chất lượng vẫn tốt.
Sơ đồ mới bao gồm 3 cơng đoạn:
Sao và vị nĩng liên tục nhiệt luyện sấy khơ.
176
Sao vị nĩng liên hợp: trong thùng quay 28 vịng/phút đun
nĩng tới 280 – 3000C nhiệt độ khơng khí thốt ra là 110-1200C,
chè nĩng 50-750C trong thời gian 3 – 5 ph, chè sao xong rơi
xuống đáy vào một máy vị kiểu trục vít trong khoảng 13ph, ở
nhiệt độ 65 - 700C.
Nhiệt luyện: giữ chè ở trạng thái nĩng của cơng đoạn sao –
vị trong 10 – 12h để xúc tiến quá trình oxi hố các chất, chè sao
xong đưa vào một thùng gỗ dung lượng 120 – 200kg che, đậy kín
nắp để trong phân xưởng sấy, nhiệt luyện 10-12h ở 700C.
Sấy khơ: Sấy chè một lần trong máy sấy thường dùng ở
nhiệt độ 85–900C trong 10-12 ph cho đến khi độ ẩm cịn 8%.
Nhà máy chè Phú Thọ cũ cĩ kinh nghiệm sản xuất trà xanh
lá già gồm hai loại nguyên liệu tồn là già và nguyên liệu gồm lá
già và cành chè, trà bán thành phẩm đem phân loại bằng máy
sàng trịn phân loại 6, các loại trà thành phẩm đem trộn với nhau
theo tỉ lệ khác nhau để làm nhiều loại trà hương bán rất chạy ở thị
trường trong nước.
2.2.7 Trà xanh ép bánh
Sơ đồ cơng nghệ:
Hấp nĩng ép bánh sấy khơ.
Hấp nĩng: bằng nhiệt và ẩm để làm trà mềm dẻo tăng độ
dính bằng tạo ra chất keo từ protid và pectin… Cho trà vào khuơn
gỗ hay nhơm, đáy rút ra được, cho từng loại trà riêng rẽ làm mặt
177
và ruột vào khuơn, dùng hơi nước cĩ áp suất cao 6 – 7 at. Ở nhiệt
độ 95 – 1000C trong 1.5 – 2ph, sau đĩ theo băng truyền đi vồ
máy ép.
Ép bánh: Trà ở nhiệt độ 60-700C dùng trục ép cĩ áp lực p =
87 Kg/cm2 trong 10-12s, muốn bánh trà khơng vỡ, mịn đều cả 6
mặt bánh, thì dùng sức ép 100 – 110 kg/cm2 giữ nguyên trong
60ph mới giỡ.
Sấy khơ: trà bánh cĩ độ ẩm 15 – 16%, cần sấy khơ cịn 11 –
12% khơng được bong hoặc nứt bằng cách xếp bánh trà như xếp
gạch nung trong phịng sấy ở nhiệt độ 34-360C, độ ẩm khơng khí
50-55%, trong 15-20 ngày đêm.
Bánh trà ở Liên Xơ cũ chia 2 loại:
Loại 3Kg = 32 x 23 x 3cm
Loại 2Kg= 35 x 16 x 3 cm
4.4 Cơng nghệ bảo quản chè
4.4.1 Giới thiệu chung:
Trà là một sản phẩm hút ẩm và mùi lạ rất nhanh và mạnh; dẫn
đến mốc meo mùi lạ, giảm phẩm chất nhanh chĩng, nếu khơng
được bảo quản tốt. Các nước sản xuất – kinh doanh trà đã cĩ
178
rất nhiều cải tiến kỹ thuật trong bảo quản và vận chuyển
trà.Thuỷ phần cịn lại của chè là yếu tố quan trọng vì chính
thuỷ phần này ảnh hưởng đến chất lượng theo thời gian bảo
quản. Thuỷ phần làm thay đổi tính chất của chè như thế nào,
chất lượng thay đổi ra sao, phải điều chỉnh thuỷ phần cịn lại
đến mức nào mà vẫn giữ được chất lượng tốt khi đến tay người
tiêu dùng. Ngồi ra thuỷ phần cịn lại thay đổi ra sao, khi bảo
quản sản phẩm và mức thuỷ phần tối ưu để tránh tổn thất cho
nhà máy trong quá trình chế biến. tất cả yếu tố này cần được
nghiên cứu xác dinh đầy đủ, từ đây thiết lập mức thuỷ phần tối
ưu và xác định giới hạn nào là chất lượng chè cĩ sự thay đổi rõ
rệt nhất. Ngồi ra cùng với sự phát triển khơng ngừng của
Khoa học cơng nghệ mà cơng đoạn bảo quản chè khơng ngừng
thay đổi và ngày càng hồn thiện
4.4.2 Cơng nghệ bảo quản chè trên thế giới:
Người Trung Quốc đã dùng những thùng được làm từ tre, gỗ,
sành sứ hoặc những thùng được làm từ kim loại để bảo quản
chè. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc cho rằng: chè rất dễ hút
ẩm và hấp thụ mùi vì vậy khi bảo quản chè thành phẩm phải
được bảo quản kín trong mơi trường khơ ráo, đồng thời khơng
cĩ mùi lạ
179
Hương vị chè thay đổi nguyên nhân chủ yếu là do độ ẩm chè
khi bảo quản tăng lên. Ngồi ra ánh sáng cĩ tác động khơng
kém phần quan trọng. theo Jim Harron, một trong những người
nghiên cứu chè tại New York cho biết: “ Độ ẩm và ánh sáng là
2 yếu tố cần tránh khi bào quản chè”. Độ ẩm cao cĩ nguy cơ
gây hỏng chè cao hơn là ánh sáng. Một số cơng ty bảo quản
chè xanh và chè đen ở New York đưa ra vấn đề bao gĩi chè
bảo quản trước hết phải xuất phát từ 2 yếu tố là độ ẩm và ánh
sáng. phải chọn loại bao bì tránh thấm khí và hút ẩm … quan
điểm này cũng đồng nhất với các nhà nghiên cứu cũng như các
cơ sở sản xuất chè ở các nước trên thế giới.
Bao bì trong bảo quản chè rất quan trọng, nếu lựa chọn bao bì
khơng hợp lý chè sẽ bị lão hố nhanh theo thời gian, màu sắc
của nước pha, mùi và vị giảm mạnh. Theo Gertrude H. Ford
Tea Co. ở Poughkeepside, New York đã nghiên cứu một thời
gian dài cho thấy: bảo quản chè trong bao kim loại nhưng nhất
thiết phải đặt nơi cĩ nhiệt độ thấp, khơ thời gian bảo quản chè
kéo dài hơn một năm mà chất lượng vẫn đãm bảo. Chất lượng
của chè bảo quản khác nhau khi bao bì bảo quản khác nhau là
khác nhau, tùy theo mục đích sử dụng mà ta cĩ thể cĩ các cách
180
thức bảo quản khác nhau. Ở một số nước thương dùng những
thùng làm bằng gỗ cứng. kim loại hoặc catton.
Paulette Rigolli of Blue Ridge Tea & Herb Co.,LTD tại tỉnh
Brooklyn, New York cĩ kết luận bảo quản chè bằng màng PE
cũng khả quan nhưng màng PE rất dễ bị thủng, rách khĩ kiểm
sốt trong quá trình vận chuyển. Do đĩ kết hợp với bảo quản
bằng thùng gỗ, trước khi đặt vào thùng gỗ chè phải đặt trong
túi PE. Hầu hết bảo quản chè chủ yếu để phục vụ cho xuất
khẩu nên việc chọn bao bì để dễ dàng cho khâu vận chuyển
bằng đường biển từ quốc gia này sang quốc gia khác, chè được
bảo quản trong bao bì nhựa dẻo cĩ độ dày nhất định và được
đặt vào thùng gỗ dán thì đảm bảo trên đường vận chuyển
bảo quản chè ở nhiệt độ thấp ( 3 2 C) kết hợp với nạp khí CO2
cũng cho kết quả rất khả quan đĩ là kết quả nghiên cứu của
Hashimoto, Massaki Ishda, Katsumori ở Iwatani Co., Ltd
Maruyasu K.K, Japan.
Ananthacumaraswamy, S; Singh, ID ở viện nghiên cứu chè ở
Srilanca đã nghiên cứu những hợp chất thay đổi chủ yếu ảnh
hưởng tới chất lượng của chè đen trong thời gian bảo quản là
pholypheol, teaflavin, tearbugin, pholyphenoloxydase..
181
Khi nghiên cứu về ảnh hưởng của nhiệt độ bảo quản đến chất
lượng chè, Haraguchi, Yashiro, Sano, Hitoshi của trung tâm
nghiên cứu và phát triển chè Nhật Bản cho thấy nếu bảo quản ở
nhiệt độ thấp (-7 đến 4 0 C) chất lượng chè tốt trong 24 tuần.
Hơn thế nữa, bảo quản ở nhiệt độ phịng cĩ điều hồ chất lượng
chè cũng tốt trong 24 tuần nhưng khơng bằng bảo quản chè ở
nhiệt độ thấp. Tuy nhiên, nếu bảo quản ở nhiệt độ cao (37 0 C)
chất lượng chè chỉ khá trong 7-8 tuần.
Ngồi một số cơng ty chuyên bao gĩi chè bảo quản ở Trung
Quốc, Nhật Bản và Nga thì thường xuyên sử dụng màng chất
dẻo cùng với thùng Cacton, hoặc bảo quản chè trong những
thùng bằng sành sứ đặt nơi khơ ráo trong bĩng tối. Đến nay,
bảo quản chè trong túi lá kim loại được hút chân khơng cũng
đang được thử nghiệm
4.4.3Cơng nghệ bảo quản chè tại Việt Nam:
Hiện nay một số cơng ty sản xuất chè trong nước đã điều chỉnh
chè ở mức thủy phần 8% nhưng theo điều kiện bảo quản chất
lượng chè nhanh xuống cấp. Nhiều khách hàng nước ngồi
phàn nàn về việc xuống cấp nhanh của chè Việt Nam do điều
kiện bảo quản chưa đạt yêu cầu, nên chất lượng của chè xuất
182
khẩu chưa được đảm bảo. Đĩ cũng là một phần nguyên nhân
làm cho chè Việt Nam chưa cĩ chỗ đứng trên thịtrường thế giới
Việt Nam đã cĩ TCVN 1457-83 chè đen, chè xanh. Bao gĩi,
ghi nhãn, vận chuyển và bảo quản. Tiêu chuẩn này áp dụng cho
chè xuất khẩu.
Bao bì nhãn khác, thương hiệu trước đây cũng rất ít được
quan tâm, nhưng trong hội nhập thương mại thế giới WTO vào
những năm tới, đây là một vấn đề quan trọng cho sự thành đạt của
sản xuất – kinh doanh, phải coi là khoản đầu tư khơng thể thiếu.
Tĩm lại Với cơng nghệ kỹ thuật cịn non, yếu , ngành chè
Việt Nam cịn phải phấn đấu liên tục để đáp ứng yêu cầu hội nhập
.
Mới đây, Hiệp hội Chè Việt Nam đã đưa ra cảnh báo khả năng
ngành chè mất thị trường EU sau khi Anh và nhiều nước châu Âu
đưa ra thơng báo báo về việc dư lượng thuốc bảo vệ thực vật
trong các sản phẩm chè xuất khẩu của ta vượt ngưỡng cho phép
nhiều lần.
Một lần nữa, câu chuyện về chất lượng của các sản phẩm
chè lại được nĩi đến như hệ quả của sự mất cân đối giữa sự phát
triển ồ ạt của các cơ sở chế biến chè dẫn đến việc khai thác cạn
183
kiệt các vùng nguyên liệu. Tình trạng cũng sẽ đe dọa khơng nhỏ
đến mục tiêu tăng kim ngạch xuất khẩu của ngành chè đạt khoảng
18-20%, tương đương 140 triệu USD trong năm 2007.
Chỉ tính riêng các doanh nghiệp chế biến chè chúng ta cĩ 650 cơ
sở cơng nghiệp với tổng cơng suất trên 3.100 tấn búp tươi/ngày.
Với sản lượng 546.000 tấn chè búp tươi năm 2005 chỉ đáp ứng
được khoảng 88% nhu cầu nguyên liệu chè búp của các cơ sở chế
biến này.
Ngồi ra cịn cĩ hàng trăm cơ sở chế biến chè thủ cơng bán cơng
nghiệp cùng tham gia thu mua nguyên liệu để sơ chế và nhiều cơ
sở đấu trộn ướp hương đĩng gĩi chè. Do thiếu nguyên liệu nên
nhiều cơ sở khơng quan tâm đến chất lượng nguyên liệu đầu vào,
đặc biệt kiểm sốt dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trên chè, giá cả
thu mua khơng hợp lý nên khơng khuyến khích người sản xuất
coi trọng chất lượng nguyên liệu, thiếu chăm sĩc vườn chè đúng
quy cách, dẫn đến năng suất chè bình quân của cả nước chỉ đạt
5,7 tấn/ha (mà nếu chăm sĩc tốt nhiều vườn chè cho năng suất
20-25 tấn/ha.
Bên cạnh đĩ, trang thiết bị cơng nghệ chế biến lạc hậu nên hầu
hết chè Việt Nam được xuất khẩu ở dạng nguyên liệu, chè thành
184
phẩm mới chỉ chiếm 7% tổng kim ngạch xuất khẩu, chè nguyên
liệu chiếm xấp xỉ 80%.
Một số lãnh đạo quản lý ngành chè lại cĩ quan điểm giá tăng
như vậy thì nơng dân sẽ được lợi, nhưng về lâu dài, theo các
chuyên gia trong ngành, khi giá đẩy lên thì chất lượng chè kém
đi. Khi hái chè, thơng thường người trồng chè chỉ ngắt một búp, 2
lá, nhưng bây giờ họ dùng liềm cắt cành dài khiến cây chè bị tổn
thương, khĩ cĩ thể khơi phục vườn chè nhanh được.
Chất lượng chè kém đi thì xuất khẩu sẽ giảm sút. Với cơ cấu
trên 2/3 sản lượng chè được sản xuất dành cho xuất khẩu, trong
khi chỉ cĩ non 1/3 tiêu dùng trong nước. khi kim ngạch xuất khẩu
giảm tất yếu sẽ dẫn đến chuyện đình đốn trong sản xuất.
Chính vì thế chúng ta cần phải cĩ biện pháp giúp ngành chè
Việt Nam thốt khỏi tình trạng hiện nay, đưa giá chè Việt Nam
lên ngang hàng với các nước, muốn làm được điều này phải cĩ sự
hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan lãnh đạo và bà con nơng dân
nhằm cải tiến kỹ thuật trồng trọt và chế biến để chất lượng chè
ngày một tăng . Đồng thời cần thực hiện mộ số giải pháp để phát
triển nghành chè Việt nam như sau :
185
- Về quy hoạch vùng nguyên liệu: trên cơ sở địa hình, thỗ
nhưỡng, khí hậu và quỹ đất hiện cĩ ở địa phương, quy hoạch
vùng nguyên liệu chè theo hướng khai thác lợi thế của từng vùng,
cĩ kế hoạch phục hồi thâm canh 70.000 ha chè hiện cĩ, đồng thời
tập trung trồng mới chủ yếu ở các tỉnh miền Bắc, cụ thể là:
Đối với vùng cao: trồng chè cổ thụ như chè Shan tuyết, chè đặc
sản khoảng 10.000 ha ; Đối với vùng thấp: trồng chè đốn khoảng
20.000 ha; Hình thành một số vùng chè cao sản để sản xuất các
loại chè cĩ chất lượng cao về chè hữu cơ để cung cấp cho thị
trường trong nước và xuất khẩu.
- Về thị trường: Bộ Thương mại chủ trì phối hợp với bộ
Nơng nghiệp và PTNN, các Bộ ngành cĩ liên quan giải quyết tốt
thị trường, cụ thể là:
Củng cố và mở rộng thị trường Trung Cận Đơng; Khơi phục thị
trường các nước Đơng Âu và Cộng hịa Liên bang Nga;Tham gia
thị trường Nhật Bản và Đài Loan bằng các hình thức liên doanh,
liên kết, bao tiêu sản phẩm; Mở thêm thị trường mới ở Bắc Mỹ và
các nước Châu Âu.
186
- Về chính sách đầu tư và tín dụng: trên cơ sở đầu tư hợp
lý, tính đủ theo hướng thâm canh. Nhà nước cĩ hỗ trợ đầu tư
và tín dụng phù hợp cụ thể là:
Đối với chè trồng ở vùng cao coi như rừng phịng hộ (chè
cổ thụ). Được áp dụng chính sách hỗ trợ như trồng rừng phịng hộ
tại Quyết định số 01/1988/QĐ TTg ngày 29 tháng 07/1998 của
Thủ tướng Chính phủ về triển khai dự án trồng 5 triệu ha rừng,
mức hỗ trợ là 2,5 triệu/ha, lấy từ nguồn vốn trong kế hoạch trồng
rừng hàng năm, phần vốn cịn lại do người trồng chè tự đầu tư
bằng vốn tự cĩ hoặc vốn vay; Đối với trồng chè cĩ đốn, huy động
mọi nguồn vốn để phát triển vùng nguyên liệu chè như mục tiêu
đã đề ra, bao gồm:Vốn ngân sách nhà nước đầu tư hỗ trợ, xây
dựng các cơng trình thủy lợi đầu mối, nghiên cứu khoa học và
cơng nghệ, khuyến nơng chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới về cây
chè;Vốn tín dụng ngân hàng: bảo đảm kịp thời vốn vay cho nhu
cầu của người trồng chè;Vốn nước ngồi bằng các hình thức liên
doanh, liên kết, vốn ODA.
- Về giá cả: quy định giá mua chè tươi hợp lý, đảm bảo lợi ích
của người trồng chè. Giao chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh
cĩ trồng chè, sau khi tham khảo ý kiến của ban vật giá Chính
187
phủ, cơng bố giá mua chè tươi nguyên liệu tối thiểu ngay từ
vụ đầu, để hướng dẫn các cơ sở mua chè nguyên liệu. Từng
bước hình thành quỹ hỗ trợ cho sản xuất nguyên liệu. Bộ
Nơng nghiệp và PTNN chủ trì phối hợp cùng các bộ Tài
chính, Kế hoạch và Đầu tư, Ban vật giá Chính phủ và các
Bộ, ngành cĩ liên quan lập đề án, cơ chế sử dụng trình Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt.
- Về khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế: Tiếp tục
đổi mới cơ chế quản lý nơng trường quốc doanh, thực hiện
giao đất khốn vườn chè cho hộ gia đình, cơng nhân viên
nơng trường và nhân dân trong vùng, nơng trường chuyển
sang làm dịch vụ vật tư kỹ thuật, chế biến và tiêu thụ sản
phẩm Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư trồng,
chế biến chè, phát triển mơ hình kinh tế trang trại.
-Về khoa học và cơng nghệ mơi trường: Tuyển chọn, lai tạo các
giống chè mới cĩ năng suất, chất lượng cao và tổ chức chuyển
giao nhanh đến hộ gia đình; Hình thành vùng chuyên canh tập
trung sản xuất chè sạch, khơng dùng hĩa chất độc hại, tăng sức sử
dụng phân hữu cơ, phân bĩn vi sinh, phịng trừ sâu bệnh
188
189
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Nguyễn Văn Bình và cộng sự:- Giáo trình cây cơng nghiệp
NXB Nơng Nghiệp 19985/
2/ Viện nghiên cứu chè - Những nghiên cứu kỹ thuật và ứng dụng
trong ngành chè,1991
3/ Viện nghiên cứu chè - Tổng quan chiến lược phát triển chè
1997-2000, Bộ NN và PTNT
4/ Ngơ Hữu Hợp: - Bảo quản chè – Trường ĐHBK Hà Nội,2001
5/ Tống Văn Hằng – cơ sở sinh hĩa và kỹ thuật chế biến trà,NXB
TPHCM,1985
6/ Đặng Hạnh Khơi: - Chè và cơng dụng NXB KHKT, Hà
Nội,1983
7/ Đỗ Ngọc Quỹ - Nguyễn Kim Phong – Cây chè Việt Nam NXB
KHKT 1998
190
8/ Đỗ Ngọc Quỹ - Cây chè* Sản xuất * Chế biến * Tiêu thụ, NXB
nghệ An, 2003
9/ Vietnamnet: Thị trường – bài tốn khĩ của chè Việt Nam
(20/06/2003)
10/ www.vitas.org.vn
11/ www.stashtea.com
12/ www.greentealovers.com
13 / www.teasa.com
14/ Một số hình ảnh về cây chè: quá trình sản xuất,chế biến và
sản phẩm( theo nguồn của Stash Tea companies )
191
Tản mạn về Trà & Trà Đạo.
Lý Lạc Long
Hầu như mọi dân tộc, mọi xứ sở trên trái đất đều
biết uống trà. Theo ước tính, đây là loại nước uống
phổ biến nhất sau "nước" và mỗi ngày thế giới tiêu
thụ chắc khơng dưới một tỉ tách trà đủ các loại.
Theo sách vở ghi lại thì tục uống trà của nhân loại
bắt nguồn từ Trung Quốc. Theo cuốn Trà kinh, của
Lục Vũ viết năm 780 (Lục Vũ là một cuồng sĩ đất
Hồng Tiệm đời Ðường, thường lang thang ngâm thơ
rồi khĩc. Ơng để lại cho đời sách Trà Kinh gồm ba
quyển bàn về trà, gốm trà, cách pha và uống trà,
được người đời sau gọi là ơng tiên trà, thờ làm ơng
tổ của trà đạo Trung Quốc) thì uống trà bắt đầu từ
thời Thần Nơng, truyền sang Chu Cơng nước Lỗ.
192
Như vậy lồi người biết uống trà vào khoảng năm
3300 - 3100 trước Cơng nguyên. Qua các thời đại
Trung Quốc, tục uống trà và tác dụng của cây trà
ngày được nâng cao và khai thác triệt để. Cách
uống trà cũng theo những con đường buơn bán tơ
lụa, đồ gốm và qua sự giao lưu của các thương gia
tỏa ra khắp thế giới.
Cuối thế kỷ 11 đầu thế kỷ 12, cùng với thiền, trà ở
Trung Hoa tràn sang Nhật. Người Nhật tiếp thu cả
hai thứ văn hố vật chất và tơn giáo này, đem nĩ
hồ quyện với văn hố bản địa và nâng lên thành
triết lý riêng của dân tộc Nhật gọi là Trà đạo. Theo
truyền thuyết Nhật, vào khoảng thời gian này, cĩ
một vị cao tăng người Nhật là sư Eisai (1141-1215),
sang Trung Hoa để tham vấn học đạo. Khi trở về
nước, sư Eisai mang theo một số hạt trà về trồng
trong sân chùa. Sau này chính Eisai này đã sáng tác
ra cuốn "Phẩm Trà Dưỡng Sinh Ký" (Kissa Yojoki),
nội dung ghi lại mọi chuyện liên quan tới thú uống
193
trà. Những cơng dụng của trà về mặt y khoa và
hương vị hấp dẫn đặc biệt của trà đã thu hút nhiều
người dân Nhật đến với cái thú uống trà. Họ đã kết
hợp thú uống trà với tính Thiền của Phật giáo để
nâng cao nghệ thuật thưởng thức trà, phát triển
nghệ thuật này trở thành trà đạo. Trà đạo phát triển
dựa trên triết lý xem uống trà như là một thú tiêu
khiển thanh tao và nghi lễ của việc uống trà do các
sư Thiền tơng đặt ra để giữ cho họ thức tỉnh. Đến
đời thiền sư Senno Rikyu (1521-1591) thì trà đạo ở
Nhật thực sự trở thành một nghệ thuật gắn liền với
đời sống thiền thơng qua việc định nghĩa các yêu
cầu của trà đạo như là sự hài hịa, tĩnh lặng, thanh
khiết và trang trọng. Như Kakuzo Okakura đã viết
trong cuốn "Quyển sách về Trà" xuất bản vào năm
1906: "Trà đạo là một giáo phái được sáng lập dựa
trên lịng tơn thờ cái đẹp, cái đẹp giữa những thực
tế nhớp nhúa trần ai. Trà đạo bao gồm những nghi
lễ thiêng liêng thấm đượm chất tâm linh tơn giáo,
biến việc uống trà trở thành một cuộc lễ. Bất cứ
194
một thiền thất nào của mơn phái Trà đạo đều cĩ
những trà thất. Tuy được xây dựng hết sức giản dị,
tự nhiên nhưng được coi là nơi thiêng liêng nhất. Đĩ
là những gian nhỏ được ghép bằng tre, gỗ, lợp
tranh rất nguyên sơ. Trong nhà bài trí một vài bức
thư pháp cổ, hoặc tranh thuỷ mạc. Một bếp đun
nước, một lị hương thơm, một lọ hoa cắm chỉ một
bơng như mọc lên từ kẽ đá. Ngồi trong căn phịng
lặng im nghe tiếng nước sơi nhè nhẹ như tiếng giĩ.
Người ta cảm thấy như ngồi giữa một thảo am nơi
sơn dã, chỉ cĩ mây trắng và tiếng nhạc thiên nhiên
làm bạn, lịng cảm thấy thanh thốt. Con người như
vượt lên trên những giới hạn tương đối và một
thống nhìn vào vĩnh cửu. Ấm trà được sắp lên toả
hương thơm thanh cao, tinh khiết. Uống chén thứ
nhất thấy lịng tĩnh lặng, tâm khơng cịn dao động,
tự soi được vào cõi tâm mình. Thiền nhân gọi đĩ là
trạng thái vấn tuệ. Uống xong chén thứ hai thấy nơi
ấn đường ấm nĩng, tư duy thiền sắp được khai
thơng. Uống xong chén thứ ba cả hai trạng thái trên
195
đều biến mất. Thân xác như hồ vào trời đất. Người
ta nĩi đĩ là đạt tới thiền và là Trà đạo."
Theo hai cuốn sách “The Empire of Tea: The
Remarkable History of the Plant That Took Over the
World” ( Đế Quốc Trà ) của Alan Macfarlane and Iris
Macfarlane và “Tea: Addiction, Exploitation, and
Empire” (Trà: Nghiện, Bĩc Lột, và Đế quốc) của Roy
Moxham mới xuất bản gần đây thì các tác giả người
Anh này thuật lại thì các nhà buơn bán Tây phương
để ý đến trà vào khoảng thế kỷ 17. Cuốn “Đế quốc
trà” mở đầu với một hồi ký ngắn và cảm động của
Iris về nhận thức văn hĩa mà bà mang theo cùng
chồng đến nơng trại trồng trà Assam. Bà viết: "Tơi
lớn lên với tất cả những mưu mẹo, những lời nĩi
hoa mỹ : rằng ‘Bên ấy ở Ấn Độ’ cĩ những người da
ngăm thấp kém khơng thể cứu chữa, những người
rất may mắn được chúng ta cai trị". Sau đĩ thì tác
giả kể lại những tình trạng đối xử tàn bạo đối với
những cơng nhân làm việc trong các nơng trại trồng
196
trà, những hồi tưởng buồn bã. Cuốn "Đế quốc trà"
phân tích một cách dí dỏm sắc nước của trà và qua
đĩ suy luận về vai trị của trà trong việc duy trì một
hệ thống trật tự xã hội theo đẳng cấp ở Anh. Tác
giả cịn tìm cách trả lời một câu hỏi : Cĩ phải quả
thật trà đã thuần hĩa người Anh? Cĩ phải trà làm
cho những người da trắng, thích ăn thịt đỏ và uống
bia trở thành những người hiền lành hơn và dễ mến
hơn? Khơng! Đĩ là câu trả lời. Những người Anh,
chủ đồn điền trà, khinh miệt cơng nhân người bản
xứ, họ cho đĩ là những cu-li (coolies). Họ đối xử tàn
bạo đối với những phu người địa phương và gây cho
cái chết cho hàng trăm ngàn người. Theo thống kê
của Moxham, cho đến năm 1900, hơn 200 ngàn
mẫu trà được khai khẩn và trồng trong rừng Assam,
và nĩ làm mất đi sinh mạng của hàng trăm ngàn
người phu Ấn Độ nhưng chỉ vài mạng người Anh. Đĩ
chỉ là một thảm nạn trồng trà ở vùng Assam; nhiều
thảm nạn cịn xảy ra ở Darjeeling, Tích Lan
(Ceylon), và nhiều nơi khác. Quy trình sản xuất trà
197
ở Ấn Độ được mơ phỏng theo cách tổ chức sau cuộc
Cách mạng kỹ nghệ: giờ làm việc dài, điều kiện làm
việc cực xấu, và thiếu an tồn. Macfarlane viết:
“Cơng nhân trở thành một phần của bộ máy sản
xuất khổng lồ. Trong bộ máy đĩ họ là những con
người làm việc khơng hồn. Cái giá nhân sinh mà con
người phải trả cho những cơng việc nhàm chán và
khơng cần đến trí ĩc, đĩ là chưa kể đến tình trạng
cơng nhân phải đứng hết giờ này sang giờ khác để
hái trà. Thật khĩ tưởng tượng nổi!”
Trà, ngồi là thức uống và những cơng dụng tốt cho
sức khỏe , cái ''lá cây thơm ngát" này đã là đề tài
làm say mê nghệ nhân để sáng tạo ra những bình
sứ thời xưa ở Việt Nam, Nhật Bản và Trung Hoa. Trà
đã là chất xúc-tác khuyến khích các tay thực dân Âu
châu ; là chất châm ngịi cuộc chiến tranh Nha
phiến; là cảm hứng cho cho những nhà thiết kế
thuyền bè vào thế kỷ 19th; và là một trong những
198
nguồn cung cấp sinh lực cho cuộc Cách mạng kỹ
nghệ .
Gần đây ở Việt Nam cĩ nhiều "trà quán" mở cửa
theo nhu cầu của thị trường, tơi tình cờ đọc một số
bài viết so sánh và tỏ ý ngưỡng mộ nghệ thuật
uống trà của Nhật và Trung Hoa. Phải cơng nhận là
các nước khác thành cơng hơn Việt Nam trong việc
quảng bá truyền thống tốt đẹp của dân tộc họ. Trà
đạo của Nhật nổi tiếng đã lâu, và Trung Hoa thì
cũng vậy. Mặc dù theo truyền thuyết thì Việt Nam
đã biết đến trà từ thời Ðơng Hán và trà đạo Việt
thành hình khoảng vào đời nhà Ðường. Sách Trà
Kinh của Lục Vũ nhập đề rằng "trà là lồi cây lớn ở
phương nam". Chứng tích trà đạo Việt cịn lưu lại
trên những bình bát trà gốm Việt Dao từ thời Bắc
thuộc, lên đến tột đỉnh thời Lý, Trần, thời Phật giáo
thịnh nhất trong lịch sử VN. Trà đạo Việt là đạo mà
khơng đạo, đạo vơ mơn quan: khơng cửa vào,
khơng lối ra. Cũng như Việt Nam, lúc bấy giờ Phật
199
giáo ở Nhật bén rễ vào giới thế quyền. Tăng sư là
khách quý của các sứ quân và các phú hào. Họ học
Phật rồi tiêm nhiễm luơn đạo thưởng trà. Uống trà
nhằm luyện con người khu trừ những chướng ngại
phiền não, để đạt chỗ rốt ráo của an bần lạc đạo,
hịa đồng với Tự Nhiên, tức là Chân Như. Và uống
trà, hành trà đạo phải cĩ các trà khí mà ngành gốm
Nhật bấy giờ rất phơi thai. Nên trà gốm từ Cao Ly,
Trung Hoa, Ðại Việt đưa sang giá đắt, chỉ được xử
dụng giới hạn trong hàng sứ quân và đại phú. Thay
vì hấp thu nếp thanh bần, họ bèn mượn trà đạo làm
trị trà dư tiêu khiển, đặt ra các quy tắc kiểu cách
(Cha No Yu), muốn vào phải qua cổng Hữu Mơn
Quan. Trà đã đưa thiền vị đạm bạc vào trú ngụ chỗ
đền các xa hoa. Trong khuơn viên cung đình nguy
nga, các lãnh chúa sai dựng nên trà thất bắt chước
lều cỏ bần hàn của ẩn sĩ để hành trà đạo. Cịn bên
nước Việt, đạo đã từ cung cấm ra đi, bỏ phú quý
phù vân để phiêu bồng nơi cảnh thật của "rừng trúc
lắm chim" (Trúc lâm đa túc điểu) như thơ ngài
200
Huyền Quang. Các vua Lý, Trần bỏ kinh về núi, thực
hiện hạnh tầm đạo, dẫm theo bước chân của đức
Phật. Đây là chỗ khác biệt trong lịch sử thiền đạo
Việt - Nhật .
Thời đại chúng ta đang sống, kỹ thuật hiện đại cho
phép mọi người tiếp xúc với mơi trường bên ngồi,
với các nền văn hố khác nhau trên thế giới, tạo
điều kiện cho việc học hỏi các điều mới lạ và bổ ích
để mở mang kiến thức , để áp dụng cho lợi ích của
bản thân và đất nước . Nhưng chúng ta phải biết
gạn lọc và đừng quên gốc rễ của mình. Ngưỡng mộ
, thích và trân trọng Trà đạo của Nhật Bản hay
Trung Hoa thì cũng tốt, nhưng so sánh và chê bai
nghệ thuật và phong cách uống trà hay trà Việt
Nam là một điều khơng đúng và nhất là khi dựa vào
chỉ mấy "trà quán" phục vụ nhu cầu nhất thời của
thị trường. Cái áo Kimono của Nhật, áo sường - sám
của Trung Hoa, cái áo dài của Việt Nam.... mỗi cái
cĩ những nét đẹp riêng. Ở đời khơng cĩ gì là tuyệt
201
đối hồn hảo. Và người ta thường nĩi " cĩ nằm
trong chăn mới biết chăn cĩ rận", và khơng cĩ một
quốc gia nào hồn hảo hơn một quốc gia nào. Tách
trà thơm ở Việt Nam đã từ lâu là quà đĩn khách, là
tâm tình của chủ nhà với khách viếng thăm. Khơng
thể nĩi là vì người VN khơng pha chế trà cầu kỳ như
người Nhật hay người Trung hoa và vì vậy mà thịnh
tình của chủ với khách suy giảm. Phần tơi thì với
nghệ thuật uống trà theo Trà đạo của Nhật bản hay
Trung hoa thì cũng rất ngưỡng mộ, và áo Kimono
hay sường sám, cũng rất đẹp mắt... Nĩi cách khác
là tơi chỉ "cỡi ngựa xem hoa" . Nhưng tách trà Việt
nam tơi sẽ pha đãi khách và chiếc áo dài VN vẫn là
đẹp nhất , gần gũi thân thương nhất. Lý do rất đơn
giản : Vì tơi là người Việt Nam .
Riêng về phong cách uống trà hay thiền đạo thì vơ
mơn quan (Việt Nam) hay hữu mơn quan (Nhật
Bản) ... "tốt" hơn ? Tơi xin phép gởi đến các bạn câu
truyện "Trà Đạo" dưới đây :
202
"Khách đến viếng một trà thất, chủ nhân tiếp đĩn
theo nghi phong trà đạo Nhật Bản, khách thì lại cứ
rĩt uống tự nhiên khơng theo luật lệ nào cả. Chủ
nhân liền thuyết trình về trà đạo, về cách pha trà và
phong thái uống trà … v.v. Nghe xong khách nĩi:
- À, thì ra trà đạo là vậy. Tơi lại tưởng đạo trà là
khát thì uống thơi chứ.
Rồi khách xuất khẩu ngâm:
Xưa nay trà là đạo.
Khát cứ việc uống thơi.
Nghĩ thêm trà với đạo.
Ðầu thượng trước đầu rồi!"
Mời các bạn tách trà thơm (pha kiểu Việt Nam) và
chúc tất cả một cuối tuần như ý .
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cây chè và kỹ thuật chế biến (202trang).pdf