Ca bản Tú tượng đệ bát tài tử tiên chú và truyện thơ Hoa tiên ký (Nguyễn Huy Tự) trên cái nhìn đối sánh về phương diện thể loại

Although Hoa tien ky - a Nom story made of verses, was originated from a Chinese version for singing named Tu tuong de bat tai tu tien chu, Nguyen Huy tu had his own great creation that helped to make it sound more Vietnamese. One of aspects clearly demonstration the creativity is aspects of category. This is aspects demonstrate “hoán cốt đoạt thai” of Nguyen Huy tu. Simultataneously it also made clear sense of ethnic and culture traditions of Viet Nam literature of this exquisite talent poet. No longer a category with specific “ narration and telling” with copperation of many category turn in to “ evoke and describe” with form of unique category is “ six and eight” poetry. Conversion category open widen road for Nom story that next generation will inherit and develop.

pdf7 trang | Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 606 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ca bản Tú tượng đệ bát tài tử tiên chú và truyện thơ Hoa tiên ký (Nguyễn Huy Tự) trên cái nhìn đối sánh về phương diện thể loại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ngô Thị Thanh Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 78 - 84 78 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên CA BẢN TÚ TƯỢNG ĐỆ BÁT TÀI TỬ TIÊN CHÚ VÀ TRUYỆN THƠ HOA TIÊN KÝ (NGUYỄN HUY TỰ) TRÊN CÁI NHÌN ĐỐI SÁNH VỀ PHƯƠNG DIỆN THỂ LOẠI Ngô Thị Thanh Nga* Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Truyện thơ Nôm Hoa tiên ký tuy bắt nguồn từ một ca bản của Trung Quốc có tên gọi Tú tượng đệ bát tài tử tiên chú, song tác giả Nguyễn Huy Tự đã có những sáng tạo riêng để tạo thành một tác phẩm văn học mang tinh thần Việt Nam. Một trong những phương diện thể hiện rõ sự sáng tạo ấy là phương diện thể loại. Đây là phương diện thể hiện sự “hoán cốt đoạt thai” đầu tiên của Nguyễn Huy Tự. Đồng thời nó cũng thể hiện rõ ý thức dân tộc cũng như truyền thống văn hoá văn học Việt Nam của nhà thơ tài hoa này. Không còn là một thể loại mang đặc trưng “thuật và kể” tỉ mỉ với sự kết hợp của nhiều thể loại (ca bản), Hoa tiên ký đã chuyển sang “gợi và tả” đầy súc tích và cô đọng với hình thức thể hiện duy nhất là thể thơ lục bát thuần dân tộc. Sự chuyển đổi thể loại thực sự đã mở ra một con đường rộng rãi cho những tác phẩm truyện Nôm đời sau kế thừa, phát triển. Từ khoá: Hoa tiên ký - Tú tượng đệ bát tài tử tiên chú – Thể loại – đối sánh - Nguyễn Huy Tự. Không giống như Nguyễn Du, mượn cốt truyện của một tác phẩm văn xuôi “thường thường bậc trung” trong văn học Trung Quốc để sáng tác, Nguyễn Huy Tự đã mượn cốt truyện từ một ca bản được đánh giá là nổi tiếng nhất của thể loại để phóng tác. Vì thế, thoạt nhìn về hình thức, Trần Quang Huy cho rằng, ca bản Tú tượng đệ bát tài tử tiên chú (từ đây xin được gọi tắt là Ca bản) và truyện thơ Nôm Hoa tiên ký thuộc cùng một thể loại. Rõ ràng đây là một nhận định chưa thật thoả đáng, bởi nó đã đồng nhất thể thơ với thể loại. Nếu như về mặt thể loại, sự sáng tạo của Nguyễn Du phần nào được độc giả dễ dàng nhận ra là bởi nó đã được chuyển thể từ văn xuôi sang văn vần, và thi hào cũng rất có ý thức khẳng định “bản quyền” của mình khi đặt nhan đề tác phẩm là Đoạn trường tân thanh (tân thanh vốn là một thể thơ cổ, sau này dùng để chỉ thơ ca nói chung); thì với truyện Hoa tiên ký của Nguyễn Huy Tự, chúng ta cần nghiên cứu kỹ về đặc trưng thể loại truyện thơ Nôm mới nhận biết rõ được sự khác nhau giữa Ca bản và truyện thơ Nôm Hoa tiên ký về phương diện này. Thực ra các nhà nghiên cứu như: Nguyễn Huệ Chi, Trần Nho Thìn, Lại Văn Hùng đã khẳng định ca bản Hoa tiên và truyện Hoa tiên về mặt thể  Tel: 0982548560 , Email: loại là hai tác phẩm “xa cách nhau một trời một vực”. Nhưng sự khác nhau về mặt thể loại biểu hiện cụ thể như thế nào ở chúng thì hầu như các tác giả không phân tích kỹ. Những ý kiến đưa ra của các tác giả trên khi nhận xét về sự chuyển đổi thể loại này của Nguyễn Huy Tự thường chỉ là những ý kiến nhận xét rất khái lược, kiểu như: “ Có thể nào hoàn toàn cách biệt về mặt thể loại mà vẫn đưa lại cho người đọc một cảm xúc thẩm mỹ giống nhau” [8.378] hay “Tác phẩm nguyên tác dù là văn xuôi như Kim Vân Kiều truyện hay là thơ như Đệ bát tài tử Hoa tiên ký, khi gia nhập vào kho tàng văn học Việt Nam đều được nhận một hình thức Việt Nam” [5.110]. Riêng nhà nghiên cứu Lại Văn Hùng có ý bàn sâu hơn cả, nhưng với mục đích chính của cuốn sách là bàn về thành tựu văn chương của cả một dòng văn, nên tác giả dù có bàn cụ thể hơn các nhà nghiên cứu trên một chút thì nó vẫn gây cho độc giả sự “thòm thèm” và chưa thể cảm nhận một cách trọn vẹn và cụ thể sự chuyển đổi của Nguyễn Huy Tự ở phương diện này. Song dù với chỉ hai trang viết nhỏ vừa chỉ ra vừa diễn giải về một số nét riêng đó của hai tác phẩm về mặt thể loại, thì đây cũng là những gợi ý hết sức quan trọng, để chúng tôi bàn sâu hơn về vấn đề này. Ca bản Tú tượng đệ bát tài tử tiên chú thuộc thể loại ca (Mộc ngư ca) trong hệ thống đàn Ngô Thị Thanh Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 78 - 84 79 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên từ vùng Quảng Đông, miền Nam Trung Quốc. Về hình thức, thứ nhất ca bản cơ bản được viết theo thể thất ngôn cổ phong thỉnh thoảng có những hồi gồm có hai câu ở đầu hồi (giống như tiểu thuyết chương hồi) để chuyển ý. Ví dụ ở hồi 11, 15, 17, 19, 23, 25 trên đầu mỗi hồi có những câu như: Mạc ngôn chủ tỳ tư đàm luận, Tái tụng văn song khách đoạn trường. (Chớ nói vội đến chuyện chủ tớ nhà tiểu thư đàm luận riêng tư những gì, Mà hãy nói ở nơi thư phòng có người khách đang đau đứt ruột.) (Hồi 11 - Phỏng mại thư phòng) Mạn ngôn thục nữ quy hương các, Lương Sinh hiểu khởi tại song tiền. (Khoan hãy nói việc thục nữ quay về khuê phòng, Mà hãy nói việc Lương Sinh buổi sớm ngủ dậy ở trước song.) (Hồi 15 - Dương gia hồi bái) Mạc đạo phu thê tham hảo tế, Hựu đàm khuê các chúng thuyền quyên. (Không nói chuyện vợ chồng tham việc kén rể tốt, Mà hãy nói việc các người đẹp ở chốn khuê phòng.) (Hồi 17 - Ngộ tỳ trần tình) Đình thư mạn giảng hoa gian sự, Hựu đạo Lương gia chuyển cố lâm. (Khoan hãy nói tiếp chuyện của đôi trai gái trong vườn hoa, Mà hãy nói việc ông họ Lương chuyển về cố hương.) (Hồi 25 - Chu trung hứa thân) Có thể do ca bản là thể loại dùng để diễn xướng trên sân khấu, nên khi chuyển sang một cảnh khác, tác giả đã dùng phương thức này nhằm để thông báo với khán giả nội dung của màn diễn tiếp theo sẽ là gì. Và cũng có thể, do ảnh hưởng của hí khúc nên tác giả ca bản đã rất chú ý đến việc bố trí những tình tiết có tính chất cao trào, như mấy lớp “chớ vội nói” (mạc ngôn), “khoan hãy nói” (mạn ngôn), “mà hãy nói” (hựu đạo)Dường như kết cấu của tác phẩm đã “lấy một lớp diễn làm đơn vị, khiến chúng có thể diễn riêng từng lớp được” [6.52]. Đây cũng là đặc điểm riêng của ca bản về mặt thể loại so với truyện Hoa tiên ký. Thứ hai là thể loại được sáng tác dùng để ca nên có những hồi, ca bản được viết theo thể thức của từ, khúc đặc biệt là ở lối hiệp vần (hiệp chủ yếu là vần chân và thỉnh thoảng có hiệp vần lưng). Như chúng ta đã biết, trong văn học cổ Trung Quốc, từ và khúc là hai thể loại rất nổi tiếng. Nếu từ xuất hiện vào đời Đường - Ngũ đại và rất phát triển dưới triều Tống (với những gương mặt tiêu biểu như: Ôn Đình Quân, Vi Trang, Phùng Diên Tị,- đời Đường; Chu Bang Ngạn, Lý Thanh Chiếu, Tô Thức, - Đời Tống), thì khúc lại rất thịnh hành vào đời Nguyên (với các đại diện như: Quan Hán Khanh, Mã Trí Viễn, Vương Hoà Khanh, Kiều Cát, Trương Dưỡng Hạo,). Cả hai hình thức thơ này đều bắt nguồn từ thơ ca dân gian và “có sự kết hợp giữa lời thơ và âm nhạc, đều có hình thức câu thơ tự do” [2.110]. Tuy nhiên, chúng cũng khác nhau đôi chút, đó là khúc “kết hợp với âm nhạc chặt chẽ hơn từ, câu thơ của khúc có phần tự do hơn từ, khúc gieo vần dày hơn Từ” [2.110]. Nếu “Từ nguyên là những bài hát phổ nhạc do ca kĩ, nhạc công sống bằng nghề đàn hát lấy ở bài hát dân gian hoặc thơ tuyệt cú của văn nhân”, và “để phối hợp với tiết tấu của âm nhạc, họ cải biên hoặc sáng tác một số lời, câu dài ngắn xen kẽ” [2.263] (còn gọi là trường đoản cú thi), vì thế về mặt nghệ thuật, từ có một giá trị độc lập, “có cách luật cố định về mặt thanh âm, tiết tấu” [2.263]; thì “khúc gồm hai loại: tiểu lệnh và sáo số. Tiểu lệnh là những khúc hát lả. Sáo số là những tổ khúc bao gồm từ hai khúc hát trở lên có cùng cung điệu” [2.110]. Từ và khúc đều có rất nhiều điệu như: Chính cung, Nam cung, Trung cung, Tiên Lữ, Song điệu,(khúc); Giang Nam hảo, Giang Nam khúc, Giang Nam xuân, Giang Nam thụ,(từ). Như vậy có thể nói, Từ, Khúc với những tình điệu thiết tha, khi khoan khi nhặt là những thể loại “văn học hợp nhạc”, gắn liền với nghệ thuật ca hát, “với môi trường giàu chất âm nhạc và nữ tính” [1.26], nảy sinh, phát triển là “để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt ca hát cổ xưa, có quan hệ với sự phồn vinh của kinh tế thành thịvà sự phát đạt của âm nhạc đương Ngô Thị Thanh Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 78 - 84 80 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên thời”. [2.263]. Chẳng thế mà, những thể loại này, dù không được phát triển ở Việt Nam, nhưng một số tác giả của ta khi cần diễn tả những cung bậc tâm trạng trong tình yêu đã tìm đến từ như một trợ thủ đắc lực để biểu lộ tâm tình. Tác giả tiêu biểu, chúng ta phải kể đến là Phạm Thái với bốn bài Từ Nôm trong Sơ kính tân trang. Bốn bài từ với âm điệu du dương này, được đánh giá là “hiện tượng vô tiền khoáng hậu”, và đặc biệt là “nghiêm cẩn về cách luật, tình điệu thiết tha, giàu nhạc tính, xét nội dung và hình thức đều đạt đến mức hoàn mĩ”. [1.25]. Trong ca bản, như đã nói ngoài việc dùng hình thức thơ cơ bản là thất ngôn cổ phong, thì từ, khúc với tính chất âm nhạc nổi trội, đã được các tác giả khai thác khá triệt để để miêu tả tâm trạng nhân vật, nhất là những cung bậc tâm trạng của các nhân vật trong tình yêu. Chúng ta có thể bắt gặp dấu ấn của từ, khúc trong khá nhiều hồi, đặc biệt là trong hồi thứ 31 (Phòng trung hoá vật - Đốt đồ kỉ niệm ở trong phòng). Đây là hồi nói về tâm trạng đau đớn đến cuồng dại của nhân vật nữ chính - Dao Tiên sau khi nghe được thông tin người mình yêu dấu là chàng Lương Sinh “đã có nơi có chốn”. Vì hiểu lầm mình đã bị tình phụ nhưng lại vẫn quá yêu Lương Sinh, nên Dao Tiên cảm thấy mọi sức sống của mình dường như đã cạn. Cay đắng, nàng vô cảm ngay cả với chính bản thân. Tất cả những gì là nguồn vui của một nàng tiểu thư lá ngọc cành vàng, của một người phụ nữ đang yêu giờ đối với nàng đều trở nên vô nghĩa, có chăng chỉ là gợi cho nàng những đớn đau, hờn tủi. Tâm trạng nàng lúc này như một khúc ca buồn da diết, não nề, với: (Kiếp này của ta không bao giờ được vui vầy nữa/ Sao có cả một trời oan trái làm lỡ đời ta/Ta biết mình không có phận để trở thành cô dâu đẹp nữa/ Tóc mây ơ hờ còn đồ trang sức thì dửng dưng/ Những vật ấy tất cả đều hữu dụng cả/ Cho nên đem những vật ấy đốt hết cả đi/ Son và phấn/ Ném xuống ao/ Bởi vì còn ai nữa đâu mà tô điểm dung mạo/ Những chuyện phong lưu khoái hoạt tất thảy đều không còn hy vọng/ Chỉ còn thấy con đường mờ mịt dẫn xuống suối vàng/ Đập gương báu/ Phá đàn quý/ Tìm thế gian còn có ai cùng ta tri âm/ Mặt đẹp ở trong gương ai ngắm nữa/ Làm loan lẻ yến đơn cho hết kiếp đời/ Ném sáo ngọc/Phá tỳ bà/ Đẹp như người qua cửa ải rơi lệ nước mắt ướt đầm cả xiêm áo/ Mối tình Lộng Ngọc - Tiêu Lang đều là giả cả thôi/ Một gò đất vàng đấy là nhà của ta/ Đốt bút hoa/ Xé hoa tiên/ Nơi trang đài còn hy vọng gì nữa mà nối vòng thơ hoạ/ Tin tức không thấy người cũng không/Thân hình tiều tuỵ ngắm hoa mà ngủ/ Đốt song lục/ Phá bàn cờ/ Nhân vì chàng mà toan tính dự định sau này/ Hóa ra những việc phong lưu đều có ý vị/ Không dưng mà nước mắt lại như là máu chảy ướt hết cả áo/ Phá đàn tranh bằng bạc/Bẻ móng gảy bằng xương/ Tiếng đàn huyền điểm lên làm não lòng người/ Mối oan gia đã kết rồi cậy ai mà cởi bỏ ra/ Vì chàng suốt ngày sẽ học lối chay tịnh/ Đốt tranh gấm/ Thiêu áo lụa/ Nếu để lại trang phục thì sợ rằng mỗi lần mặc vào thì lại nhớ ngày xưa/ Y phục không mặc nữa thì mọi sự đều quên đi/ Đau đến đứt ruột chàng Lương có biết hay không/ Đốt chỉ thêu/ Bẻ kim đan/ Giường thêu lạnh lẽo thảy đều hững hờ/ Hồng nhan mà bạc mệnh không thể tin được/ Người trên thế gian thường phí công vô ích/ Các vật đem hết ra mà đốt sạch đi/ Chỉ lưu lại một tờ hoa tiên ghi lời thề/ Đấy là ghi nhớ cái việc đã làm với chàng trong vườn hoa/ Nguyện đến chết làm một người trinh tiết). Rõ ràng thể thức của từ, khúc với chất nhạc cao đã đặc tả được nỗi bi thiết đang diễn ra trong lòng nhân vật nữ chính - Dao Tiên. Đọc đến đây, độc giả có cảm giác, như đang được xem, nghe nhân vật nữ chính trên sân khấu cải lương của Việt Nam đang ca lên những làn điệu bi thiết não nùng khi lâm vào hoàn cảnh trái ngang của cuộc đời. Hoa tiên ký của Nguyễn Huy tự thuộc thể loại truyện thơ Nôm được viết theo thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc Việt Nam. Đây là một thể thơ có nguồn gốc từ ca dao dân ca và đã trải qua một thời gian phát triển khá dài để đi đến hoàn thiện ở thế kỷ XVIII. Với một cặp lục bát và lối hiệp vần nhịp nhàng, nó rất thích hợp cho một nội dung tự sự dài như truyện Nôm mà Nguyễn Huy Tự là một trong những người đầu tiên sử dụng thành thục thể thơ này để sáng tác. Chuyển một thể loại của Ngô Thị Thanh Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 78 - 84 81 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên văn học Trung Quốc thuộc thể ca sang truyện Nôm, bước đầu tiên Nguyễn Huy Tự đã thể hiện sức sáng tạo của mình. Có thể nói, khi diễn đạt trọn vẹn một câu chuyện bằng văn vần thì cả Ca bản và truyện thơ Nôm đều bao chứa trong mình hai yếu tố là tự sự và trữ tình. Nhưng cái làm nên sự khác biệt căn bản ở đây là phương pháp tự sự và phương pháp trữ tình (nói một cách khác là tính chất của thể loại). Nếu như ca bản được hình thành nhằm đáp ứng nhu cầu kể và ca trong môi trường diễn xướng, nên để gây sự hấp dẫn, nó là một phức thể dung chứa trong mình dấu ấn của nhiều thể loại, như dấu ấn của tiểu thuyết chương hồi, hí khúc, từ, và để làm xúc động tai mắt của khán giả thì ngôn ngữ của nó cần sự cụ thể, chi tiết và tỉ mỉ, thì khi chuyển thể sang truyện Nôm, đặc biệt là truyện Nôm bác học như Hoa tiên ký, Nguyễn Huy Tự đã làm một cuộc chuyển đổi căn bản về thể loại. Không phải là một phức thể, truyện thơ Nôm của Nguyễn Huy Tự dùng một thể thơ duy nhất mang tính đặc thù thể loại, đó là thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc Việt. Và mặc dù, cũng giống như những trí thức đương thời được tôi luyện trong môi trường Hán học, nhưng tác giả đã sử dụng chữ Nôm - chữ của người Việt để sáng tác. Vì thế, những tình điệu, những tâm tư của người Việt đã được tác giả thể hiện khá sâu sắc trong Hoa tiên. Mặt khác, như đã nói ở trên, ca bản được sáng tác ra để ca và diễn trên sân khấu nên thường coi trọng sự tỉ mỉ trong tình tiết và ngôn từ, còn truyện của Nguyễn Huy Tự lại được sáng tác với mục đích chủ yếu là “để đọc và ngâm”, nên tác giả rất chú ý trong việc khai thác cái hay của ý, cái sâu của con chữ. Mặt trữ tình của ca bản, vì vậy, đã được Nguyễn Huy Tự khai thác sâu và nhiều hơn. Nhà nghiên cứu Trần Quang Huy gọi đó là “kỹ thuật biểu đạt”, và ông cũng khẳng định, đây là một phương diện biểu hiện tài năng sáng tạo đặc biệt của tác giả truyện Hoa tiên ký. Có thể nói với sự sáng tạo này, Nguyễn Huy Tự không chỉ cho thấy sự khác biệt lớn giữa truyện Nôm của ông với Ca bản, mà còn thể hiện một bước tiến lớn của truyện Nôm bác học so với truyện Nôm bình dân. Ở mục này, chúng tôi xin dẫn một hồi (hồi 43 - Vân Hương báo chủ) của hai tác phẩm để so sánh. Theo thống kê của nhà nghiên cứu Lại Văn Hùng, hồi này ở truyện thơ Nôm Hoa tiên ký, tác giả Nguyễn Huy Tự chỉ giữ tình tiết chính và giản lược đến tối đa số câu trong Ca bản. Nếu ở Ca bản là 92 câu, thì sang truyện Hoa tiên ký, số câu được rút gọn xuống chỉ còn 22 câu (giảm 76%). Vì số lượng câu trong Ca bản quá nhiều nên trong khi dẫn, chúng tôi sẽ lược bớt một số câu. (Vân Hương khóc lóc quay về báo với cô chủ/ Hoảng hốt chạy ùa vào trong phòng thêu/ Nhìn thấy tiểu thư chưa kịp nói nước mắt đã rơi/ Tiểu thư biết được tai hoạ ghê gớm kinh người/ Lương Sinh vì nàng mà mang binh lính đi/ Đã chiến bại nơi sa trường và thác về cõi âm/ Diêu Sinh lại được cử chở tiền bạc và lương thực đi/ Trước nhà nói rõ việc của chàng Lương/Dao Tiên nghe xong thì hồn xiêu phách lạc/ Hai hàng nước mắt rơi lã chã, trong lòng thì đau đớn/ Chàng Lương vì ta mà coi nhẹ cái chết/ Kẻ nô tì này đâu dám tự mình trộm sống/ Dưới đất tìm chàng để mà gặp nhau/ Miễn sao chàng không phải cô độc một mình nơi cõi âm/ Đáng thương thay chàng tuổi trẻ vì ta mà chết/Giường ngọc trằn trọc đau buồn khóc/ Tình cảnh thật thảm thương lòng quặn đau/ Kêu khóc gào tên Lương công tử/ Nơi suối vàng hãy đợi em làm bạn với chàng/ Ta nguyện không sống ở trên cõi đời này nữa/Cái kiếp này cũng không còn được kết duyên với nhau/ Cái kiếp này cũng không còn được chia ngọt sẻ bùi với nhau/ Cái kiếp này cũng không còn được cười đùa với nhau nơi hoa viên/ Có gặp nhau chăng nữa cũng chỉ là ở trong mộng mà thôi/ Buồn rầu mãi mà thành bệnh nằm liệt trên giường/Đêm đêm trong màn gấm khóc cho tới tận sáng/ Mặt trời lên lại khóc cho đến tận chiều/ Dần dần dung nhan đã biến đổi hoàn toàn/ Đến mức không ăn không uống gì được nữa/ Bích Nguyệt sợ rằng cứ đà này thì tiểu thư chết mất/ Lặng lẽ đến bên giường mà giãi bày to nhỏ/ Tiểu thư nên cố ăn cố uống/Tuy là vì chàng Lương tiểu thư có thể chết, nhưng phải nghĩ đến nghĩa song thân/ Đã có lúc nào khóc vì cha mẹ hay chưa/ Tuy rằng vợ chồng thì tình nghĩa rất nặng/ Nhưng Ngô Thị Thanh Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 78 - 84 82 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên công ơn của cha mẹ thì lớn như trời/ Phu nhân cô quả chỉ sinh được mỗi một mình tiểu thư/ Lão gia thì đang gặp nạn không biết sống chết thế nào/ Việc hương hoả sau này đều trông vào cô chủ/ Một sớm vì chàng ta mà chết đi/ Đến khi cha mẹ già thì biết cậy nhờ vào ai/ Nếu như để phu nhân thấy tiểu thư lại đau ốm thế này/ Thì e rằng phu nhân vì tiểu thư mà lại thêm đau lòng/ / Dao Tiên thì thở dài giãi bày rằng/ Chàng Lương đã vì ta mà chết/Nếu như bọn nữ lưu mà không biết giữ gìn tiết nghĩa/ Thì dưới suối vàng còn mặt nào nhìn thấy chàng nữa/ Cái ơn dày của cha mẹ ta đã sớm biết/ Cho nên đã phải suy nghĩ rất cặn kẽ/ Việc của ta là trăm năm phải phụng thờ cha mẹ/ Cha mẹ thì tất nhiên là người ruột thịt nhất/ Nếu như sau này gả bán ta cho người khác/ Như thế thì chàng chỉ có chết uổng mà thôi/Tính đi tính lại chi bằng chỉ có chết/ Như thế thì sẽ sớm được gặp chàng/ Vân Hương đáp lại lời người đẹp rằng/ Sự đến mức này rồi thì cũng nên cân nhắc/ Đành rằng chàng Lương đã vì tiểu thư mà chết nơi biên ải/ Nhưng liệu tiểu thư có quên được cha mình hay không/ Ông nhà cũng bị vây không có tin tức gì/ Phu nhân chưa chắc đã ép uổng/ Nếu như ông nhà có ngày lại quay về/ Thì chắc rằng phải nghe nỗi niềm bày tỏ của tiểu thư thì mới quyết được/ Dao Tiên trong lòng đã thầm nguôi ngoai/ Những lời giãi bày của hai kẻ nô tì rất chân thành/ Ngày ngày thì dốc lòng chăm sóc mẹ/ Nhưng tấm lòng nhớ đến chàng Lương thì không thể nào nguôi/Biết bao nhiêu là đau khổ, biết bao nhiêu là nước mắt/ Có lẽ rằng nỗi đau cắt ruột này sẽ đeo đẳng đến hết đời/) (Ca bản) Thốc vào rỉ mách buồng khuê, Vẳng tin nàng đã ngã kề bên loan. Lầu trong nhấm khóc chùng than, Quyết ngay nào sá lời can lẽ nài. “Vì ai cho lụy đến ai, Thì liều phận bạc dám sai chữ đồng”. Cháo hồ quyết chẳng đụng lòng, Nguyệt đà gạn lẽ riêng chung nằn nì. Trình rằng: “Thôi đã vậy thì, Dẫu liều đâu nữa ích gì đấy chăng? Tình kia non bể thực rằng, Tình kia song lại nhắc bằng hiếu kia. Gìn vàng ngọc tạc đá bia, Mới là hai lẽ cân chia lưỡng toàn”. Chấp mê nàng đã đâu tin, Gỡ lần Hương lại kề bên rén bày: “Đào kia đành trả mận này, Nghĩ chăng đợi chút lâu đây ông về. Cho phu nhân chút hả hê, Vẹn tròn khi ấy đâu hề dám ngăn”. Phải lời nàng cũng gắng dần, Ngày lề ôn sảnh, đêm tuần khói hương. (Truyện Hoa tiên ký) Qua sự trích dẫn trên, rõ ràng chúng ta thấy, những tình tiết quan trọng của Ca bản như: lời thông báo của thị nữ Vân Hương về tin tức của chàng Lương; sự đau đớn đến sững sờ của Dao Tiên đến mức chỉ muốn chết theo Lương sau khi nghe được tin về cái chết của chàng nơi chiến địa; sự nhắc nhở, phân giải của Bích Nguyệt, Vân Hương về tình nghĩa trong tình yêu cũng như đạo hiếu của người làm con; và sự nguôi ngoai tạm thời của Dao Tiên để chăm sóc mẹ già, đều được Nguyễn Huy Tự giữ trọn vẹn. Tuy nhiên với trình độ uyên thâm của một bậc thức giả, và nhất là sự ý thức cao về chức năng thể loại của một nghệ sĩ bác học, chất thơ từ Ca bản sang đến Hoa tiên ký đã được Nguyễn Huy Tự nâng lên khá nhiều. Sự súc tích cô đọng của con chữ, cái “ý tại ngôn ngoại” - đặc trưng của thơ đã được tác giả truyện chú ý đặc biệt và thể hiện rõ nét. Nếu như để diễn tả nỗi đau đớn đến mức liều thân của Dao Tiên khi nghe tin về cái chết của Lương Sinh, để làm xúc động khán giả, tác giả Ca bản đã phải tả đi tả lại những giọt nước mắt của Dao Tiên, những lời than thở não nề của nàng với 42 câu thơ, thì sang đến truyện Hoa tiên ký nó chỉ còn lại 8 câu thơ. Chỉ cần qua một số ít con chữ như: “chợt ngã kề bên loan”, rồi “Lầu trong nhấm khóc chùng than”, rồi “Quyết ngay nào sá lời can lẽ nài, Vì ai cho lụy đến ai, Thì liều phận bạc dám sai chữ đồng, Cháo hồ quyết chẳng đụng lòng” là độc giả của truyện có thể cảm nhận được cái hoảng hốt đến ngây dại, cái đau đớn đến tột cùng của Dao Tiên khi biết tin chàng Lương - người mà trong thâm tâm, nàng đã coi đó là chồng, đã chết. Đấy là chúng tôi chưa nói, Dao Tiên từ Ca bản Trung Hoa sang Dao Tiên của Nguyễn Huy Ngô Thị Thanh Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 78 - 84 83 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Tự đã đằm hơn, mang tính chất tiểu thư và biểu hiện rõ tính truyền thống hơn (chúng tôi sẽ bàn kỹ hơn ở một bài viết khác, đó là so sánh về phương diện nghệ thuật xây nhân vật của hai tác phẩm). Tương tự như vậy, với những lời khuyên nhủ của hai cô thị tì thông minh là Bích Nguyệt và Vân Hương, Nguyễn Huy Tự cũng đã rút ngắn một cách tối đa. Nếu như Bích Nguyệt trong Ca bản nói tới 18 câu, thì trong truyện Nôm, nàng chỉ nói có 6 câu; Vân Hương trong Ca bản nói 9 câu, thì sang truyện Nôm, nàng chỉ nói có 4 câu. Tuy nhiên không vì sự giản lược này mà người đọc cảm thấy sơ sài và những lời khuyên nhủ của hai nàng Hương, Nguyệt trở nên hình thức, mà ngược lại chúng ta vẫn cảm nhận được thật sâu sắc sự lo lắng cũng như tấm chân tình của những con người dù không cùng đẳng cấp nhưng luôn coi nhau như ruột thịt. Đặc biệt hơn nữa những lời tâm tình của họ còn còn mang đậm tâm thức của người Việt, ngôn ngữ Việt. Như vậy sự “hoán cốt đoạt thai” của Nguyễn Huy Tự đã bắt đầu từ đây. Từ yếu tố chọn lựa đầu tiên này - sự thay đổi về phương diện thể loại, Nguyễn Huy Tự tiếp tục thể hiện sự sáng tạo của mình ở những phương diện khác như: ở việc giảm bớt dung lượng tác phẩm, ở phương thức tự sự, hay xây dựng nhân vật... Những phương diện này thể hiện rõ đặc trưng của thể loại truyện Nôm bác học, mở đường cho những tác giả truyện Nôm bác học đời sau tiếp nối, kế thừa và phát triển. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Phạm Văn Ánh (2009), “Một số nét cơ bản về thể loại từ ở Việt Nam”, Tạp chí Hán Nôm (4), tr22-29. [2]. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi,(chủ biên) (1992), Từ điển thuật ngữ Văn học, Nxb Giáo dục, H. [3]. Lại Văn Hùng (2000), Dòng văn Nguyễn Huy ở Trường Lưu, Nxb Khoa học xã hội, H. [4]. Phạm Thái (1960), Sơ kính tân trang, Lại Ngọc Cang khảo thích và giới thiệu, Nxb Văn hoá, Viện Văn học, H. [5]. Trần Nho Thìn (1983), “Hiện tượng vay mượn cốt truyện ở các truyện Nôm bác học giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX”, Tạp chí Văn học (1), tr100-113. [6]. Trần Quang Huy (1976), Việt Nam Nôm truyện dữ Trung Quốc tiểu thuyết quan hệ chi nghiên cứu, Bản dịch của Phạm Văn Ánh, Nguyễn Thị Hiền - Ban Văn học Trung đại Việt Nam - Viện Văn học (Tài liệu đánh máy), Thư viện Viện Văn học, ký hiệu HN.637. [7]. Nguyễn Huy Tự-Nguyễn Thiện (1961), Truyện Hoa tiên. Lại Ngọc Cang khảo đính và giới thiệu, Nx Văn hoá, Viện Văn học, H. [8]. Nguyễn Huy Tự và truyện Hoa tiên (Kỷ yếu hội thảo) (1997), Nxb Khoa học xã hội. [9]. Tú tượng đệ bát tài tử tiên chú, Tĩnh Tịnh Trai bình đính, Thư viện Viện Thông tin Khoa học xã hội, ký hiệu P.705 (Bản chụp của PGS Phạm Tú Châu). Ngô Thị Thanh Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 78 - 84 84 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên “TU TUONG ĐE BAT TAI TU TIEN CHU”AND HOA TIEN KY (NGUYEN HUY TU) LOOK ON THE MATCH ABOUT ASPECTS OF CATEGORY Ngo Thi Thanh Nga  College of Education - Thai Nguyen University SUMMARY Although Hoa tien ky - a Nom story made of verses, was originated from a Chinese version for singing named Tu tuong de bat tai tu tien chu, Nguyen Huy tu had his own great creation that helped to make it sound more Vietnamese. One of aspects clearly demonstration the creativity is aspects of category. This is aspects demonstrate “hoán cốt đoạt thai” of Nguyen Huy tu. Simultataneously it also made clear sense of ethnic and culture traditions of Viet Nam literature of this exquisite talent poet. No longer a category with specific “ narration and telling” with copperation of many category turn in to “ evoke and describe” with form of unique category is “ six and eight” poetry. Conversion category open widen road for Nom story that next generation will inherit and develop. Keywords: Hoa tien - Tu tuong de bat tai tu tien chu – genre – compare - Nguyen Huy Tu  Tel: 0982548560 , Email:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbrief_3838_9783_cabantutuongdebattaitutienchu_7634_2052819.pdf