Tất cả những câu hỏi nêu trên, có thể vẫn còn chưa đầy đủ, là những vấn
đề để chúng ta cùng suy nghĩ, tìm câu trả lời và những giải pháp hợp lý. Nhưng
dù những câu trả lời và những giải pháp có như thế nào thì chúng phải luôn gắn
bó một cách logic với nhau, tạo nên một cơ chế đồng bộ. Chỉ có như vậy đổi
mới phương pháp giảng dạy đại học nhằm nầng cao chất lượng đào tạo tại các
trường nói chung và ở trường Đại học Hà Nội nói riêng mới tránh được tình
trạng manh mún, tự phát, mang tính phong trào nhất thời và trở thành một hoạt
động thường xuyên, lâu dài, mang lại hiệu quả tích cực và duy trì được bền vững.
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cần một giải pháp tổng thể để đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập tại trường đại học Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC “ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY ĐẠI HỌC” 2009
169
CẦN MỘT GIẢI PHÁP TỔNG THỂ
ĐỂ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY VÀ HỌC TẬP
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀ NỘI
LÊ THANH DŨNG∗
Trong bài viết này, trước hết tôi muốn trình bày một số nhận xét, có thể
phần nào mang tính chủ quan, về tình hình giảng dạy và học tập của giảng viên
và sinh viên ở phần lớn các trường đại học hiện nay, trong đó có trường Đại học
Hà Nội. Nhận định chủ yếu là muốn đổi mới phương pháp giảng dạy có hiệu quả
và trở thành một phong trào sâu rộng, thực chất thì cần phải có một giải pháp
tổng thể bao gồm trước hết là những thay đổi từ phía những nhà quản lý để dẫn
đến những thay đổi trong phương pháp giảng dạy và phương pháp kiểm tra đánh
giá của giảng viên, từ đó tạo ra thói quen và phương pháp học tập chủ động tích
cực của sinh viên.
Nhìn tổng thể thực trạng dạy và học tại nhiều nước Châu Á, trong đó có
Việt Nam, có thể thấy ngay từ khi bước chân vào trường phổ thông cho đến khi
lên học đại học, người học phải luôn đối phó với một chương trình học quá nặng
nề, phương pháp giảng dạy theo kiểu thuyết giảng một chiều, nhồi nhét lỗi thời,
với một cơ chế đào tạo không tạo chủ động cho người học đi kèm với hệ thống
kiểm tra đánh giá chỉ khuyến khích người học thuộc lòng. Tính đối phó như vậy
khó có thể tạo ra khả năng sáng tạo trong học tập hay óc tư duy phê phán trong
suy nghĩ và giải quyết vấn đề, thậm chí còn hủy diệt dần khả năng tư duy sáng
tạo của sinh viên.
Hệ thống giáo dục tiến bộ của những nước tiên tiến cho thấy trong giáo
dục sáng tạo, sinh viên học không quá lệ thuộc vào quá trình đào tạo, mà ngược
lại, cần tự học, tự tìm tòi và tự đào tạo. Học tập là một quá trình chủ động nên
thầy không thể học thay trò. Phương pháp dạy và học tích cực - đã được thế giới
∗ Th.S., Khoa tiếng Anh
đưa vào sử dụng phổ biến – là phương pháp lấy phương châm cơ bản người học
chủ động khám phá, tiếp thu kiến thức thông qua tranh luận, trao đổi dưới sự
điều chỉnh, hướng dẫn của thầy. Phương pháp mới này bắt buộc sinh viên tự
học, tự tham khảo tài liệu, tích cực suy luận đồng thời đòi hỏi người thầy giỏi
chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm. Để có được một giờ học tích cực như thế,
giảng viên phải lao động vất vả hơn trước, từ việc chuẩn bị đề cương bài học,
chuẩn bị câu hỏi định hướng cho sinh viên thảo luận đến những phân tích, giảng
giải cuối cùng trước khi kết luận vấn đề. Hơn nữa, giảng viên có thể gặp những
tình huống bất ngờ, những câu hỏi thông minh mang tính tìm tòi, sáng tạo từ
phía sinh viên nên cần trang bị kiến thức vững vàng, sâu rộng mới chủ động
được trong trường hợp đó. Như vậy, đổi mới phương pháp dạy học gắn liền với
đổi mới nội dung, nâng cao trình độ khoa học cũng như nghiệp vụ sư phạm của
thầy, bên cạnh đó còn tận dụng tối đa các phương tiện dạy học hiện đại như máy
chiếu, mạng internet, các phần mềm hỗ trợ giúp giờ học thêm sinh động, tránh
lãng phí thời gian. Tóm lại, phương pháp dạy học tích cực phát huy sức sáng
tạo, trí tưởng tượng, khả năng tư duy độc lập và huấn luyện cho người ta cách
nhìn bao quát vấn đề - những phẩm chất vô cùng cần thiết trong thời đại bùng nổ
thông tin như ngày nay.
Trên thực tế chúng ta không thể kéo dài mãi thời gian của các khóa đào
tạo cũng như trong thời gian đào tạo tại trường vì không thể hy vọng trang bị đủ
tất cả mọi kỹ năng và kiến thức để cho sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường có
thể làm việc tốt. Nhiều nội dung kiến thức học được trong trường sau khi tốt
nghiệp sẽ nhanh chóng bị lạc hậu và cũng rất nhiều kiến thức mới, kỹ năng mới
sẽ ra đời. Ở trong trường sinh viên có thể được dạy mười nhưng ra chỉ làm ở
một lĩnh vực nào đó, trong khi đó lĩnh vực công tác mới có thể hết sức mới mẻ,
bỡ ngỡ, đòi hỏi phải liên tục cập nhật, tự đào tạo, đào tạo lại và phải tự học suốt
đời rất nhiều thì mới có thể đáp ứng, hoàn thành nhiệm vụ được giao.
170
KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC “ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY ĐẠI HỌC” 2009
171
BẢN CHẤT GIẢNG
DẠY ĐẠI HỌC
Phát triển tri thức và năng lực tư duy (logic, trừ
tượng, tự điều chỉnh, phê phán, sáng tạo )
Hình thành và phát triển các kỹ năng nghề
nghiệp, năng lực nghiên cứu & giải quyết vấn đề
Tăng cường khả năng làm việc độc lập và
làm việc hợp tác
Xây dựng phong cách lãnh đạo và quản lý
Trong hơn 10 năm trở lại đây Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã yêu cầu
các trường đại học và các cơ sở đào tạo chuyển đổi mục tiêu, chương trình, giáo
trình, nội dung, phương pháp, kiểm tra đánh giá theo hướng giảng dạy tích cực
và theo hướng lấy người học làm trung tâm. Đặc biệt, Bộ GD-ĐT đã coi đổi mới
phương pháp dạy học của giáo viên và phương pháp học tập của sinh viên là
một nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục Đại học năm 2008-2009 và cũng là một
nội dung cơ bản của phong trào thi đua do Bộ phát động.
Theo yêu cầu nói trên, mục tiêu đào tạo của trường đại học phải chuyển
hướng từ chỗ từ trước đến nay các chương trình đào tạo xây dựng theo hướng
tiếp cận nội dung - tức là hy vọng cung cấp cho sinh viên đầy đủ kiến thức khi ra
trường - chuyển sang xây dựng chương trình đào tạo theo hướng tiếp cận với sự
phát triển của nền kinh tế xã hội, sự bùng nổ thông tin trong các lĩnh vực khoa
học kỹ thuật. Thực tế cho thấy trong trường đại học chúng ta chỉ có quỹ thời
gian đào tạo cho sinh viên những kỹ năng nghề nghiệp và cung cấp phần kiến
thức cốt lõi (chuyên ngành) của ngành nghề, vì vậy phải rèn luyện cho sinh viên
có khả năng tự học một cách chủ động, tích cực để sinh viên có thể tiếp tục cập
nhật các kỹ năng và kiến thức mới sao cho có thể tự phát triển được sau khi tốt
nghiệp ra trường khi không còn thầy hướng dẫn.
Điều đó cũng có nghĩa là giảng viên không phải chỉ giảng những kiến
thức thầy sẵn có mà phải giảng những kiến thức, kỹ năng sinh viên cần phải có
để đáp ứng được các nhu cầu ngành nghề xã hội. Đây là một phương pháp giảng
dạy mới có hiệu quả đào tạo, làm người học có khả năng tự học trong trường và
cả sau khi đã tốt nghiệp ra trường, do đó có khả năng thích ứng cao với nghề
nghiệp.
CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ “SẢN PHẨM” ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC
CÁC KỸ NĂNG
CƠ BẢN
Kỹ năng giao
tiếp tốt
Khả năng sáng
tạo & thích ứng Tự giác và
linh hoạt
Khả năng cạnh
tranh lành mạnh
Hiểu biết VH &
QH quốc tế
Có khả năng ra
quyết định Khả năng làm
việc nhóm
Khả năng
đánh giá
Khả năng
ngoại ngữ
Kiến thức
cơ bản
Công nghệ
thông tin
Tư duy phê
phán
Với quan điểm trên, nâng cao chất lượng đào tạo không chỉ tập trung vào
giảng viên, hay hẹp hơn, đổi mới phương pháp giảng dạy là đủ. Nó tùy thuộc
vào một tập hợp đồng bộ các yếu tố quan trọng khác. Đó là: (1) Tầm nhìn và
quyết tâm đổi mới của các cấp quản lý, từ đó tạo ra môt môi trường đào tạo cho
phép/khuyến khích những đổi mới và cải tiến diễn ra; (2) Đổi mới phương pháp
giảng dạy của đội ngũ giảng viên và (3) sự hưởng ứng tích cực từ phía sinh viên
theo hướng thay đổi phương pháp học tập thụ động, phụ thuộc. Nói một cách
khác, cần phải có một giải pháp tổng thể và đồng bộ để đổi mới diễn ra có hiệu
quả và duy trì được lâu dài, tạo nên một sự thay đổi đáng kể về chất lượng sản
phẩm đào tạo. Trong chuỗi các yếu tố kể trên yếu tố các cấp quản lý đóng vai trò
quan trọng nhất. Nếu các cấp quản lý có những chính sách, chiến lược và các
biện pháp thích hợp họ có thể tác động mạnh vào ý thức giáo viên, giúp họ theo
đúng quỹ đạo của sự phát triển. Khi đề cập đến vấn đề này tôi rất tâm đắc với
nhận xét của Phó giáo sư, tiến sĩ Lê Phước Lộc - nguyên trưởng khoa sư phạm
trường Đại học Cần Thơ: “Muốn đổi mới phương pháp giảng dạy thì lãnh đạo
phải đổi mới nhận thức để mở đường cho giảng viên làm việc; giảng viên nhận
172
KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC “ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY ĐẠI HỌC” 2009
173
thức sự đổi mới để mở đường cho sinh viên. Đổi mới phương pháp giảng dạy
không chỉ là khoa học và nghệ thuật mà còn phải kèm theo phong thái của
người dạy và học”.
Hãy xem xét vai trò của từng thành tố trong giải pháp tổng thể trên trong
quá trình đổi mới phương pháp dạy và học để nâng cao chất lượng đào tạo.
Chúng ta có thể bắt đầu bằng cách đặt hàng loạt các câu hỏi vì tôi tin từ câu hỏi
sẽ tìm được câu trả lời và có phương hướng tìm giải pháp thích hợp.
1- Vai trò của các cấp quản lý
- Các cấp quản lý (Bộ, lãnh đạo trường đại học, các khoa, phòng, ban, các
tổ bộ môn) đã tạo điều kiện đến đâu (các định hướng, chiến lược, chính
sách về con người, cơ sở vật chất) cho quá trình đổi mới PPGD của
người thày và PP học tập của sinh viên diễn ra?
- Phải chăng các cấp quản lý mới chỉ bắt đầu ở mức phát động phong trào,
chủ yếu kêu gọi trách nhiệm của người thầy, chờ đợi sự đổi mới diễn ra từ
cấp cơ sở, tức là từ dưới lên? Tại sao quy trình này không bắt đầu từ cả
hai chiều, tức là cả từ trên xuống và từ dưới lên? Phải chăng cách làm
đúng đắn là phải có các điều kiện cần và đủ (từ các cấp quản lý tạo ra) để
người thầy có thể đổi mới PPGD, và sinh viên có thể đổi mới phương
pháp học tập dưới sự tác động của những PPGD mới của người thầy?
- Cụ thể: Đối với đội ngũ giảng viên hiện có đã có những điều kiện, những
khuyến khích gì về mặt chương trình, giáo trình, quy chế thi cử kiểm tra,
chế độ chính sách, kể cả các quy định bắt buộc và cơ chế giám sát thực thi
các quy định đó, cho những người đang giảng dạy áp dụng những kỹ
năng, kiến thức chuyên môn đã được đào tạo và những tiến bộ mới trong
ngành của mình vào các lớp học? Tại sao (trong khuôn khổ trường
ĐHHN) đa số giảng viên là những người đã được đào tạo bài bản ở nước
ngoài lại chưa ứng dụng được các PHGD tiên tiến, hiện đại vào lớp học
một cách đại trà, tự nguyện? Giảng viên hiện nay có quá tải công việc đến
mức không còn muốn áp dụng PPGD hiện đại, tích cực? Thù lao giảng
dạy có hợp lý để họ thấy những tìm tòi, cải tiến, thử nghiệm và ứng dụng
xứng đáng với công sức họ bỏ ra? Cách đánh giá giảng viên có mang tính
khuyến khích để họ áp dụng và phát huy cái mới, hay là sự đánh giá “dĩ
hòa vi quý” ai cũng như ai, triệt tiêu động cơ phấn đấu, cải tiến, đổi mới,
hoàn thiện?
- Đối với đội ngũ giảng viên sẽ tuyển dụng: đã có tầm nhìn và chiến lược
dài hạn bổ sung lực lượng giảng viên chưa? Đó có phải là chiến lược chủ
động ươm mầm tài năng từ chính những sản phẩm do mình đào tạo ra để
bổ xung lực lượng? Hay mới chỉ là những biện pháp tình thế kiểu “trông
chờ” và “hái lượm”? Đã có kế hoạch và chính sách cụ thể để đào tạo, bồi
dưỡng các thế hệ giảng viên kế cận? Có đủ tiềm lực và đầu tư thỏa đáng
để đội ngũ giảng viên được thường xuyên cập nhật, qua các hội nghị, hội
thảo, tập huấn trong nước và quốc tế, những tiến bộ, cải tiến về PPGD,
phương pháp kiểm tra đánh giá?
- Về mặt cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy, học tập và quy mô lớp học:
- Lớp học hiện nay có quá đông để có thể áp dụng được những phương
pháp giảng dạy và kiểm tra đánh giá tiên tiến? Đã có bao nhiêu giảng
đường, phòng học thực sự đáp ứng được những đòi hỏi cần thiết của một
lớp học ngoại ngữ như không gian đủ rộng, bàn ghế cho phép di động linh
hoạt, có phương tiện nghe nhìn và truy cập internet? Có đủ phòng cho
giảng viên làm việc với từng nhóm sinh viên (tutorial) sau các bài giảng?
Thư viện đã đủ đầu sách, đủ năng lực cung cấp phòng đọc, phòng truy cập
Internet cho sinh viên độc lập học tập, nghiên cứu?
- Có cách nào giảm tải công việc cho giảng viên, đảm bảo cho giảng viên
có đồng lương đủ nuôi sống gia đình để họ yên tâm cống hiến cho công
tác giảng dạy, say mê tìm tòi nghiên cứu, tự bồi dưỡng và cải tiến ứng
dụng PPGD mới mẻ, tiên tiến?
- Cơ chế quyền lợi (vật chất) có đi kèm với các quy định, quy chế chặt chẽ
và đủ mạnh về chuyên môn (ví dụ cơ chế hoạt động giảng dạy và sinh
174
KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC “ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY ĐẠI HỌC” 2009
175
hoạt chuyên môn của Tổ bộ môn), nhất là cơ chế giám sát, thưởng phạt
hợp lý nhằm đưa các hoạt động chuyên môn của giảng viên đi đúng quỹ
đạo mong muốn?
Khi nêu ra các câu hỏi trên, tôi muốn nhấn mạnh rằng công tác bồi dưỡng
giáo viên và xây dựng đội ngũ là quan trọng hàng đầu. Tiền bạc thiếu có thể xin,
vay, tích cực tìm kiếm nguồn thu và nguồn đầu tư. Cơ sở vật chất chưa có thì chỉ
sau một vài năm có thể xây cao, đẹp. Thiết bị giảng dạy hiện đại, đắt tiền có thể
mua dần, nhưng cuối cùng vẫn là những con người sử dụng nó. Đội ngũ yếu,
thiếu, kém chất lượng thì thiết bị hiện đại cũng không ai sử dụng. Việc củng cố,
bổ sung và phát triển đội ngũ giáo viên cần được các trường đưa vào công tác
hàng đầu, bởi vì nếu không đào tạo họ, chăm sóc họ, không tạo điều kiện cần và
đủ cho họ phát huy khả năng chuyên môn, tìm tòi sáng tạo các cấp quản lý
không thể kêu gọi gì hơn về chất lượng sản phẩm mà họ đào tạo.
2- Vai trò của người thầy
- Phần lớn các giảng viên hiện nay của trường ĐHHN là những người đã
được đào tạo bài bản ở nước ngoài và trong nước, có kiến thức và am hiểu
về những PPGD hiện đại. Tại sao họ chỉ có thể áp dụng hạn chế, thậm chí
có người ít khi ứng dụng những PPGD, phương pháp kiểm tra đánh giá
tiên tiến đó vào các lớp học?
- Giảng viên có coi đổi mới PPGD là trách nhiệm, là lương tâm nghề
nghiệp? Có khả năng khắc phục khó khăn để tìm cách cải tiến phương
pháp lên lớp đạt hiệu quả đào tạo cao hơn?
- Giảng viên đã thực sự đổi mới cách nghĩ, cách làm theo hướng tạo một
môi trường học tập tương tác, lấy sinh viên làm trung tâm, cho phép sinh
viên chủ động, tích cực trong học tập, nghiên cứu? Những gì là nguyên
nhân gây ra sức ì, sức cản cho quá trình đổi mới và ứng dụng các PPGD
hiện đại của các giảng viên vào lớp học?
- Giảng viên có thường xuyên coi việc bồi dưỡng và tự bồi dưỡng chuyên
môn (đọc sách chuyên môn, tham dự hội nghị hội thảo chuyên đề, tập
huấn đào tạo, trao đổi kinh nghiệm trong nước và ngoài nước) là một
việc làm cần thiết và thường xuyên?
- Giảng viên có kinh nghiệm giảng dạy có coi việc hướng dẫn và giúp đỡ về
chuyên môn đối với giáo viên trẻ là trách nhiệm và nhiệm vụ của mình?
- Giảng viên có khả năng tiếp cận, biết tự cập nhật các kỹ năng sử dụng
công nghệ mới (ICT), và có điều kiện ứng dụng công nghệ mới vào giảng
dạy?
3- Vai trò của sinh viên
- Sinh viên Việt Nam tuy luôn được đánh giá là thông minh, cần cù, hiếu
học, nhưng do quá trình học tập trong một hệ thống giáo dục còn nhiều
yếu kém với những PPGD truyền thống, nên so với sinh viên các nước
thường thụ động, chờ đợi và dựa dẫm nhiều vào người thầy. Mặc dù vậy,
khi được học tập trong một môi trường, điều kiện học tập tiên tiến như khi
được đi du học, họ lại rất nhanh chóng thay đổi phương pháp học tập của
mình, trở nên chủ động, sáng tạo, có quyết tâm học tập cao và thường
không hề tỏ ra thua kém sinh viên của bất cứ quốc gia nào khác. Điều đó
khẳng định rằng nếu điều kiện học tập thích hợp, nếu người thầy đổi mới
PPGD, coi người học là trung tâm, ứng dụng những tiến bộ mới vào lớp
học, với những định hướng và giúp đỡ cần thiết, tuyệt đại đa số sinh viên
hoàn toàn có thể thay đổi và thích ứng theo.
- Mặc dù vậy, chúng ta vẫn cần đặt ra những câu hỏi sau: Khi đến với môi
trường đại học, với những thay đổi đột ngột so với hệ phổ thông từ cách
dạy đến cách học, cách kiểm tra đánh giá, họ có được hướng dẫn, định
hướng đầy đủ để chuẩn bị tâm lý đón nhận những thay đổi đó hay chưa?
- Chúng ta có thể tìm hiểu, điều tra khảo sát nhu cầu học tập của các đối
tượng sinh viên đến mức nào và có làm việc đó thường xuyên? có thể cá
nhân hóa quy trình dạy, và cá nhân hóa quy trình học đến đâu để đáp ứng
với các chiến lược, phương pháp và phong cách học tập rất đa dạng của cá
nhân các sinh viên trong một lớp? Của cá nhân các lớp trong một khóa?
176
KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC “ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY ĐẠI HỌC” 2009
177
- Khai thác vai trò cộng tác và phản hồi tích cực của sinh viên trong mô
hình học tập tiên tiến như thế nào để có thể đảm bảo những cải tiến và đổi
mới phương pháp giảng dạy của người thầy có thể tiến hành thành công?
Tất cả những câu hỏi nêu trên, có thể vẫn còn chưa đầy đủ, là những vấn
đề để chúng ta cùng suy nghĩ, tìm câu trả lời và những giải pháp hợp lý. Nhưng
dù những câu trả lời và những giải pháp có như thế nào thì chúng phải luôn gắn
bó một cách logic với nhau, tạo nên một cơ chế đồng bộ. Chỉ có như vậy đổi
mới phương pháp giảng dạy đại học nhằm nầng cao chất lượng đào tạo tại các
trường nói chung và ở trường Đại học Hà Nội nói riêng mới tránh được tình
trạng manh mún, tự phát, mang tính phong trào nhất thời và trở thành một hoạt
động thường xuyên, lâu dài, mang lại hiệu quả tích cực và duy trì được bền
vững.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gia_phap_tong_the_cho_doi_moi_ppgd_4112.pdf