CÁC CHÍNH SÁCH KINH TẾ TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY VÀ TÁC ĐỘNG ĐẾN DOANH NGHIỆP.
PGS.TS. LÊ XUÂN BÁ
Kết thúc năm 2010, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được kết quả tích cực trên hầu hết các lĩnh vực. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm sáng thể hiện thành tựu đạt được nền kinh tế còn có nhiều hạn chế và thách thức.
Những hạn chế và thách thức này đã bộc lộ rõ ngay từ những tháng đầu năm 2011khi tình hình kinh tế vĩ mô cả trong nước và thế giới đều đối mặt với rất nhiều khó khăn và biến động khó lường. Lạm phát trong nước vẫn đang tăng cao và chỉ tiêu kiềm chế lạm phát dưới mức 7% của Chính phủ trong năm 2011 khó thành hiện thực. Nhiều chỉ tiêu kinh tế – xã hội khác như bội chi ngân sách, nhập siêu, cũng khó thực hiện. Trước những đòi hỏi của nền kinh tế, những tháng đầu năm, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành thực hiện nhiều giải pháp chính sách kinh tế bảo đảm kinh tế vĩ mô, kiểm soát, ngăn ngừa tái lạm phát cao. Đây là những giải pháp chính sách cần thiết. Tuy nhiên, những giải pháp chính sách này có tác động như thế nào đối với doanh nghiệp? Bài viết này nhằm đưa ra một số đánh giá ban đầu về tác động của những giải pháp chính sách kinh tế trong thời gian vừa qua đến hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài phần mở đầu, bài viết gồm 3 phần. Phần 1 sơ lược tình hình kinh tế năm 2010 và 4 tháng đầu năm 2011. Phần 2 trình bày những giải pháp chính sách đã được ban hành và thực hiện trong thời gian vừa qua, đặc biệt trong những tháng đầu năm 2011 (chủ yếu là những giải pháp chính sách kinh tế có liên quan đến doanh nghiệp). Phần 3 đưa ra một số tác động ban đầu của giải pháp chính đến doanh nghiệp đồng thời đề xuất một số ý kiến hoàn thiện trong thời gian tới.
1. Sơ lược tình hình kinh tế năm 2010 và bốn tháng đầu năm 2011
Trong khuôn khổ hạn hẹp, phần này chỉ điểm qua tình hình về tăng trưởng kinh tế, thương mại, đầu tư và lạm phát.
Tăng trưởng kinh tế
Năm 2010, nền kinh tế Việt Nam đã có mức tăng trưởng khá và có xu hướng quý sau tăng nhanh hơn quý trước nhờ việc thực hiện đồng bộ các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phát triển và những chính sách hỗ trợ sản xuất kinh doanh. Nền kinh tế đã sớm vượt qua giai đoạn khó khăn và phục hồi nhanh sau khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tốc độ tăng GDP của quý I là 5,84%, quý II – 6,44%, quý II – 7,16%, quý IV- 7,34%. Tính chung, cả năm 2010 GDP tăng 6,78%. Tăng trưởng của cả 3 khu vực nông – lâm – thủy sản, công nghiệp – xây dựng và dịch vụ năm 2010 đều tăng so với với năm 2009 (Bảng 1).
Đến quý I/2011, tốc độ tăng trưởng đạt 5,43% so với cùng kỳ năm 2010. Tốc độ tăng trưởng tương ứng của các khu vực nông – lâm – thủy sản, công nghiệp – xây dựng và dịch vụ lần lượt đạt 2,05%, 5,47%, và 6,28%.
Bảng 1: Tăng trưởng GDP theo ngành, 2006-2010
Ngành
2006
2007
2008
2009
2010
Tốc độ tăng trưởng (%)
GDP
8,23
8,48
6,29
5,32
6,78
Nông – lâm – thủy sản
3,69
3,40
5,04
1,82
2,78
Công nghiệp – xây dựng
10,38
10,60
5,61
5,52
7,70
Dịch vụ
8,29
8,68
7,54
6,63
7,52
Đóng góp vào tăng trưởng GDP theo điểm phần trăm
GDP
8,23
8,48
6,29
5,32
6,78
Nông – lâm – thủy sản
0,72
0,64
0,90
0,32
0,47
Công nghiệp – xây dựng
4,17
4,34
2,34
2,29
3,20
Dịch vụ
3,34
3,50
3,04
2,71
3,11
Đóng góp vào tăng trưởng GDP theo tỷ lệ phần trăm
GDP
100,00
100,00
100,00
100,00
100,00
Nông – lâm – thủy sản
8,77
7,52
14,31
6,05
6,99
Công nghiệp – xây dựng
50,68
51,22
37,29
43,07
47,19
Dịch vụ
40,55
41,26
48,40
50,88
45,82
Nguồn: TCTK và tính toán của Viện NCQLKTTW.
Thương mại
Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2010 đạt khoảng 72,2 tỷ USD, tăng 26,4% so với năm 2009. Giá hàng hóa xuất khẩu có xu hướng tăng dần vào những tháng cuối năm. Xu hướng này vẫn tiếp diễn trong 4 tháng đầu năm 2011 với kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 26,9 tỷ USD, tăng tới 35,7% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng ở cả giá và lượng xuất khẩu.
Tổng giá trị nhập khẩu hàng hoá năm 2010 đạt 84,8 tỷ USD, tăng 21,2% so với năm 2009. Giá nhập khẩu hàng hoá khá ổn định kể từ đầu năm 2010 nhưng ở mức cao, và chỉ tăng dần từ 3 tháng cuối năm 2010. Đáng chú ý là mức tăng giá nhập khẩu còn lớn hơn cả mức giảm lượng nhập khẩu. Tương tự như xuất khẩu, nhập khẩu dường như cũng tăng nhanh hơn trong bốn tháng đầu năm 2011, với giá trị hàng hóa nhập khẩu đạt 31,8 tỷ USD, tăng 29,1% so với cùng kỳ năm 2010. Nhập siêu bốn tháng đầu năm là 4,9 tỷ USD, bằng 18,2% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu.
Đầu tư
Trong năm 2010, tổng vốn đầu tư xã hội đạt 830,3 nghìn tỷ đồng, tăng 17,1% theo giá thực tế so với năm 2009 và bằng 41,9% GDP2 . Tỷ lệ đầu tư này cao hơn so với năm 2008 (41,5%), năm thực hiện cắt giảm đầu tư để đối phó với tình hình lạm phát cao, nhưng thấp hơn so với tỷ lệ 46,5% GDP năm 2007 và 42,7% năm 2009. Đến hết quý I/2011, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội theo giá thực tế thực hiện ước tính đạt 171,5 nghìn tỷ đồng, tăng 14,7% so với cùng kỳ năm 2010.
13 trang |
Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 2067 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các chính sách kinh tế trong thời gian gần đây và tác động đến doanh nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÁC CHÍNH SÁCH KINH TẾ TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY VÀ TÁC ĐỘNG ĐẾN DOANH NGHIỆP.
PGS.TS. LÊ XUÂN BÁ
Kết thúc năm 2010, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được kết quả tích cực trên hầu hết các lĩnh vực. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm sáng thể hiện thành tựu đạt được nền kinh tế còn có nhiều hạn chế và thách thức.
Những hạn chế và thách thức này đã bộc lộ rõ ngay từ những tháng đầu năm 2011khi tình hình kinh tế vĩ mô cả trong nước và thế giới đều đối mặt với rất nhiều khó khăn và biến động khó lường. Lạm phát trong nước vẫn đang tăng cao và chỉ tiêu kiềm chế lạm phát dưới mức 7% của Chính phủ trong năm 2011 khó thành hiện thực. Nhiều chỉ tiêu kinh tế – xã hội khác như bội chi ngân sách, nhập siêu,… cũng khó thực hiện. Trước những đòi hỏi của nền kinh tế, những tháng đầu năm, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành thực hiện nhiều giải pháp chính sách kinh tế bảo đảm kinh tế vĩ mô, kiểm soát, ngăn ngừa tái lạm phát cao. Đây là những giải pháp chính sách cần thiết. Tuy nhiên, những giải pháp chính sách này có tác động như thế nào đối với doanh nghiệp? Bài viết này nhằm đưa ra một số đánh giá ban đầu về tác động của những giải pháp chính sách kinh tế trong thời gian vừa qua đến hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài phần mở đầu, bài viết gồm 3 phần. Phần 1 sơ lược tình hình kinh tế năm 2010 và 4 tháng đầu năm 2011. Phần 2 trình bày những giải pháp chính sách đã được ban hành và thực hiện trong thời gian vừa qua, đặc biệt trong những tháng đầu năm 2011 (chủ yếu là những giải pháp chính sách kinh tế có liên quan đến doanh nghiệp). Phần 3 đưa ra một số tác động ban đầu của giải pháp chính đến doanh nghiệp đồng thời đề xuất một số ý kiến hoàn thiện trong thời gian tới.
1. Sơ lược tình hình kinh tế năm 2010 và bốn tháng đầu năm 2011
Trong khuôn khổ hạn hẹp, phần này chỉ điểm qua tình hình về tăng trưởng kinh tế, thương mại, đầu tư và lạm phát.
Tăng trưởng kinh tế
Năm 2010, nền kinh tế Việt Nam đã có mức tăng trưởng khá và có xu hướng quý sau tăng nhanh hơn quý trước nhờ việc thực hiện đồng bộ các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phát triển và những chính sách hỗ trợ sản xuất kinh doanh. Nền kinh tế đã sớm vượt qua giai đoạn khó khăn và phục hồi nhanh sau khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tốc độ tăng GDP của quý I là 5,84%, quý II – 6,44%, quý II – 7,16%, quý IV- 7,34%. Tính chung, cả năm 2010 GDP tăng 6,78%. Tăng trưởng của cả 3 khu vực nông – lâm – thủy sản, công nghiệp – xây dựng và dịch vụ năm 2010 đều tăng so với với năm 2009 (Bảng 1).
Đến quý I/2011, tốc độ tăng trưởng đạt 5,43% so với cùng kỳ năm 2010. Tốc độ tăng trưởng tương ứng của các khu vực nông – lâm – thủy sản, công nghiệp – xây dựng và dịch vụ lần lượt đạt 2,05%, 5,47%, và 6,28%.
Bảng 1: Tăng trưởng GDP theo ngành, 2006-2010
Ngành
2006
2007
2008
2009
2010
Tốc độ tăng trưởng (%)
GDP
8,23
8,48
6,29
5,32
6,78
Nông – lâm – thủy sản
3,69
3,40
5,04
1,82
2,78
Công nghiệp – xây dựng
10,38
10,60
5,61
5,52
7,70
Dịch vụ
8,29
8,68
7,54
6,63
7,52
Đóng góp vào tăng trưởng GDP theo điểm phần trăm
GDP
8,23
8,48
6,29
5,32
6,78
Nông – lâm – thủy sản
0,72
0,64
0,90
0,32
0,47
Công nghiệp – xây dựng
4,17
4,34
2,34
2,29
3,20
Dịch vụ
3,34
3,50
3,04
2,71
3,11
Đóng góp vào tăng trưởng GDP theo tỷ lệ phần trăm
GDP
100,00
100,00
100,00
100,00
100,00
Nông – lâm – thủy sản
8,77
7,52
14,31
6,05
6,99
Công nghiệp – xây dựng
50,68
51,22
37,29
43,07
47,19
Dịch vụ
40,55
41,26
48,40
50,88
45,82
Nguồn: TCTK và tính toán của Viện NCQLKTTW.
Thương mại
Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2010 đạt khoảng 72,2 tỷ USD, tăng 26,4% so với năm 2009. Giá hàng hóa xuất khẩu có xu hướng tăng dần vào những tháng cuối năm. Xu hướng này vẫn tiếp diễn trong 4 tháng đầu năm 2011 với kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 26,9 tỷ USD, tăng tới 35,7% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng ở cả giá và lượng xuất khẩu.
Tổng giá trị nhập khẩu hàng hoá năm 2010 đạt 84,8 tỷ USD, tăng 21,2% so với năm 2009. Giá nhập khẩu hàng hoá khá ổn định kể từ đầu năm 2010 nhưng ở mức cao, và chỉ tăng dần từ 3 tháng cuối năm 2010. Đáng chú ý là mức tăng giá nhập khẩu còn lớn hơn cả mức giảm lượng nhập khẩu. Tương tự như xuất khẩu, nhập khẩu dường như cũng tăng nhanh hơn trong bốn tháng đầu năm 2011, với giá trị hàng hóa nhập khẩu đạt 31,8 tỷ USD, tăng 29,1% so với cùng kỳ năm 2010. Nhập siêu bốn tháng đầu năm là 4,9 tỷ USD, bằng 18,2% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu.
Đầu tư
Trong năm 2010, tổng vốn đầu tư xã hội đạt 830,3 nghìn tỷ đồng, tăng 17,1% theo giá thực tế so với năm 2009 và bằng 41,9% GDP2 . Tỷ lệ đầu tư này cao hơn so với năm 2008 (41,5%), năm thực hiện cắt giảm đầu tư để đối phó với tình hình lạm phát cao, nhưng thấp hơn so với tỷ lệ 46,5% GDP năm 2007 và 42,7% năm 2009. Đến hết quý I/2011, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội theo giá thực tế thực hiện ước tính đạt 171,5 nghìn tỷ đồng, tăng 14,7% so với cùng kỳ năm 2010.
Tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2010 đã giảm xuống còn 38,1%, so với mức 40,6% vào năm 2009 – năm thực hiện bổ sung thêm các nguồn vốn đầu tư công để kích thích kinh tế, ngăn chặn đà suy giảm kinh tế do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới. Trong khi đó, tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài nhà nước đã tăng lên 36,1% vào năm 2010. Tỷ trọng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 25,8% vào năm 2010, tăng nhẹ so với năm 2009 (25,5%) (Error! Not a valid bookmark self-reference.). Trong quý I/2011, do giải ngân mới chỉ chủ yếu ở khu vực kinh tế nhà nước, nên tỷ trọng của khu vực này trong tổng đầu tư đã đạt 44,5%, tức là cao hơn so với mức của cả năm 2010.
Bảng 2: Cơ cấu vốn đầu tư xã hội theo nguồn vốn giai đoạn 2006-2010 (%)
Nguồn vốn
2006
2007
2008
2009
Ước 2010
Khu vực nhà nước
45,7
37,2
33,9
40,6
38,1
Khu vực ngoài nhà nước
38,1
38,5
35,2
33,9
36,1
Khu vực có vốn FDI
16,2
24,3
30,9
25,5
25,8
Tổng số
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
Nguồn: Tổng cục Thống kê (TCTK).
Về thu hút vốn FDI, tính đến ngày 21/12/2010, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 18,6 tỷ USD (gồm cả vốn đăng ký và tăng thêm), bằng 82,2% so với cùng kỳ 2009. Năm 2010, ước tính các dự án FDI đã giải ngân được 11 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2009; trong đó, giải ngân của các nhà đầu tư nước ngoài ước đạt 8 tỷ USD. Trong những tháng đầu năm 2011 (tính đến 22/4/2011), thu hút FDI đạt 4.024,1 triệu USD, bằng 52.2% cùng kỳ năm 2010. Tuy nhiên, vốn FDI thực hiện trong giai đoạn này ước đạt 3.620 triệu USD, tăng 0,6% so với cùng kỳ năm 2010. Về đầu tư ra nước ngoài, trong năm 2010, có 107 dự án đầu tư ra nước ngoài được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài là 2,93 tỷ USD; quy mô vốn đầu tư cho một dự án đạt trên 22,76 triệu USD.
Lạm phát
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 năm 2010 so với tháng 12/2009 tăng 11,75% (và tăng 16,39% so với kỳ gốc năm 2009; bình quân năm 2010 so với bình quân năm 2009 tăng 9,19%). Đầu năm 2011, chỉ số giá tiêu dùng tiếp tục tăng. Trong 3 tháng đầu năm, chỉ số giá tiêu dùng tăng tới 6,12% so với tháng 12/2010, và thậm chí còn tăng 3,32% trong tháng 4. Như vậy, chỉ trong 4 tháng, tốc độ lạm phát đã lên tới 9,64%, vượt chỉ tiêu Quốc hội đề ra cho năm 2011 (7%).
Hình 1: Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng năm 2010 (tháng 12/2009=100)
Nguồn: TCTK (2009).
Diễn biến lạm phát như trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Một là, sự phục hồi của nền kinh tế làm cho nhu cầu các loại hàng hóa, dịch vụ đều tăng cộng với thiên tai, lũ lụt ở các tỉnh miền Trung lại càng làm tăng nhu cầu về lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng… Hai là, giá của một số mặt hàng nhập khẩu của nước ta trên thị trường thế giới tăng lên do sự phục hồi của kinh tế toàn cầu làm tăng chi phí sản xuất của nhiều doanh nhiệp. Ba là, việc điều chỉnh tỷ giá đồng nội tệ mất giá làm cho chi phí nhập khẩu tăng lên đẩy mặt bằng giá của nhiều hàng hóa tăng theo. Ngoài ra còn các nguyên nhân khác đã diễn ra từ nhiều năm qua như sự thiếu kỷ luật trong đầu tư công, sự điều chỉnh lãi suất cơ bản tăng,…
2. Một số giải pháp chính sách kinh tế được ban hành và thực hiện thời gian qua
Trong điều kiện áp lực lạm phát còn lớn và đã bộc lộ thành những bất ổn kinh tế vĩ mô trong những tháng đầu năm 2011, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP vào ngày 24/2/2011, trong đó nhấn mạnh những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Cụ thể, các nhóm giải pháp được thực hiện đồng bộ bao gồm: (i) Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng; (ii) Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách nhà nước; (iii) Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng; (iv) Điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo; (v) Tăng cường bảo đảm an sinh xã hội; và (vi) Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền nhằm tăng cường nhận thức, đồng thuận trong doanh nghiệp và nhân dân. Theo tinh thần của Nghị quyết 11/NQ-CP, các bộ, ngành đã ban hành các chương trình hành động, theo đó, nhiều giải pháp và chính sách cụ thể đã được ban hành và thực hiện, cụ thể: - Chính sách tiền tệ đã được thực hiện theo hướng thắt chặt, thể hiện ở việc giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng xuống dưới 20%, áp dụng với tất cả các ngân hàng (so với mức 23% của kế hoạch đầu năm) và tổng phương tiện thanh toán dưới 16%. Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các Ngân hàng thương mại điều chỉnh lại kế hoạch kinh doanh về tăng trưởng tín dụng và tài sản có để đảm bảo đúng các quy định về tỷ lệ an toàn và tăng trưởng tín dụng dưới 20%; yêu cầu sử dụng và điều hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ mà tập trung ở 4 công cụ chính là lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn và dự trữ bắt buộc để điều tiết lượng tiền cung ứng và thanh khoản để đảm bảo tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán khoảng 15 – 16%; kiểm soát lãi suất ở mức hợp lý. Để thực hiện được giải pháp chính sách này, ngày 3/3/2011, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 02/2011/TT-NHNN ấn định lãi suất huy động vốn bằng tiền đồng Việt Nam là 14% và ngày 29/4/2011, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số 929/QĐ-NHNN quy định lãi suất tái cấp vốn giữ nguyên mức 14,0%/năm; lãi suất tái chiết khấu 13,0%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng 14,0%/năm. Tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ, ngày 17/5/2011, Ngân hàng Nhà nước nâng lãi suất trên thị trường mở thêm 100 điểm cơ bản (1%) lên 15%/ năm từ mức 14%. - Ngân hàng Nhà nước thực hiện điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường; tăng cường quản lý ngoại hối, thực hiện các biện pháp cần thiết để các tổ chức, cá nhân, trước hết là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty bán ngoại tệ cho ngân hàng khi có nguồn thu và được mua khi có nhu cầu hợp lý, bảo đảm thanh khoản ngoại tệ, bình ổn giá, đáp ứng yêu cầu ổn định, phát triển sản xuất kinh doanh. Trước đó, để thu hẹp sự chênh lệch với tỷ giá trên thị trường tự do, ngày 11/2/2011, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng đồng đô la Mỹ (USD) tăng 9,3%, mức cao nhất kể từ năm 1993 đến nay. Song song với đó, NHNN đã tích cực thanh tra, kiểm tra, xử lý các giao dịch không hợp pháp trên thị trường tự do, qua đó ra tín hiệu về việc kiên quyết xử lý các giao dịch này. Cơ bản hơn, NHNN đã ban hành một số chính sách về đối tượng vay ngoại tệ3, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, quy định trần lãi suất huy động đối với USD đối với cá nhân là 3%4,… qua đó khơi thông dòng vốn USD vào ngân hàng và khả năng thanh khoản ngoại tế. - Nỗ lực thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi NSNN: Với mục tiêu giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 xuống dưới 5% GDP, thực hiện cắt giảm đầu tư công, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với các bộ, ngành, địa phương và các tập đoàn, tổng công ty nhà nước tiến hành rà soát kế hoạch đầu tư phát triển năm 2011 nguồn vốn NSNN, vốn trái phiếu Chính phủ và các nguồn vốn nhà nước khác. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức 8 đoàn kiểm tra các địa phương, 2 đoàn kiểm tra các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước và các đoàn kiểm tra tại các bộ, ngành, cơ quan ở Trung ương. Kết quả cho thấy, hầu hết các bộ ngành, địa phương đã tiến hành rà soát, cắt giảm và điều chuyển vốn đầu tư phát triển bằng nguồn NSNN. Theo đó, các Bộ, ngành Trung ương đã cắt giảm 172 dự án khởi công mới, 53 dự án chuyển tiếp với tổng số vốn cắt giảm là 899,4 tỷ đồng. Đồng thời các Bộ, ngành, cơ quan trực thuộc trung ương đã tiến hành điều chuyển vốn cho 280 dự án. Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng cắt giảm 880 dự án khởi công mới và 604 dự án chuyển tiếp với tổng số vốn hơn 4.229 tỷ đồng. Các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước cũng đã tiến hành rà soát, đình hoãn, giãn tiến độ 907 dự án với tổng số vốn trên 39.212 tỷ đồng. - Việc thực hiện lộ trình điều hành giá điện, giá xăng theo cơ chế thị trường: Theo lộ trình điều chỉnh giá điện và giá xăng theo cơ chế thị trường. Từ đầu năm đến nay, giá xăng đã có hai lần điều chỉnh tăng (vào ngày 24/2/2011 và ngày 29/3/2011) và giá điện có 1 lần điều chỉnh tăng vào ngày 1/3/2011. Ngày 15/4/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 24/2011/QĐ-TTg về việc điều chỉnh giá bán điện theo cơ chế thị trường và quyết định này có hiệu lực từ ngày 1/6/2011. - Bên cạnh những giải pháp trên, một số biện pháp nhằm thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, qua đó bảo đảm an sinh xã hội cũng được thực hiện. Vào đầu tháng 4/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chính sách cho phép giãn thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2010 trong thời hạn 1 năm đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa (Quyết định số 21/QĐ-TTg). Thực hiện Quyết định này, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 52/2011/TT-BTC về việc gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Điều này giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể duy trì các hoạt động sản xuất – kinh doanh, và tạo việc làm cho người lao động. Đồng thời, Chính phủ cũng đã quyết định tăng lương tối thiểu. Từ 1/1/2011, mức lương tối thiểu của doanh nghiệp là 830.000 đồng/tháng, trong khi mức lương cơ bản áp dụng tại khu vực nhà nước, lực lượng vũ trang cũng được tăng lên 830.000 đồng/tháng từ 1/5/2011. Tính riêng khoản tăng lương ở khu vực nhà nước đã có tổng giá trị lên tới 27.000 tỷ đồng, chiếm 3,7% tổng chi ngân sách năm 2011.
3. Những tác động ban đầu đến doanh nghiệp và một số kiến nghị hoàn thiện
Có thể nói Nghị quyết 11/NQ-CP đã đưa ra các gói giải pháp toàn diện và nếu được thực thi quyết liệt và nghiêm túc sẽ có tác dụng tích cực đối với mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Đối với doanh nghiệp, đây là thời điểm vô cùng khó khăn nhưng cũng là cơ hội để doanh nghiệp điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh cho hợp lý và hiệu quả. Phần này sẽ chỉ những tác động ban đầu khi thực hiện các giải pháp chính sách theo Nghị quyết 11 của Chính phủ và đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện trong thời gian tới. - Việc thực hiện giải pháp chính sách tiền tệ thắt chặt đã được Ngân hàng Nhà nước triển khai theo đúng Nghị quyết 11 của Chính phủ. Với việc thực hiện chính sách này, 4 tháng đầu năm, tín dụng tăng trưởng trên 5%, tổng phương tiện thanh toán tăng 1,5%5. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ chặt chẽ và thận trọng gây đã nhiều khó khăn cho doanh nghiệp, đặc biệt những doanh nghiệp có hoạt động sản xuất – kinh doanh phụ thuộc lớn vào nguồn vốn vay: Việc thắt chặt tín dụng ở mức dưới 20% (năm 2010, tốc độ tăng trưởng tín dụng gần 30%) buộc các ngân hàng phải lựa chọn những doanh nghiệp có thể đáp ứng được điều kiện vay vốn. Một cách khác để các ngân hàng xoay sở trong hạn mức tín dụng trên là đưa lãi suất lên cao. Chính điều này đang khiến doanh nghiệp càng khó khăn và cũng không có lựa chọn nơi nào khác vì hạn mức tín dụng 20% được cào bằng và áp dụng cho tất cả các ngân hàng. Như vậy, việc giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng dưới 20% khiến nguồn vốn tín dụng ít hơn, lãi suất cao hơn, gây khó khăn cho cả khả năng tiếp cận và sử dụng vốn của doanh nghiệp. Trong khi đó, nhìn theo cơ cấu nguồn vốn của đa số doanh nghiệp hiện nay, vốn vay chiếm gần 60% tổng nguồn vốn. Bên cạnh đó, trần lãi suất huy động là 14% hay 15%/ năm là mức hỗ trợ tốt nhất cho chính sách thắt chặt tiền tệ mà Ngân hàng Nhà nước đang thực thi. Với mức lãi suất huy động như vậy thì mức lãi suất cho vay khoảng 17-19%. Tuy nhiên, so với “sức khỏe” của doanh nghiệp hiện nay thì mức lãi suất cho vay 17-19%/ năm lại là quá cao6,7, khiến khả năng sinh lợi của các doanh nghiệp suy giảm, lợi nhuận không đủ bù lãi vay, thậm chí thua lỗ. Với lãi suất quá cao và khó tiếp cận được nguồn vốn, nhiều doanh nghiệp không mạnh dạn đầu tư chiều sâu để phát triển trong dài hạn, thu hẹp sản xuất hoặc hoạt động cầm chừng; như vậy, sẽ ảnh hưởng tới cả nền kinh tế, ảnh hưởng đến công ăn việc làm cho người lao động. Với độ trễ của chính sách tiền tệ thường là 4-5 tháng nên hoạt động sản xuất sẽ tiếp tục bị ảnh hưởng nhiều hơn từ cuối quý II do chính sách tiền tệ thắt chặt. - Việc điều chỉnh tỷ giá và lãi suất tiết kiệm USD đã tạo khả năng giải quyết cung cầu USD, tính thanh khoản ngoại tệ tăng lên, góp phần chống nhập siêu, hạn chế việc găm giữ và đầu cơ USD. Việc điều chỉnh tỷ giá đã giúp tỷ giá chính thức sát với giá thị trường và việc mua bán ngoại tệ minh bạch và lành mạnh hơn. Các doanh nghiệp thuần túy sẽ dễ dàng trong việc mua USD để thanh toán. Tuy nhiên, việc điều chỉnh tỷ giá cũng những tác động tiêu cực đến doanh nghiệp mà ảnh hưởng rõ nhất là việc tăng chi phí đối với các doanh nghiệp phải sử dụng nhiều ngoại tệ nhập khẩu vật tư, nhiên liệu, thiết bị làm tăng giá thành, giá vốn hàng nhập khẩu và hàng sử dụng nhiều nguyên liệu nhập khẩu, không chỉ những doanh nghiệp nhập khẩu mà cả những doanh nghiệp xuất khẩu phải nhập nhiều nguyên liệu từ nước ngoài như dệt may, cơ khí, dược,… Đối với doanh nghiệp nhập nguyên liệu để sản xuất và xuất khẩu, việc điều chỉnh tăng tỷ giá đòi hỏi các doanh nghiệp phải nhìn lại và điều chỉnh cơ cấu sản xuất kinh doanh hợp lý, tăng tỷ lệ nội địa hóa, sử dụng những nguyên, vật liệu có chất lượng tương đương với nguyên liệu nhập từ nước ngoài. - Việc quy định đối tượng được vay vốn ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa, dịch theo Thông tư 07/2011/TT-NHNN còn quá chung chung có thể dẫn đến cơ chế xin – cho ngay trong ngân hàng và khiến doanh nghiệp nhập khẩu hàng tiêu dùng thiết yếu phải “cạnh tranh” với các đơn vị nhập hàng xa xỉ phẩm để có thể vay được ngoại tệ - Việc điều chỉnh tăng giá xăng, giá điện đã tác động đến doanh nghiệp ở hầu hết các ngành, lĩnh vực. Việc tăng giá điện, giá xăng đã làm tăng giá thành sản phẩm và giảm lợi nhuận của các ngành sử dụng nhiều điện và xăng. Để đối phó với việc tăng giá điện, thời gian qua, giải pháp tối ưu được các doanh nghiệp lựa chọn là thay đổi thời gian sản xuất, tăng năng suất lao động, đồng thời tìm các giải pháp cải tiến công nghệ, tiết giảm tiêu hao điện năng8. - Việc cắt giảm đầu tư công là giải pháp cần thiết để giảm bội chi ngân sách nhà nước nhằm bảo bảo mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, việc cắt giảm đầu tư công cũng ảnh hưởng tiêu cực đến các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, xây lắp, những doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ví dụ, theo Bộ Giao thông Vận tải, năm 2011 sẽ giảm 50% vốn của các dự án trái phiếu chính phủ cho ngành giao thông từ 20.000 – 25.000 tỉ đồng xuống còn 11.000 tỉ đồng, chỉ ưu tiên vốn cho các dự án có thể hoàn thành trong năm 2011 có phát huy ngay tác dụng về kinh tế – xã hội. Riêng các dự án đang ở khâu chuẩn bị đầu tư, quyết định đầu tư và khởi công dự án mới thì hoàn toàn đình hoãn lại. Việc cắt giảm các dự án đầu tư công, nhất là các dự án sử dụng nguồn vốn trái phiếu chính phủ đã ảnh hưởng không nhỏ đến các doanh nghiệp xây dựng tại các địa phương. Các nhà thầu có dự án bị đình hoãn phải đối mặt với nguy cơ không còn nguồn thu, không trả được nợ ngân hàng.
Một số đề xuất, kiến nghị:
Như trên đã đề cập, bên cạnh những tác động tích cực của nhóm giải pháp chính sách nhằm kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, các giải pháp này cũng có những tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. Để hoàn thiện các giải pháp chính sách này và giảm thiểu tác động tiêu cực, một số vấn đề sau cần được xem xét: Thứ nhất, định hướng điều chỉnh chính sách tiền tệ nói chung, chính sách tỷ giá nói riêng và một số chính sách khác (giá điện, giá xăng,…) theo hướng nào cần có tính tiên liệu, có tính ổn định để các doanh nghiệp chủ động được trong kế hoạch sản xuất kinh doanh. Thứ hai, đối với chính sách tiền tệ thắt chặt: Việc áp dụng hạn mức tín dụng dưới 20% tại tất cả các ngân hàng là chưa hợp lý. Mức khống chế này không nên quy định chung cho tất cả các ngân hàng mà nên căn cứ vào quy mô hoạt động, cũng như chất lượng hoạt động của từng ngân hàng. Đặc biệt là cần phải xem xét dòng vốn của các ngân hàng vào sản xuất kinh doanh nhiều hay vào lĩnh vực phi sản xuất là chính. Những ngân hàng đã đưa tới 80-90% vốn vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, quy mô ngân hàng lớn, làm ăn hiệu quả thì Ngân hàng nhà nước nên xem xét nâng mức dư nợ lên. Còn ngân hàng có quy mô nhỏ, huy động với giá cao và phần lớn vốn đẩy vào lĩnh vực phi sản xuất thì phải hạ thấp hạn mức tín dụng xuống hơn nữa. Thứ ba, quy định về cho vay ngoại tệ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay là người cư trú mới cần cụ thể hóa hơn nữa đối tượng được vay ngoại tệ để xác định đúng đối tượng cho vay, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng xa xỉ phẩm và không thiết yếu,… Thứ tư, cần tiếp tục tăng cường kỷ luật tài chính trong đầu tư công, nghiên cứu cụ thể hóa tiêu chí và các dự án cần cắt giảm trong chính sách tài khóa; cải tiến trong khâu thẩm định và ra quyết định đầu tư đảm bảo tính minh bạch, khách quan./.
Tài liệu tham khảo:
1. Trang web của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Truy cập tại: www.mpi.gov.vn 2. Trang web của Tổng cục Thống kê. Truy cập tại: www.gso.gov.vn 3. Trang tin điện tử của Đài Tiếng nói Việt Nam. Truy cập tại: 4. Trung tâm thông tin – tư liệu, Viện NCQLKTTW (2011), Diễn biến và bình luận tình hình kinh tế trong nước và thế giới. Số 01-2011. 5. Tổng cục Thống kê (2011), Tình hình kinh tế – xã hội tháng tư và bốn tháng đầu năm 2011. Hà Nội, 4/2011. 6. Viện NCQLKTTW (2011), Kinh tế Việt Nam 2010. Dự thảo tháng 4/2011.
————————————————————–
[1] PGS. TS Lê Xuân Bá: Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (Viện NCQLKTTW). Bài viết này thể hiện ý kiến cá nhân của tác giả, và không nhất thiết phản ánh quan điểm của Viện NCQLKTTW. [2] Nếu không nêu cụ thể, đầu tư trong phần này là theo giá thực tế. [3]Thông tư số 07/2011/TT-NHNN quy định việc cho vay bằng ngoại tệ của tổ chức tín dụng. [4] Xem Quyết định số 750/QĐ-NHNN ngày 9/4/2011 của Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các tổ chức tín dụng (TCTD); Thông tư số 09/2011/TT-NHNN ngày 9/4/2011 của Ngân hàng Nhà nước quy định mức lãi suất huy động vốn tối đa bằng đồng đôla Mỹ của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng (TCTD) và chi nhánh ngân hàng nước ngoài [5] Theo Phó Thống đốc Ngân hàng (NH) Nhà nước Nguyễn Đồng Tiến (xem [6]Tổng giám đốc một công ty chứng khoán làm phép so sánh: tỷ suất lợi nhuận/ vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp đứng đầu cả hai sàn chứng khoán khoảng 17% (chưa kể các tổ chức tín dụng) vẫn thấp hơn so với lãi suất vay ngân hàng. Rõ ràng doanh nghiệp càng vay vốn đầu tư, sản xuất càng lỗ [7]Mặc dù Ngân hàng nhà nước quy định trần lãi suất huy động tiền đồng Việt Nam là 14%, 15% nhưng trong thực tế lãi suất huy động vốn có kỳ hạn tại một số NHTM lại lên tới 17-19%/năm; cộng thêm các chi phí khác, buộc lãi suất cho vay cũng phải tăng theo, dẫn đến nhiều doanh nghiệp phải vay ngân hàng với lãi suất lên đến từ 22 – 23% một năm, thậm chí có ngân hàng đẩy lãi suất cho vay lên đến 25-27% (Nguồn: [8]Công nghệ lạc hậu, tiêu tốn điện năng đang là một nguyên chính khiến doanh nghiệp luôn bị động khi giá điện được điều chỉnh. Theo Ông Trần Anh Tuấn – Thứ trưởng Bộ Công thương tại Hội thảo “Xây dựng Năng lực cạnh tranh thông qua thương mại quốc tế và quyền sở hữu trí tuệ”, đa số doanh nghiệp Việt Nam đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới từ 2 đến 3 thế hệ.
SOURCE: Bài tham luận được trình bài tại Hội Thảo "Tác động của chính sách kinh tế và ứng phó của doanh nghiệp".
Trích dẫn từ:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Các chính sách kinh tế trong thời gian gần đây và tác động đến doanh nghiệp.doc