Việc sử dụng CH, tổ chức cho HS tƣơng tác
với nhau, với GV, thông qua tiến trình hỏi,
đáp, phản hồi, đánh giá chia sẻ, thảo luận giữa
các nhóm nhỏ và nhóm lớn (cả lớp) sẽ tạo ra
bối cảnh khuyến khích HS tích cực tham gia
thảo luận về văn bản, cùng nhau giải quyết
vấn đề song song với quá trình tự xây dựng
kiến thức cho bản thân.
Để làm đƣợc điều này, đòi hỏi GV phải nắm vững
đặc trƣng của hình tƣợng nghệ thuật, các đặc điểm
của hoạt động tiếp nhận văn chƣơng, mục đích của
việc dạy đọc hiểu văn bản, trình độ HS, đồng thời
phải có năng lực tổ chức lớp học khéo léo, linh
hoạt.
6 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 468 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Câu hỏi hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Thị Hồng Nam Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 9 - 13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 9
CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC SINH ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
Nguyễn Thị Hồng Nam*
Đại học Cần Thơ
TÓM TẮT
Thiết kế và sử dụng câu hỏi nhƣ thế nào để đạt hiệu quả luôn là một thử thách đối với giáo viên.
Trong bài báo này, chúng tôi sẽ bàn về cơ sở của việc thiết kế câu hỏi để hƣớng dẫn học sinh đọc
hiểu tác phẩm văn chƣơng hình tƣợng, đó là thang nhận thức của Bloom, tính hình tƣợng, tính đa
nghĩa, tính truyền cảm của hình tƣợng nghệ thuật. Trên cơ sở đó, chúng tôi đề xuất các loại câu hỏi
nhằm phát triển năng lực tƣ duy cho học sinh nhƣ phân tích, tổng hợp, đánh giá, tƣởng tƣợng, giúp
học sinh thực hiện hai vai trò: giải mã và kiến tạo nghĩa cho văn bản. Đồng thời chúng tôi cũng
bàn về cách tổ chức cho học sinh tƣơng tác với nhau trong giờ học.
Từ khóa: loại hình câu hỏi, vai trò giải mã văn bản, kiến tạo văn bản, tương tác
ĐẶT VẤN ĐỀ
Một trong những cách thức tích cực hóa vai
trò của ngƣời học là sử dụng câu hỏi (CH)
trong dạy học (DH). Trong giờ DH tác phẩm
văn chƣơng (TPVC), CH của giáo viên (GV)
nên đƣợc thiết kế nhƣ thế nào để giúp sinh
viên, học sinh (chúng tôi gọi chung là học
sinh (HS) không chỉ thu nhận đƣợc kiến thức
về văn bản, về cuộc sống mà còn tác động
đến nhận thức, tình cảm, cách nhìn con ngƣời,
nhìn cuộc đời của HS. Sử dụng CH trong lớp
học, tổ chức cho HS suy nghĩ, thảo luận, phản
hồi nhƣ thế nào để đạt đƣợc các mục tiêu DH
lại vừa đảm bảo thời gian, không bị cháy giáo
án. Điều này đòi hỏi GV phải hiểu văn bản,
các đặc trƣng của tiếp nhận văn học, các loại
CH và mục tiêu của giờ đọc hiểu văn bản,
nắm vững trình độ HS.
CƠ SỞ THIẾT KẾ CÂU HỎI DẠY ĐỌC
HIỂU VĂN BẢN
Khi thiết kế CH trong DH và kiểm tra, đánh
giá HS, các nhà giáo dục thƣờng dựa vào
thang nhận thức của Bloom (1951) gồm 6
bậc: nhớ, hiểu, vận dụng, phân tích, tổng hợp,
đánh giá. Sau đó, thang nhận thức này đƣợc
Anderson và Krathwohl (2001) chỉnh sửa
gồm 6 bậc: nhớ, hiểu (mức độ tƣ duy cấp
thấp), vận dụng, phân tích, đánh giá, sáng tạo
Tel: 84 7103 830 261; Email:nhnam@ctu.edu.vn
(mức độ tƣ duy cấp cao). Thang nhận thức
này đã đƣợc sử dụng rộng rãi trong tất cả các
môn học. Tuy nhiên, TPVC không giống nhƣ
một tài liệu khoa học, một bài học lịch sử, địa
lý do vậy, khi thiết kế câu hƣớng dẫn HS
đọc hiểu văn bản, cần lƣu ý những vấn đề sau:
Thứ nhất, đối tƣợng tìm hiểu, khám phá của
giờ đọc hiểu là TPVC với những đặc trƣng:
tính hình tƣợng, tính truyền cảm, tính hàm
súc, tính đa nghĩa. Vì thế mà mỗi ngƣời đọc,
dựa trên kiến thức nền, quan điểm thẩm mỹ
của mình, có cách hiểu, cách giải thích khác
nhau về văn bản, đồng thời có thể sáng tạo ra
những ý nghĩa mới, ngoài những ý nghĩa mà
tác giả muốn gửi gắm. Bàn về vấn đề này,
Judith Langer (1992) cho rằng “Đọc TPVC là
sự thám hiểm khi việc không hiểu hết, hiểu rõ
chắc chắn là một phần bình thƣờng của hoạt
động đọc và cách hiểu mới khơi gợi những
cách hiểu khác. Ngƣời đọc suy ngẫm, thƣởng
ngoạn các cảm xúc, các vấn đề, các ngụ ý mà
tác giả gửi gắm trong văn bản, sử dụng kiến
thức về những khả năng của con ngƣời để
vƣợt qua giới hạn ý nghĩa của tác phẩm và
“làm đầy” hình tƣợng bằng cách hiểu của
mình” [2, trang 37]. Nhƣ vậy, vai trò của
ngƣời đọc không chỉ là giải mã văn bản:
khám phá ý nghĩa các từ ngữ, hình ảnh, ý
nghĩa của tác phẩm mà còn có một vai trò
kiến tạo nghĩa: tạo ra những ý nghĩa mới cho
văn bản. Vậy vấn đề đặt ra là trong quá trình
dạy đọc hiểu GV phải thiết kế đƣợc những
CH giúp HS thực hiện cả hai vai trò trên.
Nguyễn Thị Hồng Nam Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 9 - 13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 10
Vấn đề thứ hai: Chức năng của văn chƣơng là
phản ảnh cuộc sống, truyền cảm xúc cho
ngƣời đọc. Do vậy, ngoài việc phát triển tƣ
duy cho HS, CH còn có chức năng khơi gợi
cảm xúc, ký ức, kinh nghiệm sống của HS,
giúp HS có những suy ngẫm về cuộc sống.
Nếu GV chỉ hƣớng đến việc xây dựng CH để
thực hiện chức năng nhận thức (giúp HS hiểu
văn bản) thì không đầy đủ và không thể hiện
đƣợc các đặc trƣng riêng của hoạt động tiếp
nhận văn chƣơng, không đáp ứng đƣợc mục
tiêu dạy đọc hiểu văn bản.
Bên cạnh đó, sử dụng CH trong DH còn cần
hƣớng đến mục tiêu không kém phần quan
trọng là phát triển các kỹ năng xã hội nhƣ
diễn đạt, lắng nghe, phản hồi ý kiến của ngƣời
khác qua việc tổ chức hoạt động thảo luận
trong nhóm nhỏ và trong cả lớp.
Vậy CH nên đƣợc thiết kế và sử dụng nhƣ thế
nào để vừa đảm bảo đƣợc đặc trƣng của
TPVC, vừa đạt đƣợc các mục tiêu trên?
CÁC LOẠI CH HƢỚNG DẪN HS ĐỌC
HIỂU VĂN BẢN
Để khơi gợi kiến thức nền của HS vào việc
giải mã và kiến tạo nghĩa cho văn bản, để giờ
đọc hiểu văn bản thực sự tác động đến nhận
thức và tình cảm của HS, giúp ngƣời học qua
hành động đọc không chỉ hiểu văn bản mà
còn hiểu bản thân, hiểu ngƣời khác, hiểu cuộc
sống, chúng tôi đề xuất một số loại CH sau
(bảng 1).
Ví dụ: khi hƣớng dẫn HS học Chiếc thuyền
ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, GV có thể
hỏi “Hãy tìm chi tiết những chi tiết thể hiện
thái độ của ngƣời vợ khi bị chồng đánh?”, với
CH này, HS sẽ sử dụng nguồn thông tin có
sẵn trong văn bản để trả lời, và chỉ có một
đáp án duy nhất đúng cho CH này. Để trả lời
CH “Em lý giải như thế nào về hai thái độ
của ngƣời đàn bà: khi bị chồng đánh, bà cam
chịu, không kêu la, chống trả nhƣng khi thấy
con đánh lại chồng, bà lại cảm thấy xấu hổ,
đau đớn, nhục nhã, chắp tay vái con?”, HS
phải sử dụng kinh nghiệm, vốn sống của mình
để giải mã những chi tiết, hình ảnh trong văn
bản, và có thể có nhiều cách lý giải do mỗi
HS có vốn sống, vốn hiểu biết khác nhau. CH
“Hình ảnh ngƣời đàn bà trong tác phẩm này
gợi cho em nhớ đến cái gì?” hoặc “Câu
chuyện này gợi cho em những suy nghĩ gì về
cuộc sống?” thì câu trả lời rất phong phú, tùy
theo kinh nghiệm sống và độ sâu sắc trong
tâm hồn, suy nghĩ của từng HS. Để khơi gợi
năng lực tưởng tượng, khả năng kiến tạo
nghĩa cho văn bản của HS, GV có thể nêu
những CH “Nếu em ở trong hoàn cảnh của
ngƣời đàn bà, em sẽ xử sự nhƣ thế nào?”,
hoặc “Em suy nghĩ gì về sự cam chịu của
ngƣời phụ nữ?”. Những CH nhƣ vậy sẽ tạo
cho HS cơ hội đối mặt với những vấn đề của
thực tế và thể hiện chính kiến của bản thân.
Chúng tôi đã thử nghiệm sử dụng một số CH
trong bảng 1 khi tổ chức cho sinh viên (SV)
năm thứ ba ngành Sƣ phạm Ngữ văn đọc bài
thơ Cuộc phỏng vấn kiến của Trần Thị Huyền
Trang. Sau đây là phản hồi của 4 SV với 3
CH. Về CH “Văn bản này đã khơi gợi cảm
xúc gì của anh/chị”, câu trả lời là: Ðể có cuộc
sống ấm no thì phải cố gắng phấn đấu (SV
Thanh Thúy); Cảm thông cho sự vất vả của
kiến, trân trọng sự siêng năng, chăm chỉ,
thông minh (Hoàng Anh); Cảm thấy vui khi
đọc văn bản, ngẫm kỹ thì nó rất sâu sắc, đó là
triết lý trong cuộc sống: có những điều tƣởng
chừng nhỏ bé nhƣng lại rất quan trọng (Chí
Bằng); Ðồng cảm và thấu hiểu sự vất vả của
ngƣời dân lao động (Ngọc Hân). CH “Văn
bản này có đánh thức ký ức nào, gợi anh/chị
nhớ đến người nào, địa điểm hay kinh nghiệm
nào?”, mỗi SV có câu trả lời khác nhau:
Ðừng cứng nhắc trong việc nhìn nhận hay
giải quyết vấn đề (Thanh Thúy); Khi gặp khó
khăn trở ngại dù có lớn đến đâu cũng có cách
giải quyết “không có con đƣờng cùng, chỉ có
những ranh giới” (Hoàng Anh); Những con
ngƣời nhỏ bé, không có địa vị, trình độ nhƣng
lại nỗ lực hết mình, đƣơng đầu với khó khăn,
thử thách, dũng cảm đối mặt để mƣu sinh
(Chí Bằng); Ký ức về tuổi thơ, gợi nhớ đến
những con ngƣời nhỏ bé, kiên trì trong cuộc
sống (Ngọc Hân). Về CH “Ý nghĩ đầu tiên
của anh/chị khi đọc văn bản này là gì?”, phản
hồi của SV nhƣ sau: Cuộc sống nhìn bề ngoài
có vẻ phức tạp, khó khăn nhƣng hãy thử sức
Nguyễn Thị Hồng Nam Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 9 - 13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 11
của mình, mặc dù cái đích đến có thể khá xa
(Thanh Thúy); Ðời ngƣời giống nhƣ những
chú kiến, gian nan, vất vả nhƣng vẫn sống,
vẫn vƣợt qua và có cách xử lý thích hợp
(Hoàng Anh); Cảm thấy rất thú vị, nhiều ý
nghĩa sâu sắc (Chí Bằng); Nhà thơ dƣờng nhƣ
miêu tả sự lao động cực nhọc, cần mẫn và
những kinh nghiệm xƣơng máu của một loài
động vật (Ngọc Hân). Các phản hồi với cùng
một CH rất khác nhau, thể hiện kinh nghiệm
sống, kiến thức nền và cảm xúc khác nhau.
Và không thể dùng tiêu chí đúng/sai để phán
xét những phản hồi này. Phần lớn những CH
hƣớng dẫn HS đọc văn bản trong sách giáo
khoa và trong giờ đọc hiểu hiện nay chủ yếu
giới hạn ở loại CH Tìm chi tiết thể hiện sự
lam lũ, tảo tần của nhân vật; Chi tiết... có
ý nghĩa gì?’ Phân tíchNhững CH trên đều
hƣớng vào chức năng nhận thức: giúp HS
hiểu tác phẩm, nhớ các thông tin, chủ đề, thực
hiện vai trò giải mã văn bản, không chú trọng
khơi gợi cảm xúc, kinh nghiệm sống của HS,
không khuyến khích những cách hiểu khác
nhau về văn bản, cũng không giúp HS nhận
biết văn bản có tác động hoặc có ý nghĩa nhƣ
thế nào với chính các em. Đó là một trong
những nguyên nhân làm cho HS không thích
học văn. Hiệu quả của CH không chỉ phụ
thuộc vào nội dung CH mà còn phụ thuộc vào
cách sử dụng CH trong lớp học.
TẠO RA MÔI TRƢỜNG TƢƠNG TÁC
TRONG LỚP HỌC
Trong lớp học thƣờng xảy ra tình trạng GV
chỉ nêu CH cho một số HS tích cực, HS khá,
giỏi trả lời. Cách tổ chức thƣờng là: GV hỏi,
HS trả lời, GV đánh giá đúng/sai.
Bảng 1. Loại câu hỏi hƣớng dẫn học sinh đọc văn bản
Loại câu hỏi Mục đích
Nhân vật chính là ai?
Tìm các chi tiết, từ ngữ thể hiện (hình ảnh bà
Tú, cảnh ngày hè, tính cách nhân vật).
Hƣớng dẫn HS tìm các chi tiết quan trọng trong
văn bản, ghi nhớ thông tin, phát triển vai trò giải
mã văn bản.
Phân tích các chi tiết, hình ảnh
Tác dụng của biện pháp nghệ thuật ?
Lời nói của nhân vật thể hiện điều gì về tâm
trạng/suy nghĩ/tính cách của nhân vật ?
So sánh chi tiết/nhân vật A với các chi tiết/nhân
vật B
Rèn kỹ năng phân tích, so sánh, phát triển vai trò
giải mã văn bản.
Hãy tóm tắt cốt truyện ?
Chủ đề tác phẩm là gì ?
Rèn kỹ năng tổng hợp, phát triển vai trò giải mã
văn bản.
Tác giả đã thể hiện chủ đề của tác phẩm tốt đến
mức nào ?
Đặc sắc nghệ thuật nổi bật của tác phẩm này là
gì? Hạn chế của tác phẩm là gì?
Em đánh giá nhƣ thế nào về hành động của nhân
vật ?
Rèn kỹ năng đánh giá, phát triển vai trò giải mã
văn bản.
Theo em, thông điệp tác giả muốn gửi gắm trong
văn bản là gì ?
Khơi gợi kiến thức nền của HS, phát triển vai trò
kiến tạo nghĩa cho văn bản.
Nếu em ở trong hoàn cảnh của nhân vật, em sẽ
phản ứng/hành động/suy nghĩ nhƣ thế nào?
Khơi gợi năng lực sáng tạo, tưởng tượng của HS,
giúp HS, phát triển vai trò kiến tạo nghĩa cho văn
bản.
Nếu em là tác giả, em sẽ cho nhân vật hành động
nhƣ thế nào/sẽ kết thúc tác phẩm nhƣ thế nào?
Tại sao em lại chọn cách xử lý nhƣ vậy?
Khơi gợi năng lực tưởng tượng, sáng tạo, tư duy
logic của HS, phát triển vai trò kiến tạo nghĩa cho
văn bản.
Theo em, tựa đề của văn bản, bìa cuốn sách có
thể thể hiện nội dung gì?
Khơi gợi kiến thức nền và năng lực tưởng tượng
của HS.
Ý nghĩ đầu tiên của em khi đọc văn bản là gì? Khơi gợi kỷ niệm, vốn sống, khơi gợi cảm xúc
Nguyễn Thị Hồng Nam Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 9 - 13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 12
Vãn bản này đánh thức ký ức nào, gợi em nhớ
đến ngƣời nào, địa điểm hay kinh nghiệm nào?
Vãn bản này đã khơi gợi cảm xúc gì của em?
Văn bản bày gợi cho em suy nghĩ gì về cuộc
đời/con ngƣời ?
của HS, giúp HS liên hệ văn bản với thực tế, làm
cho nội dung văn bản gần gũi với cuộc sống của
ngƣời đọc.
Theo em, ngƣời anh hùng/ngƣời chồng tốt là
ngƣời nhƣ thế nào ?
Giúp HS liên hệ thực tế, nêu quan điểm cá nhân
về cuộc sống.
Điều này không khuyến khích đƣợc tất cả các
HS, thuộc mọi trình độ, tham gia vào tiến
trình kiến tạo kiến thức. Để khắc phục nhƣợc
điểm trên, để đạt đƣợc mục tiêu nhận thức,
thẩm mỹ, mục tiêu phát triển tƣ duy và rèn
luyện các kỹ năng xã hội nhƣ diễn đạt, lắng
nghe, phản hồi ý kiến của ngƣời khác, GV
cần tổ chức cho HS thảo luận trong nhóm nhỏ
và trong nhóm lớn (cả lớp), khuyến khích mọi
HS tham gia tìm câu trả lời, mời gọi các
HS/nhóm HS khác phản hồi, đánh giá ý kiến
của bạn/nhóm bạn. Kiểu đàm thoại này sẽ tạo
điều kiện cho HS chia sẻ kiến thức, hợp tác
cùng nhau tìm kiếm kiến thức. Qua đó, HS sẽ
nhận ra rằng có thể có nhiều câu trả lời khác
nhau, nhiều cách khác nhau để nhìn nhận vấn
đề. HS cũng học đƣợc cách lắng nghe, phân
tích, nhận xét, phát vấn, đánh giá. Taffy
Raphael và Efrieda Hiebert (1996) đề xuất sử
dụng cấu trúc I-R-E (Initiation-Response-
Evaluation) trong quá trình dạy đọc hiểu. Đó
là kiểu giao tiếp gồm 3 giai đoạn: Khởi xƣớng
- Trả lời - Đánh giá. Tác dụng của kiểu tƣơng
tác I-R-E là tạo ra cơ sở cho GV có thể điều
chỉnh kiến thức và sự hiểu biết của HS, giúp
việc học tập diễn ra theo đúng hƣớng và chỉ
ra rõ đâu là các kiến thức và kinh nghiệm thật
sự có giá trị. Tuy nhiên, cấu trúc I-R-E tƣơng
đối cứng nhắc, thể hiện rõ sự chi phối của
GV: chỉ định HS nào phát biểu, kết thúc cuộc
thảo luận bằng ý kiến đánh giá của GV. Để
tăng cƣờng sự tƣơng tác trong lớp học, để
cuộc thảo luận thực sự “mở”, khuyến khích
các ý kiến của HS, GV có thể sử dụng cấu
trúc I-R-I-R-E (Initiation-Response-Initiation-
Response-Evaluation), hay I-R-R-E
(Initiation-Response-Response-Evaluation).
Các kiểu giao tiếp này gồm một chuỗi những
trao đổi, phản hồi phản hồi này có thể gợi
ý, kích thích những ý kiến tiếp theo. GV có
thể dựa vào ý kiến của HS để dẫn dắt HS thảo
luận về những chủ đề liên quan [6].
E. Probst (1992) đề xuất biện pháp tạo điều
kiện cho HS tƣơng tác với nhau: (a) cho hai
HS cạnh nhau trao đổi những ký ức, suy nghĩ
và cảm xúc của mình khi đọc văn bản; (b)
phát cho mỗi HS phiếu ghi chép và phản hồi,
mỗi HS điền thông tin vào cột 1 và 2, sau đó,
đổi bài cho HS kế bên, HS này sẽ ghi phản
hồi của mình về ý kiến của bạn và trả lại ghi
chép của mình cho bạn [5].
Chúng tôi đã sử dụng biện pháp trên để tổ
chức cho các nhóm gồm hai SV thực hiện
hoạt động ghi chép và phản hồi khi đọc bài
Hoa gạo của Phan Huyền Thƣ. Hình bên là
sản phẩm của nhóm SV Nguyễn Ngọc Hoàng
Điều và Phan Thị Mộng Tiên. Ví dụ trên thể
hiện năng lực cảm nhận, phân tích văn bản
của Hoàng Điều (cột 1,2), ý kiến tán thành và
bổ sung của Mộng Tiên (cột 3) ý kiến trao đổi
lại của SV Điều (cột 4). Hoạt động này là
cuộc bút đàm về bài thơ giữa hai ngƣời đọc,
qua đó, họ cùng nhau chia sẻ cảm nhận của
mình về văn bản, giúp nhau hiểu văn bản hơn
đồng thời rèn kỹ năng diễn đạt, điều chỉnh
suy nghĩ trƣớc đó của bản thân về văn bản.
Vấn đề thứ hai của tiến trình sử dụng CH
trong lớp học là GV cần tổ chức những cuộc
thảo luận “mở”, nghĩa khuyến khích các ý
kiến khác nhau, không gò ép vào một đáp án
duy nhất đúng. CH của GV nhằm khơi gợi
hiểu biết, cảm xúc của HS, tạo điều kiện cho
HS tương tác, chia sẻ cảm xúc, kinh nghiệm
chứ không phải là mong đợi câu trả lời đúng ý
GV. Để làm đƣợc điều này, đòi hỏi GV phải
tôn trọng ý kiến của HS, đồng thời phải linh
hoạt, khéo léo điều khiển cuộc thảo luận để
không dẫn đến sự tranh cãi. Judith Langer
(1992) đề xuất một số biện pháp trợ giúp HS
tham gia vào quá trình tƣơng tác trong lớp
Nguyễn Thị Hồng Nam Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 9 - 13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 13
học nhƣ sau: (a) Gợi mở hiểu biết của HS
bằng cách mời HS trình bày suy nghĩ và nêu
CH, nếu đó là CH hay thì sử dụng CH đó cho
các nhóm thảo luận; (b) Yêu cầu HS giải
thích ý kiến của mình; (c) Mời HS thực hiện
lƣợt nói của mình trong cuộc thảo luận; (d)
Hƣớng dẫn HS cách liên hệ các ý kiến, cách
đồng ý, không đồng ý và cách mở rộng các ý
tƣởng; (e) Khi HS thảo luận, GV đến các
nhóm đóng vai trò là ngƣời quan sát, giúp đỡ
HS nếu chƣa hiểu CH [3].
Việc tổ chức thảo luận về văn bản trong các
nhóm nhỏ và cả lớp sẽ làm cho HS tham gia
một cách thực sự vào việc giải mã và kiến tạo
nghĩa cho văn bản, thể hiện chính kiến, đồng
tình hay phản bác ý kiến khác, bảo vệ quan
điểm của mình HS có nhiều cơ hội học hơn
thông qua sự tƣơng tác với những ngƣời hiểu
biết hơn: GV, các HS khác. Kiến thức đƣợc
kiến tạo giữa các cá nhân trong một môi
trƣờng văn hoá xã hội thu nhỏ là lớp học, qua
đó, HS khám phá ý tƣởng mới, phát triển cách
thức tƣ duy mới.
KẾT LUẬN
Việc sử dụng CH, tổ chức cho HS tƣơng tác
với nhau, với GV, thông qua tiến trình hỏi,
đáp, phản hồi, đánh giá chia sẻ, thảo luận giữa
các nhóm nhỏ và nhóm lớn (cả lớp) sẽ tạo ra
bối cảnh khuyến khích HS tích cực tham gia
thảo luận về văn bản, cùng nhau giải quyết
vấn đề song song với quá trình tự xây dựng
kiến thức cho bản thân.
Để làm đƣợc điều này, đòi hỏi GV phải nắm vững
đặc trƣng của hình tƣợng nghệ thuật, các đặc điểm
của hoạt động tiếp nhận văn chƣơng, mục đích của
việc dạy đọc hiểu văn bản, trình độ HS, đồng thời
phải có năng lực tổ chức lớp học khéo léo, linh
hoạt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Anderson & Krathwohl – beyond Bloom. Truy cập
từ:
nomy.htm ngày 7.11.2010
[2]. Benjamin Bloom. Bloom’s taxonomy.
Truy cập từ ngày
20 tháng 10 năm 2010.
[3]. Judith A. Langer (1992). Literature Instruction, a
focus on student response. National Council of
Teachers of English.
[4]. Nguyễn Thị Hồng Nam (2006). “Thiết kế câu hỏi
trong dạy học văn – một thử thách với giáo viên”, Tạp
chí Giáo dục số 147, kỳ 1 – 10/2006.
[5]. Probst R.E. Five Kinds of Literary Knowing in
trong Literature Instruction, a focus on student
response. Edited by Judith A. Langer (1992). National
Council of Teachers of English.
[6]. Taffy E. Raphael & Elfrieda H. Hiebert (1996).
Creating Intergrated Approach to Literacy Instruction.
Harcourt Brace College Publishers.
[7]. Taffy E. Raphael & Kathryn H. Au (2005). QAR:
Enhancing comprehension and test talking across
grades and content areas (2005). The Reading Teacher
Vol.59, No.3, November 2005 (pp 206-221).
ABSTRACT
DESIGNING AND USING QUESTIOSN IN READING COMPREHENSION OF NON-FICTION
WORKS
Nguyen Thi Hong Nam
Can Tho University
How to design and use questions effectively is always a challenge for teachers. In this article, we discuss the
principles of question design in order to guide students in reading of non-fiction works. Based on Bloom’s taxonom
and the iconic features, multi-meanings, and emotive characteristics of these artistic symbols/ figure, different types
of questions are proposed to help improve students’ critical thinking and cognitive capacity such as analysis,
synthesis, evaluation, and imagination. These skills have two roles: decoding and constructing meanings for
literature works. Simultaneously, we also mention the ways to organize activities so that students can have mutual
interactions in the classrooms.
Key words: types of questions, text decoding, meaning construction, interactions
Nguyễn Thị Hồng Nam Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 9 - 13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 14
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_32743_36585_21820129509913_5732_2052657.pdf