Ruột non của gia cầm đầu trên giáp với dạ dày cơ, đầu dưới
giáp với manh tràng. Ruột già của gia cầm không phát triển, nó do
trực tràng thô ngắn và 2 manh tràng đổ vào đoạn đầu trực tràng tạo
thành.
Thành ruột cũng có lớp nhung mao nhăn nheo. Các tuyến tiêu
hoá phân bố suốt dọc thành niêm mạc ruột. Riêng gà và gà tây không
có tuyến tá tràng (tuyến Bruuner). Ngược lại, tuyến tuỵ của gia cầm
rất phát triển.
Ở tá tràng, các chất được tiêu hoá và hấp thu với tốc độ mạnh
dưới tác dụng của mật, tuyến tuỵ và tuyến ruột. Dịch mật được tiết ra
từ gan, có màu xanh lá cây và sánh nhầy. Dịch mật chứa 78-80%
nước, 20-22% chất đặc, trong đó có axit mật, keo, cholesterin, muối
vô cơ và sắc tố mật (bilirubin, biliverdin). Dịch mật của gia cầm
khác với gia súc là trong thành phần của nó chứa axit xtearic.
Axit HCl cùng với nhũ chấp được chuyển từ dạ dày vào tá
tràng, dưới tác dụng của HCl, hocmon dịch tràng được hình thành ở
màng nhầy tá tràng và theo máu đến tuyến tuỵ và kích thích tuyến
tuỵ tiết dịch tuỵ. Dịch tuỵ lỏng, trong suốt có phản ứng kiềm yếu, pH
= 7,2-7,5. Trong dịch tuỵ có nhiều men tripxin, erepxin, amylaza,
mantaza, lipaza.
28 trang |
Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 8976 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cáu tạo hệ tiêu hóa và sinh dục của gia cầm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
29
rắn tạo thành. Nó có thể xem như hạ vị của dạ dày loài có vú và có
chức năng đặc biệt.
Lớp trong niêm mạc dạ dày cơ có nhiều tuyến nhỏ. Chúng tiết
ra chất keo dính phủ lên lớp biểu bì niêm mạc của dạ dày cơ một lớp
màng sừng dai cứng gọi là mô sừng (cutin), có tác dụng bảo vệ niêm
mạc thành dạ dày khỏi bị tổn thương khi nghiền nát thức ăn cứng
như thóc, sạn sỏi. Màng sừng này luôn luôn bị bong ra do cọ xát khi
hoạt động và cũng luôn được bổ sung do sản phẩm của tuyến tiết ra.
Chức năng chủ yếu của dạ dày cơ là nghiền nát thức ăn ngũ
cốc. Trong dạ dày cơ thường có một số lương nhất định các hạt cát,
sạn, sỏi nhỏ. Những hạt này giúp cho việc nghiền nát thức ăn ngũ
cốc dễ dàng khi dạ dày cơ co bóp.
Sự co bóp của dạ dày cơ diễn ra có chu kỳ, bình quân cứ 20 -
30 giây co bóp một lần. Khi đói nhịp co bóp chậm, khi no co bóp
tăng lên. Áp lực xoang dạ dày cơ khi co bóp tăng lên rất cao, đạt tới
140 mmHg ở gà, 100 mmHg ở vịt, 265 mmHg ở ngỗng, tạo thuận
lợi cho việc nghiền nát thức ăn cứng.
Dạ dày cơ không có tuyến dịch vị, sự tiêu hoá hoá học ở đây
do tác dụng của dịch vị từ dạ dày tuyến xuống. Dưới tác dụng của
axit HCl trong dạ dày cơ, các tế bào thực vật bị phá huỷ, protein
phồng và xốp lên. Dưới tác dụng của men pepxin, protein phân giải
thành pepton. Trong dạ dày cơ còn có quá trình phân giải
hydratcacbon dưới ảnh hưởng của vi khuẩn có trong thức ăn.
2.2.4.2.5. Tiêu hoá ở ruột
Ruột non của gia cầm đầu trên giáp với dạ dày cơ, đầu dưới
giáp với manh tràng. Ruột già của gia cầm không phát triển, nó do
trực tràng thô ngắn và 2 manh tràng đổ vào đoạn đầu trực tràng tạo
thành.
Thành ruột cũng có lớp nhung mao nhăn nheo. Các tuyến tiêu
hoá phân bố suốt dọc thành niêm mạc ruột. Riêng gà và gà tây không
30
có tuyến tá tràng (tuyến Bruuner). Ngược lại, tuyến tuỵ của gia cầm
rất phát triển.
Ở tá tràng, các chất được tiêu hoá và hấp thu với tốc độ mạnh
dưới tác dụng của mật, tuyến tuỵ và tuyến ruột. Dịch mật được tiết ra
từ gan, có màu xanh lá cây và sánh nhầy. Dịch mật chứa 78-80%
nước, 20-22% chất đặc, trong đó có axit mật, keo, cholesterin, muối
vô cơ và sắc tố mật (bilirubin, biliverdin). Dịch mật của gia cầm
khác với gia súc là trong thành phần của nó chứa axit xtearic.
Axit HCl cùng với nhũ chấp được chuyển từ dạ dày vào tá
tràng, dưới tác dụng của HCl, hocmon dịch tràng được hình thành ở
màng nhầy tá tràng và theo máu đến tuyến tuỵ và kích thích tuyến
tuỵ tiết dịch tuỵ. Dịch tuỵ lỏng, trong suốt có phản ứng kiềm yếu, pH
= 7,2-7,5. Trong dịch tuỵ có nhiều men tripxin, erepxin, amylaza,
mantaza, lipaza.
Thông qua kích thích cơ học vào màng nhầy, tuyến ruột tiết
ra dịch ruột. Dịch ruột có tỉ trọng 1,076, phản ứng kiềm pH = 7,42,
màu đục. Trong dịch ruột có chứa men enterpkinaza, erepxin,
amylaza, mantaza.
Tiêu hoá ở ruột già cũng có hai quá trình lên men và thối rữa.
Lên men xảy ra mạnh ở manh tràng, thối rữa ở trực tràng. Manh
tràng gia cầm khá phát triển nên quá trình lên men tương đối mạnh,
nhất là những gia cầm ăn nhiều thức ăn thực vật thô sơ. Ruột của gia
cầm nói chung tương đối ngắn, thức ăn lưu lại không quá một ngày
đêm.
Đầu cuối của trực tràng đổ vào một xoang chung gọi là xoang
tiết niệu - sinh dục. Nó do bốn bộ phận thông với nhau tạo thành.
Trực tràng thông với bộ phận lớn nhất gọi là bộ phận đường phân
(A); tiếp theo về sau gọi là ngăn bài tiết chung (B), ống dẫn tinh
(hoặc ống dẫn trứng) và ống dẫn nước tiểu đều đổ chung vào đây;
tiếp theo là hậu môn (C); và bộ phận thứ tư là túi phabuli (D).
31
Khi thức ăn chuyển xuống đoạn cuối ruột già, nước được hấp
thu mạnh, phần bã còn lại ở trạng thái đặc, khi đi vào xoang tiết niệu
sinh dục nó hỗn hợp với nước tiểu trở nên sền sệt. Phân gia cầm thải
ra ngoài nổi trên mặt một màu trắng hạt bã đó là các thể urat (muối
kết tinh của axit uric). Cấu tạo xoang tiết niệu-sinh dục của gia cầm
(hình 2.5)
ấp thu
Sự hấp thu các chất dinh dưỡng ở gia cầm cơ bản giống loài
có vú, chủ yếu ở đoạn ruột non nhờ các nhung mao tăng diện tích
hấp thu.
Manh tràng ruột già có thể hấp thu nước, muối khoáng, các
chất chứa nitơ, các sản phẩm lên men xelluloz (các axit béo bay
hơi). Xoang tiết niệu sinh dục hấp thu nước.
Quá trình hấp thu ở ruột diễn ra chậm, nhưng do diện
tích bề mặt lớn cho nên vẫn đảm bảo các chất dinh dưỡng cho cơ
thể. Diện tích màng nhầy (tính theo cm2) của toàn bộ ruột của gà là
1600-2400, của vịt là 1200-1800, của ngỗng là 5500-6000, của gà
A
B
C
D
ống dẫn tinh
(ống dẫn trứng)
ống dẫn nước tiểu
Hình 2.5:Xoang tiết
niệu sinh dục
A. Đường phân
B. Ngăn bài tiết chung
C. Hậu môn nguyên thuỷ
D. Túi phabuli
32
tây là 5000-9000 (Theo Tecver - trích từ Nguyễn Mạnh Hùng và
CTV, 1994).
2.2.5.Hệ tuần hoàn
Như các loài động vật khác, hệ tuần hoàn của gia cầm gồm
tim và mạch quản. Trung tâm của hệ tuần hoàn là tim. Tim có dạng
hình nón. Khối lượng của tim ở gia cầm khác nhau tuỳ thuộc vào
loài. Ở gà tim có khối lượng là 4,4g/1kg khối lượng sống, ở ngỗng là
8g/kg, còn ở vịt là 7,44g/kg khối lượng sống. Tần số tim đập ở gia
cầm trưởng thành 200-300 lần/phút, ở gia cầm non là 400-500
lần/phút.
Máu là tổ chức lỏng, là môi trường bên trong của cơ thể (nội
môi) tạo môi trường sống cho tế bào cũng như cung cấp dinh dưỡng
và ôxy cho tế bào, mô và toàn cơ thể. Máu gia cầm chiếm 8,5-9%
khối lượng cơ thể, có pH là 7,42-7,48. Trong máu có hồng cầu.
Hồng cầu gia cầm khác với hồng cầu gia súc là chúng có dạng ô van
dài, có nhân. Thời gian sống của hồng cầu là 90-120 ngày. Phần lớn
nitơ và axít amin trong tế bào nằm trong nhân của nó. Số lượng hồng
cầu phụ thuộc tuổi, giống, trạng thái khi nghiên cứu máu. Trong 1
mm
3
máu có chứa 3,3-3,6 triệu hồng cầu (ở gà mái là 2,5-3,0 triệu,
trên 3 triệu ở gà trống). Bạch cầu chia 2 nhóm là nhóm có bắt màu
và nhóm không bắt màu. Trong 1 mm3 máu có chứa 20-34 triệu bạch
cầu. Số lượng phụ thuộc giống, tuổi, cá thể...
Trong huyết tương máu của gia cầm không có kháng thể mà
kháng thể chỉ có trong bạch cầu. Trong bạch cầu đã xác định có 63
loại kháng thể khác nhau. Kháng thể được di truyền và không thay
đổi trong suốt quá trình sống của gia cầm. Do vậy, nhóm kháng thể ở
mỗi loại gia cầm là đặc trưng cho cá thể và có thể sử dụng trong
công tác chọn giống.
2.2.6.Hệ bài tiết và sinh dục gia cầm trống
Hệ bài tiết gồm 2 quả thận dính sát cột sống và 2 ống dẫn
nước tiểu đỗ ra lỗ huyệt, gia cầm không có bọng đái (hình 2.5).
33
Thận, ngoài chức năng bài tiết nước tiểu còn có tác dụng quan
trọng trong sự cân bằng muối-nước và áp lực thẩm thấu của mô bào.
Tuỳ thuộc vào độ pH của máu mà thận phân tiết nhiều hơn hay ít
hơn các yếu tố kiềm hoặc axít giữ cho máu có phản ứng cần thiết.
Mỗi ngày gà nhận 240-250 cm3 nước và thải ra 120-130 cm3 nước
tiểu. Nếu gà thiếu nước một vài giờ thì sẽ phát sinh stress làm giảm
sức đẻ, sinh trưởng và khối lượng sống giảm, đồng thời nảy sinh một
số hậu quả nghiêm trọng khác.
Hình 2.5: Hệ bài tiết và sinh dục gia cầm trống
V.C. khí quản; T. tinh hoàn; V.il. phế quản; K. thận;
D.d. ống dẫn tinh; Ur. ống dẫn nước tiểu; Cl. lỗ huyệt.
Cơ quan sinh dục gia cầm trống bao gồm 2 tinh hoàn nằm sát
cột sống, trước thận một ít, 2 ống dẫn tinh, tuyến sinh dục phụ và gai
34
giao cấu. Tinh hoàn có dạng hình trứng hoặc hạt đậu, bình thường
tinh hoàn bên trái có kích thước lớn hơn tinh hoàn bên phải. Tinh
hoàn nằm phía dưới và trước thận. Trong mùa sinh sản tinh hoàn có
thể tăng kích thước lên 200-300 lần. Từ mỗi tinh hoàn nối ra ống dẫn
tinh và đổ vào hậu môn với lỗ mở hoặc thông qua gai giao cấu. Gà
con 1 ngày tuổi có thể phân biệt đực cái thông qua xem gai giao cấu,
sau thời gian đó không thể phân biệt được. Ở ngỗng, vịt gai giao cấu
phát triển hơn ở gà.
Trong tinh hoàn hình thành tế bào sinh dục đực - tinh trùng.
Sự sản sinh tinh trùng cũng giống như ở các loài gia súc khác.
2.2.7. Hệ sinh dục cái và quá trình hình thành trứng ở gia
cầm
Quá trình sinh sản ở gia cầm mái khác nhau rất cơ bản so với
ở gia súc. Sinh sản ở gia cầm thông qua việc đẻ trứng. Trứng được
thụ tinh bên trong đường sinh dục cái. Phôi phát triển ngoài cơ thể
mẹ và đòi hỏi những điều kiện nhất định.
Giai đoạn đầu của quá trình phát triển phôi, cơ quan sinh dục
ở gia cầm không có sự phân biệt đực cái. Sự phân hoá giới tính chỉ
xảy ra từ tuần thứ hai của quá trình phát triển phôi. Ở gia cầm cái chỉ
có buồng trứng và ống dẫn trứng bên trái phát triển (trừ bồ câu),
nguyên nhân của sự mất đi của buồng trứng và ống dẫn trứng bên
phải chưa được xác định và giải thích thoả đáng.
Buồng trứng bên trái phân bố một vùng trong xoang bụng
(trước thận trái). Kích thước của buồng trứng thay đổi rất lớn phụ
thuộc vào loài gia cầm, tuổi, thời gian đẻ...Gà một ngày tuổi có kích
thước buồng trứng 1-3 mm, khối lượng 0,03g. Khi thành thục sinh
dục buồng trứng có chiều dài 10-15mm, rộng 10mm, dày 3-4mm và
có khối lượng là 0,3-0,5g. Lúc gà 18-20 tuần tuổi buồng trứng nặng
20g, lúc gà đẻ trứng cao nhất buồng trứng nặng 40-60g. Sự tăng khối
lượng của buồng trứng được xác định là do sự phát triển của 3-4
noãn bào. Mỗi noãn bào đạt đến đường kính chừng 40mm.
35
Buồng trứng được tạo thành từ 2 lớp: lớp vỏ và lớp trung tâm.
Khi chưa thành thục (gia cầm chưa thành thục về tính) lớp vỏ của
buồng trứng được phủ các tế bào hình trụ (biểu mô hình trụ). Dưới
đó là lớp tổ chức liên kết, trong đó phân bố các noãn bào. Dưới kính
hiển vi quan sát thấy có tới 12.000 noãn bào. Phần trung tâm là các
tổ chức liên kết có chứa thần kinh, mạch quản, cơ trơn.
Hình 2.6: Cơ quan sinh dục gia cầm mái
1. cuống buồng trứng; 2. tế bào trứng nhỏ; 3. tế bào trứng chín ; 4. lòng
loa kèn; 5. cổ loa kèn; 6. phần phân tiết lòng trắng; 7. phần eo có chứa
trứng; 8. tử cung; 9. âm đạo; 10. phần còn lại của ống dẫn trứng bên trái;
12. lỗ huyệt.
8
1
3
4
7
10
11
9
6
5
2
36
Khi gia cầm thành thục về tính, buồng trứng bao gồm nhiều tế
bào trứng. Số tế bào trứng có trong buồng trứng gà mái (theo
Jull,1967) là 3.600, tuy vậy gà mái đẻ trứng tốt nhất cho đến nay là
1.500 quả.
Như vậy còn một khoảng cách lớn giữa tiềm năng năng suất
trứng và năng suất thực tế. Điều đó cho phép đi sâu tìm hiểu các
biện pháp để nâng cao sức sản xuất trứng ở gà. Tại buồng trứng mỗi
tế bào trứng được bọc trong một túi nhỏ đính vào cuống buồng
trứng. Trên bề mặt noãn bào có nhiều mạch máu để nuôi tế bào
trứng. Thời gian từ khi hình thành trứng cho đến khi trứng chín và
rụng khoảng 7-10 ngày.
Ống dẫn trúng ở gia cầm được chia thành 5 phần với độ dài
ngắn khác nhau và có chức năng không giống nhau (hình 2.6).
+ Loa kèn: Loa kèn là phần đầu của ống dẫn trứng với chức
năng hứng trứng. Trứng được thụ tinh ở phần loa kèn. Niêm mạc ở
phần loa kèn tiết ra chất tiết có tác dụng nuôi dưỡng tinh trùng. Tinh
trùng có thể sống tại phần loa kèn được 1-30 ngày. Nhưng hoạt lực
thụ tinh tốt nhất từ 1-7 ngày. Trứng rơi vào phần loa kèn và lưu lại
tại đây 5-25 phút. Sau đó nhờ nhu động của ống dẫn trứng mà trứng
được di chuyển tiếp tục xuống các phần sau của ống dẫn trứng.
+ Phần phân tiết lòng trắng trứng: Là phần tiếp theo ngay loa
kèn của ống dẫn trứng có chiều dài bằng 80% chiều dài toàn bộ ống
dẫn trứng. Chức năng là sản sinh ra lòng trắng trứng. Chừng 40-50%
lòng trắng trứng được hình thành từ đoạn này, phần lòng trắng còn
lại sẽ tiếp tục được hình thành ở phần sau của ống dẫn trứng. Trứng
dừng lại ở phần phân tiết lòng trắng trứng không quá 3 giờ.
+ Phần eo của ống dẫn trứng: Tiếp theo phần phân tiết lòng
trắng, phần eo có chức năng hình thành màng vỏ trứng và một phần
lòng trắng trứng. Qua khỏi phần eo hình dạng của trứng được hình
thành. Trứng dừng lại ở phần eo khoảng 75 phút.
37
+ Tử cung: Là phần phình to tiếp theo phần eo, có chiều dài
băng 10% chiều dài ống dẫn trứng. Tại tử cung phần lòng trắng tiếp
tục được sinh ra và thấm qua màng vỏ trứng vào trứng. Ngay khi
trứng vào đến phần eo thì đầu trước của nó hình thành vỏ lụa (màng
dưới vỏ trứng), sau đó vỏ cứng được hình thành dần dần (vỏ đá vôi).
Thời gian trứng lưu lại ở tử cung là 16-20 giờ. Tại tử cung màu sắc
của vỏ trứng cũng được hình thành.
+ Âm đạo: Là phần tận cùng của ống dẫn trứng, có chức năng
sinh ra lớp màng mỡ bao bọc vỏ trứng. Lớp màng mỡ này giúp cho
gia cầm dễ đẻ, ngăn chặn sự xâm nhập của vi khuẩn vào trong trứng,
hạn chế sự bốc hơi nước của trứng. Lớp màng mỡ tạo nên độ bóng
giúp ta phân biệt được trứng cũ và trứng mới.
Như trên đã trình bày, trứng được tổng hợp một phần ở buồng
trứng một phần ở ống dẫn trứng. Sự hình thành trứng là một quá
trình phức tạp có sự tham gia của hormone. Tuy lòng đỏ trứng được
hình thành ở buồng trứng, nhưng hàm lượng protein của nó lại được
tổng hợp ở các phần khác nhau của cơ thể mà chủ yếu ở gan và thận.
Mỡ của trứng được tổng hợp nên có nguồn gốc trực tiếp từ lipit của
khẩu phần và một phần lớn hơn lại từ giải phóng mỡ ở các kho dự
trữ mỡ trong cơ thể. Protein và mỡ được chuyển qua máu đến buồng
trứng tham gia hình thành trứng.
Mất vài ngày để lòng đỏ hình thành ở buồng trứng, phần còn
lại được hình thành trong ống dẫn trứng. Lòng đỏ trứng (tế bào sinh
dục cái) được phóng thích từ buồng trứng và tiếp tục hoàn thiện
trong ống dẫn trứng. Sự thụ tinh của trứng phụ thuộc vào sự hợp
nhất của tinh trùng và đĩa phôi hoặc nhân của trứng. Quá trình này
diễn ra trong phần đầu của ống dẫn trứng trước khi các phần khác
của trứng được bổ sung. Sự thụ tinh diễn ra là kết quả của sự gặp gỡ
giữa trứng và tinh trùng, còn sự hình thành trứng không phụ thuộc
trứng có được thụ tinh hay không. Trứng mất 5 phút ở phần loa kèn,
3 giờ ở phần phân tiết lòng trắng, 1 giờ 15 phút ở phần eo để hình
38
thành màng vỏ trứng. Nếu phần eo thắt không bình thường thì có thể
dẫn đến thay đổi hình dạng trứng. Sự hình thành albumin ở tử cung
hoặc tuyến vỏ mất 12-20 giờ. Vỏ được hình thành chậm ở nửa đầu
của giai đoạn trứng trong tử cung và nhanh chóng hơn ở nửa còn lại.
Chất hoá học sử dụng để hình thành vỏ trứng chủ yếu là canxi và
photpho có nguồn gốc một phần từ khẩu phần và một phần giải
phóng ra từ xương. Kho dự trữ chất khoáng này trong xương bắt đầu
được giải phóng ra trước khi gia cầm vào đẻ trứng 2 tuần. Các chất
hình thành vỏ trứng được chuyển vào máu đến tử cung, không có
phần nào của vỏ được hình thành ở âm đạo và thời gian trứng lưu lại
đó là không đáng kể (bảng 2.2).
Bảng 2.2:Thời gian trứng lƣu lại trong các phần của ống dẫn
trứng ở gà
Các phần của
ống dẫn trứng
Thời gian lưu lại
Giờ % trong tổng thời
gian
Phần loa kèn
Phần phân tiết lòng trắng
Phần eo
Tử cung
Âm đạo
Cộng
0.33
3.00
1.17
19
rất ngắn
23.5
1.4
12.8
5.0
80.8
100.0
Bảng 2. 3: Chiều dài các phần của ống dẫn trứng ở vịt và gà
(theo David Farrell và Paul Stapleton, 1986 )
Các phần
ống dẫn
trứng
Vịt nhà Vịt
khakicampbell
Gà nhà
Loa kèn 4,8cm
11%
6,9cm 15% 9,0cm
12,0%
Phân tiết lòng
trắng
24,4cm
52%
24,3cm 54% 32,0cm 42%
Eo 10,6cm 7,9cm 18% 14.0cm
18,4%
39
22%
Tử cung 7,3cm
15%
5,9cm 13% 21cm 27,6
Tổng cộng 47,2cm
100%
45cm 100% 76cm 100%
Bảng 2. 4: Thời gian hình thành trứng ở vịt và gà (giờ)
(theo David Farrell và Paul Stapleton, 1986 )
Các phần
ống dẫn
trứng
Vịt nhà Vịt
khakicampbell
Gà nhà
Loa kèn 0,16 + 0,25 0,16 + 0,08 0,40 + 0,18
Phần trước
khi vào tử
cung
4,50 + 0,60 5,41 + 1,10 5,66 + 0,42
Phần sau tử
cung
24,41 24,00 25,42
Tại tử cung 18,19 16,59 19,76
Thời gian trứng di chuyển từ loa kèn đến khi ra ngoài khoảng
24 giờ. Được sự điều chỉnh, kiểm tra của hormon, một tế bào trứng
không được phóng thích khỏi buồng trứng trước khi quả trứng trước
được đẻ ra nửa giờ. Như vậy một giai đoạn khoảng 24,5 giờ là chu
kỳ bình thường của 2 quả trứng được sinh ra từ cùng một gia cầm
mái. Ở gà, quả trứng thứ 2 được đẻ ra chậm hơn một chút trong ngày
hôm sau so với quả trứng đầu và sau một khoảng thời gian đẻ (chu
kỳ đẻ) có 1 hoặc hơn 1 ngày gia cầm mái nghỉ đẻ. Các hoạt động của
hormon là khá đồng bộ để các quả trứng bình thường được hình
thành và chỉ có một quả trứng trong ống dẫn trứng trong cùng một
thời gian. Gà đẻ trứng trong khoảng thời gian từ 8 giờ sáng đến 5 giờ
chiều, trong khi đó nhịp độ ngày đêm là 12 giờ (ở vùng nhiệt đới).
Gà nhà đẻ trứng theo chu kỳ từ 1-5 quả, giữa khoảng đó có nghỉ đẻ.
40
Chu kỳ dài hơn, thời gian nghỉ ngắn hơn gia cầm sẽ cho trứng nhiều
hơn. Màu sắc vỏ trứng, chất lượng ngoài của trứng thay đổi không
đáng tin cậy ở những gà đẻ trứng liên tục.
Đôi khi ống dẫn trứng bị kích thích bởi các tác nhân bên
ngoài tác động đến việc tổng hợp lòng trắng trứng. Điều đó cũng ảnh
hưởng đến việc hình thành lòng đỏ trứng, kích thích buồng trứng
phóng thích ra một vài tế bào trứng cùng một lúc. Đó chính là
nguyên nhân để gia cầm mái đẻ ra một quả trứng có 2 lòng đỏ, 2 quả
trứng trong 1 ngày ở một số trường hợp hoặc các quả trứng không
bình thường khác.
2.2.8.Vai trò của hormon trong hoạt động sinh sản ở gia
cầm
Hormon không chỉ điều hoà hoạt động sống mà còn gắn liền
với quá trình hình thành trứng, hoạt động sinh sản và các đặc điểm
giống, giới tính ở gia cầm. Các hormon được sản sinh từ tuyến yên
có tên chung là Gonadotrophic Hormone (GH); các hormon sinh duc
khác gồm Androgen, Oestrogen, Progesteron.
Vai trò của hormon là rất quan trọng, nó có ảnh hưởng trực
tiếp đến sức sản xuất của gia cầm. Các hormon chính và hoạt động
của nó ở gia cầm được tóm tắt trong bảng 2.3.
Chuỗi các hoạt động của hormon được trình bày trên hình
2.7 và hình 2.8. Cũng như ở gia cầm mái, sự phát triển và hoạt động
sinh sản ở gia cầm trống phụ thuộc vào hoạt động của hormon.
Chuỗi hoạt động của hormon ở gia cầm trống khởi đầu bằng ánh
sáng (hình 2.7). LH kích thích sản sinh ra androgen từ các tế bào kẽ
leydig nằm giữa các ống sinh tinh trong dịch hoàn, quy định tỷ lệ
giữa kích thước dịch hoàn với kích thước mào. Ở chim rất nhạy cảm
với hàm lượng androgen, nó ảnh hưởng ngay đến tính ngon miệng
và khả năng nhận thức ăn của gia cầm. Các hoạt động của ống sinh
tinh được kích thích bởi Polyculo Stymulin Hormon (FSH), đồng
41
thời với Luteino Hormon (LH), thông qua sự kiểm tra và sản sinh
androgen và tham gia trực tiếp vào tổng hợp tinh trùng.
Bảng 2.5. Hoạt động của Hormon trong sinh sản ở gia cầm
Tuyến nội tiết Hormon Chức năng cơ bản tƣơng ứng
Thuỳ trước
Tuyến yên
FSH Kích thích sinh trưởng của tế bào trứng
LH Nguyên nhân của sự thải trứng
Prolactin Chi phối tính ấp bóng, tiết sữa diều
Thuỳ sau Tuyến
yên
Oxytoxin Điều hoà quá trình đẻ
Vosopressin Co thắt mạch máu
Tinh hoàn
Adrogen Điều hoà sự phát triển cơ quan sinh
dục đực, hoạt động sinh dục...
Buồng trứng
Oestrogen Điều hoà sự phát triển buồng trứng,
ống dẫn trứng, hoạt động sinh dục...
Progesteron Cùng với Oestrogen điều hoà quá trình
hình thành trứng
Androgen, nguyên nhân của sự sinh trưởng và độ tươi của
mào, tích, tai và kiểm tra kho dự trữ canxi hàng ngày cung cấp cho
sự tạo tinh trùng.
Sự phát triển và hoạt động của ống dẫn trứng chịu sự kiểm tra
của Oestrogen và Progesteron. Hai hormon này còn ức chế hiệu quả
của Prolactin sinh sản ra từ tuyến yên, điều khiển tính ấp bóng của
gia cầm mái và phân tiết sữa diều ở bồ câu.
42
Tía tử ngoại Mắt Não
Tuyến yên
(Hypophysis)
Thuỳ trước Thuỳ sau
Gonadotrophin Somatrophin Thyrotrophin
Sinh trưởng
FSH LH Thyroid
Tinh hoàn Thyroxin
Tinh trùng
Androgen Kết cấu của mào
Hoạt động tính dục
Sai khác bộ lông
Hình 2.7: Sơ đồ vai trò của hormon, khởi đầu bằng ánh sáng
trong hoạt động sinh dục của gia cầm trống
Đặc điểm
theo giới
tính
43
TK nhận cảm
Tia tử ngoại
Tuyến yên
(Hypophysis)
Sữa diều Prolactin Thuỳ trước Thuỳ sau Ôxytoxin
Somatrophin Thyrotrophin Gonadotrophin Luteinising Hormone
Thyroid FSH LH
Sinh trưởng Thyroxin Oestrgen
Buồng trứng Mào,
Tích
Màu sắc, cấu trúc cơ thể
Bộ lông, cườm Ống dẫn trứng
Oestrogen
Phản xạ gại trống
Tích luỹ Ca cho hình thành
vỏ trứng
Tích luỹ mỡ cho hình thành
lòng đỏ
Kiểu lông của gia cầm mái
Hình 2.8:Sơ đồ vai trò của Hormon trong hoạt động sinh dục của gia
cầm cái
Não
Mắt
44
2.2.8. Một số đặc điểm sinh học khác ở gia cầm
Trao đổi cơ bản ở gia cầm cao hơn 2-4 lần so với trao đổi cơ
bản ở động vật có vú. Dấu hiệu đặc trưng của trao đổi cơ bản là nhiệt
độ cơ thể cao, trung bình là 41,50C (40,8-41,90C). Thân nhiệt được
điều tiết nhờ thần kinh trung ương, cơ quan bài tiết và đặc biệt là các
túi khí. Khả năng điều tiết thân nhiệt kém ở gia cầm con từ sau khi
nở đến 5 tuần tuổi, nhiệt độ cơ thể thường thay đổi lớn phụ thuộc
vào nhiệt độ môi trường ngoài.
Sự thay lông: Gia cầm thay lông hàng năm, bình thường vào
cuối mùa hè, đầu mùa thu nếu gia cầm ở vào các tháng mùa xuân
của năm trước. Nếu ấp trứng và thành lập đàn liên tục trong cả năm
thì quá trình thay lông diễn ra ở các tháng khác nhau trong năm, bình
thường vào sau khi kết thúc chu kỳ đẻ trứng.
Sự thay lông có liên quan với hoạt động của hormon thyroxin.
Thay lông gắn liền với sản lượng trứng. Những gia cầm mái đẻ tốt,
quá trình thay lông diễn ra sớm và nhanh. Ngược lại, những gia cầm
mái đẻ kém quá trình thay lông diễn ra chậm và kéo dài. Sự thay
lông ở gà bắt đầu từ thay lông cổ, sau đó chuyển đến ngực, bụng,
cuối cùng là lông cánh. Quá trình thay lông mạnh nhất là lúc thay
lông cánh chính. Lúc này sức đẻ của gà mái giảm nhanh hoặc ngừng
hẳn. Sự thay lông cánh chính bắt đầu từ lông trục. Các lông cánh sơ
cấp rụng từng chiếc một (chiếc nọ tiếp chiếc kia) trong khoảng 2
tuần. Các lông cánh chính mới mọc lại trong vòng 6 tuần. Sự phát
triển nhanh hơn trong 3 tuần đầu tiên trước khi đạt đến 2/3 chiều dài
bình thường của nó.
45
Hình 2.9: Sự thay lông ở gà
A. lông cánh ở gà: - lông trục; từ số 1 đến 10: lông cánh chính; B. đang
thay 2 lông cánh chính; C. thay được 2 lông cánh chính, đang thay tiếp
lông thứ 3,4; D. đã thay xong 5 lông; E. gà thay lông sắp xong.
Ở gà khi quá trình thay lông kết thúc thì bộ lông màu sáng
hơn, bóng hơn, bộ lông khép kín, xếp sát vào thân. Ở gà tây quá
trình thay lông diễn ra như ở gà ta. Ở vịt (thuỷ cầm) sự thay lông
diễn ra chậm hơn ở gà và phụ thuộc vào phương thức nuôi. Vịt nuôi
chăn thả thời vụ ở nước ta thường cho thay lông cưỡng bức theo yêu
cầu của người nuôi.
NỘI DUNG ÔN TẬP, KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ
Phân tích các đặc điểm sai khác về giải phẫu, sinh lý ở gia cầm so
với gia súc. Nghiên cứu những sai khác này có ý nghĩa gì trong chăn nuôi
gia cầm.
46
CHƢƠNG 3
GIỐNG VÀ CÔNG TÁC GIỐNG GIA CẦM
3.1.Nguồn gốc và sự thuần hoá gia cầm
Gia cầm bắt nguồn từ gia cầm hoang dã, nó là một trong
những vật nuôi đầu tiên được con người thuần hoá. Nhiều di tích
khảo cổ và nguồn gốc văn hoá cổ xưa chứng minh rằng gia cầm đã
được sử dụng rộng rãi với mục đích kinh tế ngay từ thời văn hoá Ấn
Độ, Trung Quốc, Hy lạp cổ xưa.
Vài thế kỷ gần đây, với văn minh của loài người, con người
đã thông qua chọn lọc nhân tạo, tạo nên một sự đa dạng lớn các
giống gia cầm mới. Gần đây số lượng các giống gia cầm và các dạng
riêng biệt của nó, đặc biệt ở gà đã tăng lên rất nhiều và đã trở thành
chuyên ngành mũi nhọn về số lượng và chất lượng sản phẩm của nó.
Con người, ngay cả hiện nay đang tiếp tục hoàn thiện các
giống đã có tạo ra các giống gia cầm mới trên cơ sở sử dụng các đặc
điểm đặc thù của các nước và khu vực khác nhau trên thế giới để
phối hợp vào trong con giống. Vì vậy khác với các giống trước đây,
các giống gia cầm ngày nay có khả năng thích ứng nhanh hơn, phổ
biến rộng rãi hơn trên thế giới ngay khi nó được tạo ra. Chính đặc
trưng này đã thúc đẩy ngành gia cầm phát triển với tốc độ nhanh hơn
nhiều ngành sản xuất khác trong nông nghiệp.
Sự thuần hoá gia cầm tạo nên các giống gia cầm ngày nay là
cả một quá trình, gắn với sự phát triển của loài người và đều xuất
phát từ các dạng gia cầm hoang dã ban đầu.
3.1.1.Nguồn gốc gà nhà
Gà nhà (Gallus domesticus) hiện nay rất đa dạng về kiểu hình
là do kế thừa tính di truyền và trong các điều kiện ngoại cảnh khác
nhau của quá trình hình thành nó. Kiểu di truyền là do sự tổ hợp các
gen truyền lại từ cả hai phía bố và mẹ. Sự sai khác kiểu di truyền ở
gà nhà là do gà có nguồn gốc từ nhiều nhóm gà rừng khác nhau.
47
Về nguồn gốc gà nhà hiện đang tồn tại 2 học thuyết là thuyết
đơn nguyên và thuyết đa nguyên. Theo thuyết đơn nguyên thì gà nhà
bắt nguồn từ duy nhất một nhóm gà rừng đó là Gallus gallus, còn
theo thuyết đa nguyên thì gà nhà có nguồn gốc từ nhiều nhóm gà
rừng khác nhau, trong đó gà rừng Gallus gallus như ta đã biết chính
là Gallus domestics trong thuyết đa nguyên.
Thuyết đơn nguyên dựa trên các kết quả nghiên cứu của
Đarwyn (1868), khi nghiên cứu nguồn gốc gà nhà đã khẳng định: Gà
nhà có chung một nguồn gốc và xuất phát từ giống Gallus. Trong
giống này có 4 dạng gà rừng khác nhau, đại diện của các giống này
ngày nay còn gặp ở Nam Á và một vài vùng khác trên thế giới. Phổ
biến rộng rãi nhất là dạng Gallus bankiwa hay còn có tên là Gallus
gallus, hay gặp ở rừng Đông nam Á, Ấn độ, Birma, bán đảo Mã lai
và vài nước khác. Dạng Gallus lapayette lesson gặp ở vùng rừng
Seilon và còn có tên gọi là gà rừng Seilon. Dạng thứ ba là Gallus
sonerati còn gọi là gà rừng màu xám thường gặp ở vùng rừng núi Ấn
độ. Một dạng khác nữa là Gallus varius shaw gặp phổ biến ở Java
nên còn gọi là gà rừng Java. Khi nghiên cứu nguồn gốc chung của gà
nhà từ các dạng này của giống Gallus, Đarwyn đã xác định cấu trúc
chung của cơ thể, bộ lông, đầu, khả năng nhận được con lai của gà
mái nhà... và khẳng định Gallus bankiwa là tổ tiên chung nhất. Bằng
chứng nói lên điều đó là gà nhà Gallus gallus chỉ sống tự do đồng
thời với gà rừng Gallus gallus mà rất hiếm thấy với các dạng gà
hoang khác. Con cháu của gà nhà với gà rừng Gallus gallus rất đa
dạng trong khi đó giữa gà nhà với các dạng gà rừng khác thì không
thấy. Cấu trúc chung của cơ thể, bộ lông, tiếng gáy ... rất giống gà
nhà; mặt khác khi lai giữa các giống gà nhà với nhau nhận được con
lai rất giống gà rừng Gallus gallus. Nhiều tác giả khác đã nhận định
rằng các dạng còn lại của giống Gallus đã tham gia để tạo nên các
giống gà nhà hiện nay.
48
Đặc điểm của gà rừng Gallus gallus (Gallus bankiwa) là có
tầm vóc nhỏ, thể trong 0,6-0,8kg, dễ thích nghi, đẻ 2-3 lứa/ năm, mỗi
lứa 10-12 trứng, màu lông gần như màu lông của gà Ý và có hoạt
tính sinh dục mạnh. Gà trống có màu lông café sẫm, có lông đỏ ở
đuôi và ở ngực, lông cổ, bụng màu đỏ sáng. Gà mái có tầm vóc nhỏ
hơn gà trông, màu lông sẫm hơn và đồng nhất hơn. Gà có mào đơn,
thẳng, chân màu xám. Gà có cánh dài, hiếu động, giỏi bay nhảy,
sống trong các rừng tre nứa, ăn hạt, cỏ, côn trùng. Gà con dễ nuôi, dễ
thích nghi như gà đã được thuần hoá hoàn toàn.
Ngày nay có nhiều ý kiến cho rằng sự suy luận trên dựa trên
cơ sở các thông tin chưa đầy đủ vì vậy cần phải hiệu chỉnh lại. Trên
cơ sở đó mà học thuyết đa nguyên ra đời, thuyết này cho răng gà nhà
ngày nay là bắt nguồn từ các loại gà hoang khác nhau, một trong số
đó là gà Gallus Gallus. Hiện có 4 nhóm gà rừng (bảng 2-1) đang
phân bố ở nhiều nơi, được xem là thuỷ tổ của gà nhà (Gallus
domestic).
Sự thuần hoá
Gà được thuần hoá bắt đầu từ Ấn Độ, sau đó lan rộng ra nhiều
vùng khác nhau trên thế giới. Sự phát triển này gắn liền với hoạt
động giao lưu của con người.
Khi nghiên cứu sự di chuyển của gà trên thế giới, nhà nghiên
cứu người Anh tên là Eduara Braun đưa ra sơ đồ có tính thuyết phục
về sự du cư của gà từ vùng được thuần hoá ra các vùng còn lại. Từ
Ấn Độ gà chuyển lên Trung Quốc, đi lên Bắc châu Á, qua Mông Cổ,
phía Tây châu Âu, tiếp tục chuyển qua Bắc Âu đến cuối cùng là châu
Mỹ.
49
Bảng 3.1. Tóm tắt đặc điểm của các nhóm gà rừng
Tên Nơi phân bố Một số đặc điểm
1.Gallus gallus
G.Bankiwa
G.Ferrugeneus
(Gà rừng màu
đỏ)
Phía Nam,
Trung, Đông của
Ấn Độ; Miến
Điện; Thái Lan;
Bán đảo Mã
Lai;Philippin và
Sumatra
Màu lông gà mái như ở gà
Lơgo đỏ, còn trống có lông
màu vàng da cam ở cổ, cánh,
lưng; lông ngực màu đen,
trứng màu vàng xỉn, chân
màu đá đen, mào màu đỏ.
2.Gallus
lafayetti
(Gà rừng Ceyl)
Srilanka
Giống như gà Gallus về bộ
lông, nhưng gà trống có màu
vàng da cam ở bụng, ngực.
Lông cánh của gà mái trụi.
Mào màu vàng ở chung
quanh còn ở trung tâm màu
đỏ. Trứng có vết đốm.
3.Gallus
sonneratti
(Gà rừng màu
xám)
Tây bắc Ấn Độ
Gà mang gen trội trắng bạc
(S), vì vậy trong tổng thể
màu trắng có một chỗ màu
vàng, xung quanh có màu
đen, trứng có chấm đốm,
tiếng gáy khác với gà
G.gallus.
4.Gallus varius
G.Furcatus
(Gà rừng màu
đen hoặc màu
xanh)
Java, Lombok
Gà có lông cổ ngắn và mền,
yếm màu đỏ, vàng hoặc xanh
da trời, mào có màu xanh.
50
3.1.2.Nguồn gốc gà tây
Gà tây nhà xuất phát từ gà tây hoang dã (Meleagris
golanavo), hiện còn gặp ở Mỹ. Sự thuần hoá gà tây bắt đầu từ
Mêhicô trước khi người châu Âu tìm ra châu Mỹ và di cư đến châu
Mỹ. Gà tây được người Tây Ban Nha đưa vào châu Âu năm 1948.
Tồn tại 2 dạng gà tây hoang dã là Meleagris Americana và
Meleagris Mexicana. Từ các dạng ban đầu này đã tạo ra nhiều giống
gà tây khác nhau về độ lớn, sản lượng trứng, cường độ sinh trưởng,
chất lượng thịt và nhiều chỉ tiêu khác.
3.1.3.Nguồn gốc của vịt nhà
Thuỷ tổ của vịt nhà ngày nay là vịt hoang Anas bochas. Một
số tác giả còn chứng minh rằng vịt xiêm (Cairina moschata) cũng
bắt nguồn từ một vài giống vịt hoang xưa. Vịt hoang hiện còn ở Nam
Mỹ. So với các loại gia cầm khác thì vịt được thuần hoá tương đối
muộn. Sự thuần hoá vịt bắt đầu ở Trung Quốc, ở đó có một mạng
lưới sông ngòi, ao hồ dày đặc tạo điều kiện tốt cho chăn nuôi vịt phát
triển.
3.1.4.Nguồn gốc của ngỗng
Ngỗng nhà xuất phát từ ngỗng hoang màu xám (Anser
cinereus), thường gặp ở một số vùng Châu Âu và Châu Á. Sự thuần
hoá nó diễn ra ở Bắc, Trung Âu và Châu Á. Nhiều dấu vết ở Hy Lạp
và Thổ Nhĩ Kỳ xưa cho thấy ngỗng được thuần hoá từ thế kỷ thứ 10
trong kỷ nguyên của chúng ta.
3.1.5.Nguồn gốc bồ câu
Darwyn chứng minh rằng tất cả các giống bồ câu nhà hiện
này đều có nguồn gốc từ bồ câu rừng (Columbia livia), hiện nay
đang còn thấy ở Địa Trung Hải, Châu Á, Châu Phi. Bồ câu sống
thành từng cặp, con cái đẻ 2 trứng, thời gian ấp nở từ 17-21 ngày.
51
3.2.Các quy luật di truyền cơ bản ứng dụng trong công tác
giống gia cầm
Trong công tác giống gia cầm, sự nhận biết các quy luật di
truyền các tính trạng từ bố mẹ sang con cái là rất quan trọng để tạo
ra con giống có được các tính trạng mong muốn.
Sự truyền đạt các thông tin di truyền từ bố mẹ sang các thế hệ
sau thông qua tế bào sinh dục - người ta gọi là giao tử (Gamet). Giao
tử chứa các thông tin di truyền và được đặt trên các nhiễm sắc thể
(NST). NST chỉ nhìn thấy khi phân chia tế bào, ở các giai đoạn khác,
NST tồn tại dưới dạng các sợi mảnh, dài phân bố trong bào tương và
nhân.
Số lượng NST của tế bào cơ thể là đặc trưng cho loài gia cầm,
gia súc khác nhau. Số lượng NST ở gà là 78, ở vịt là 80, ngỗng 80,
gà tây 82, bồ câu 62, bò 60, người 46... NST nằm thành từng cặp, có
hình dạng và kích thước xác định. Các NST của mỗi cặp được hình
thành từ 2 cặp của cha và mẹ. Đặc trưng của nó là sự phân chia theo
từng đôi và hoàn toàn giống nhau. Đôi NST là đối xứng (tương
đồng). Các gen trên NST cũng được phân bố đối xứng và được gọi
là các alen. Ở tế bào sinh dục thành thục NST là đơn bội (n), khi thụ
tinh có sự kết hợp giữa tế bào sinh dục đực và tế bào sinh dục cái, số
lượng NST trở về lưỡng bội (2n). Có 2 loại NST là NST thường và
NST giới tính.
Ở gia cầm, khác với gia súc, giao tử ở các thể đực là đồng
hợp ZZ, còn ở thể cái là dị hợp ZW-người ta thừa nhận kiểu gen là
Z0. (ở gia súc con đực: XY, con cái: XX).
Sự di truyền các tính trạng từ bố mẹ cho các thế hệ sau thông
qua NST, nhưng số lượng các tính trạng lại lớn hơn rất nhiều so với
số lượng NST. Vì vậy 1 NST mang nhiều gen (ngoài NST W-quy
định chỉ sự di truyền giới tính). Các gen (alen) của tính trạng này
được phân bố trên một NST tương đồng ở một vị trí chính xác gọi là
locus.
52
Sự di truyền các tính trạng chất lượng như hình dạng mào,
màu sắc lông, da, màu mỏ, chân... cũng như các tính trạng số lượng,
sản lượng trứng, khối lượng trứng, thể trọng... đều phụ thuộc vào
alen. Các tính trạng chất lượng được quy định bởi 1 đôi gen, trong
đó không nhận thấy sự biến động và nó ít phụ thuộc vào môi trường
ngoài. Các tính trạng số lượng được quy định bởi số lượng lớn các
đôi gen, nó không ngừng biến đổi và phụ thuộc rất lớn vào điều kiện
ngoại cảnh.
3.2.1.Sự di truyền các tính trạng chất lƣợng ở gia cầm
Các tính trạng chất lượng tiêu biểu ở gia cầm như màu lông,
hình dạng mào, màu da, mỏ, chân... đặc trưng cho giống gia cầm và
được quy định bởi các gen gọi là gen chính hay gen chủ yếu. Sự di
truyền các tính trạng chất lượng được quy định bởi số lượng nhỏ các
cặp gen, thường được gắn với NST sinh dục và được di truyền theo
quy luật Menđen.
3.2.1.1. Sự di truyền màu sắc lông
Những màu sắc khác nhau của bộ lông gia cầm có thể chia
thành 2 nhóm: lông có màu và lông trắng. Bộ lông màu như là một
tính trạng được thể hiện bởi ký hiệu C (Colour). Ở gia cầm với bộ
lông đen là chủ yếu còn được thể hiện bằng E (Entarsion). Điều
khiển màu của các vằn trên lông là alen B. Màu đen của lông cũng
như các màu khác được quy định bởi các sắc tố mêlanin và
xantophin (ở gia súc chỉ có mêlanin). Xantophin chỉ nằm ở da.
Những con có sắc lông vàng ở da, mỏ, chân đều đồng hợp thể theo
gen W-gen điều khiển sự phân bố xantophin.
Màu vàng sáng được quy định bởi alen lặn s; màu sắc bạc do
gen trội S quy định là trội hơn so với màu vàng sáng.
Màu trắng của lông gặp ở gà Leghorn, Wyandotte, Plymouth
rock... ở gà Leghorn, màu trắng là trội và tương ứng với gen J, nó át
chế sự hình thành sắc tố (màu); có nghĩa là trong trường hợp này
53
alen J lấn át các alen C và B. Theo Mener, cấu trúc di truyền màu
lông trắng của gà Leghorn có dạng sau:
II CC BB (ở gà trống) ; II CC B- (ở gà mái)
Ở các giống gà Plymouth, Wyandotte, Minhorka trắng mang
màu trắng lặn của lông (alen lặn của gen C), màu này là lặn so với
màu đen, mặc dù trong quan hệ kiểu hình ở các giống gà thuần
chủng không có sự khác nhau giữa màu trắng trội và lặn của bộ lông.
Gà có lông trắng lặn có kiểu di truyền là: II CC BB
Màu trắng trội nhưng không phải trội trên màu đỏ, vì vậy khi
lai với các giống gà lông đỏ, hầu như luôn luôn phát hiện gà lai có
màu lông đỏ ở cổ, cánh, đuôi của gà trống và ở ngực của gà mái.
Sự di truyền màu sắc lông ở các loài gia cầm khác (ngỗng,
vịt, gà tây, bồ câu...) cũng đã được nghiên cứu nhiều (xem thêm
trong tài liệu tham khảo).
Hình 3.1: Di truyền màu sắc lông ở gà
Gà trống giống Rốt đỏ (lông đồng nhất) lai với gà mái giống Plimút vằn
(lông vằn đen-trắng), đời con nhận được: gà mái có màu lông đồng nhất
(B), gà trống có màu lông có đốm trắng ở đầu (A).
A B
54
3.2.1.2. Sự di truyền màu sắc da
Sự di truyền màu sắc da ở gia cầm gắn với sự di truyền màu
sắc của chân và mỏ. Chia ra 2 màu cơ bản của da là màu vàng và
màu trắng.
Da trắng ở các giống gà Leghorn, Plymouth, Sussex,
Wyandotte... da vàng ở các giống Rhode island, Orpiton, Dorkin,
Lang san...
Alen trội của gen W quy định màu trắng của da. Màu vàng
của da được quy định bởi alen tương ứng. Tất cả các mức độ của
màu phụ thuộc vào 2 sắc tố cơ bản là mêlanin và xantophin. Ở gà da
trắng không có các sắc tố này.
3.2.1.3. Sự di truyền hình dạng mào
Trong quá trình thuần hoá, mào đơn của gà rừng Bankiva đã
đột biến sang các dạng khác như mào lá, mào hoa hồng, mào hạt
đậu, mào hồ đào (óc chó)... mào lá được quy định bởi alen lặn của
gen r, còn mào hoa hồng là do gen trội R của nó quy định.
Mào hạt đậu được hình thành từ 3 hàng hạt, nó được quy định
từ alen trội không hoàn toàn của gen P.
Hình 3.2: Hình dạng mào ở gà
1: mào lá; 2: mào hoa hồng; 3: mào hồ đào (óc chó) 4: mào hạt đậu.
4 3
1 2
55
Mào hoa hồng gặp ở một số giống gà Trung Quốc, Ấn Độ và
các giống gà Châu Á khác. Khi lai gà có mào hoa hồng với gà có
mào đơn thì nhận được sự phân ly với mào lá và mào hạt đậu. Khi
lai gà có mào hoa hồng với gà có mào hạt đậu, tất cả gà con ở thế hệ
thứ nhất (F1) đều có mào hạt đậu. Ở thế hệ thứ hai (F2) xuất hiện gà
có mào lá. Hiện tượng đó được giải thích trên cơ sở di truyền theo
phương thức sau đây: Bố mẹ có dạng mào hoa hồng với kiểu gen
RRpp, còn gà có mào lá có kiểu gen rrPP. Thế hệ F1 là mới -tồn tại
kiểu gen của bố và mẹ RrPp - nó quy định dạng mào hạt đậu. Ở F2
phân ly theo tỷ lệ 9 hạt đậu (R và P), 3 hoa hồng (p và R), 3 hạt đậu
(P và r) và 1 mào lá (rrpp).
Hình 3.3: Di truyền hình dạng mào ở gà
Lai gà trống mào hoa hồng với gà mái mào đơn,đời con thế hệ 1 có mào
hoa hồng ở cả trống và mái;thế hệ 2 tỷ lệ gà có mào hoa hồng/mào đơn là
3/1.
56
2.1.4. Sự di truyền liên kết với giới tính và ứng dụng trong
phân biệt giới tính ở gà
Cơ chế di truyền ở người và động vật cho phép nhận được ở
thế hệ sau 50% cá thể đực và 50% cá thể cái. Tuy vậy, trong sản
xuất không phải lúc nào cũng cần một tỷ lệ đực cái như nhau nên
việc phân biệt và tách đực cái sớm sẽ có ý nghĩa rất lớn trong chăn
nuôi. Ở gia cầm, giao tử đực là đồng hợp ZZ nhiễm sắc thể, cá thể
cái là dị hợp ZW. Nhiễm sắc thể Z ngoài quy định giới tính còn
mang theo 13 yếu tố di truyền khác (Hutt, 1949). Nhiễm sắc thể sinh
dục W quy định chỉ sự di truyền giới tính. Một số tính trạng hình
thái được xác định bởi giới tính, điều này cho phép ngay khi gia cầm
con nở ra có thể phân biệt được dựa vào những sai khác về ngoại
hình như màu lông, độ dài lông... Các đặc điểm này gắn liền với giới
tính và dạng dị hợp của cá thể cái được sử dụng trong chăn nuôi gia
cầm để tạo gia cầm lai phân biệt được giới tính ngay khi mới nở ra
khỏi trứng (autoxexing). Ngày nay, dạng gà autoxexing nhận được
theo 2 tính trạng là màu sắc lông và tốc độ mọc lông. Để hiểu cơ sở
di truyền của việc tạo gà lai phân biệt trống mái khi mới nở, ta xét
các trường hợp sau (hình 3.4).
Trường hợp 1: Cho lai giữa gà trống có bộ lông vằn, trội do
gen BB quy định với gà mái có màu lông đồng nhất do gen lặn
tương ứng b- quy định. ĐờI con sinh ra cả trống và mái đều có bộ
lông vằn nên không thể tách riêng trống mái qua màu lông.
Trường hợp 2: Cho lai ngược lại, gà trống có bộ lông đồng
nhất do gen lặn bb quy định với gà mái có bộ lông vằn, trội do gen
B- quy định. Đời con sinh ra có sự sai khác về màu sắc lông: gà
trống có bộ lông vằn, còn gà mái có bộ lông đông nhất. Đây là cơ sở
để tách trống mái lúc mới nở.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cáu tạo hệ tiêu hóa và sinh dục của gia cầm.pdf