Biểu hiện về trí tuệ xúc cảm của học sinh trường Trung học Phổ thông chuyên Thái Nguyên – Tỉnh Thái Nguyên

Trí tuệ cảm xúc là loại trí tuệ đặc biệt, nó có liên quan đến nhận thức, tình cảm và hành động ý chí của con người. Trí tuệ xúc cảm phát triển trong quá trình con người sống và hoạt động. Có thể hiểu trí tuệ xúc cảm là loại hình trí tuệ thể hiện năng lực của chủ thể đối với các vấn đề có liên quan đến xúc cảm, thể hiện ở năng lực cảm nhận và kiểm soát xúc cảm của bản thân và người khác, phân biệt chúng và sử dụng thông tin này để hướng dẫn tư duy nhằm giải quyết tốt các nhiệm vụ trong cuộc sống”. Nhà trường là nơi bồi dưỡng và phát triển trí tuệ xúc cảm cho người học.

pdf5 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 08/03/2022 | Lượt xem: 296 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biểu hiện về trí tuệ xúc cảm của học sinh trường Trung học Phổ thông chuyên Thái Nguyên – Tỉnh Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đinh Đức Hợi và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 49 - 53 49 BIỂU HIỆN VỀ TRÍ TUỆ XÚC CẢM CỦA HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CHUYÊN THÁI NGUYÊN – TỈNH THÁI NGUYÊN Đinh Đức Hợi*, Nguyễn Thị Yến Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Trí tuệ cảm xúc là loại trí tuệ đặc biệt, nó có liên quan đến nhận thức, tình cảm và hành động ý chí của con người. Trí tuệ xúc cảm phát triển trong quá trình con người sống và hoạt động. Có thể hiểu trí tuệ xúc cảm là loại hình trí tuệ thể hiện năng lực của chủ thể đối với các vấn đề có liên quan đến xúc cảm, thể hiện ở năng lực cảm nhận và kiểm soát xúc cảm của bản thân và người khác, phân biệt chúng và sử dụng thông tin này để hướng dẫn tư duy nhằm giải quyết tốt các nhiệm vụ trong cuộc sống”. Nhà trường là nơi bồi dưỡng và phát triển trí tuệ xúc cảm cho người học. Từ khóa: Trí tuệ, xúc cảm, học sinh, năng lực ĐẶT VẤN ĐỀ* Cuối của thế kỷ XX, hàng loạt công trình khoa học nghiên cứu về cảm xúc đã ra đời. Nhờ có nhiều phương pháp đổi mới, như công nghệ về hình ảnh chúng ta có thể thấy rõ bộ não hoạt động như thế nào, điều gì thật sự diễn ra khi chúng ta suy nghĩ, cảm nhận, tưởng tượng và ước mơ. Đôi khi chúng ta hay đồng nhất trí tuệ với chỉ số IQ (chỉ số thông minh). Vậy cái gì giúp chúng ta thành công hơn, hạnh phúc hơn trong cuộc sống? Đâu là những nhân tố tác động? Liệu nó có nằm ở năng lực Trí tuệ cảm xúc (emotional intelligence) là l loại hình trí tuệ thể hiện năng lực của chủ thể với những vấn đề có liên quan đến cảm xúc. Với những năng lực đó giúp con người nhận biết, sử dụng và kiểm soát được cảm xúc ở bản thân và ở người khác từ đó giúp chủ thể giải quyết tốt các tình huống đang diễn ra trong cuộc sống. Trường Trung học phổ thông Chuyên là loại hình trường chuyên biệt, đối tượng học sinh THPT chuyên là đối tượng học sinh độ tuổi từ 15 – 18 tuổi, có chỉ số thông minh (IQ), chỉ số sáng tạo (CQ) ở mức khá cao thể hiện ở việc có năng lực nổi trội trong một môn học như Toán, Văn, Sinh, Anh, Động cơ học tập, thái độ, hứng thú học tập và niềm say mê thể hiện rõ đối với một môn học nhất định. Nhờ đó học sinh THPT Chuyên thường đạt được những thành công đối với môn học họ đam mê. Chỉ * Tel: 0915 943456 số IQ, CQ cao và có những thành công trong hoạt động học tập gợi dẫn cho các nhà nghiên cứu tâm lý học câu hỏi: liệu học sinh THPT có thể nhận thức tốt những cảm xúc của mình và đâu là môi trường phát triển trí tuệ xúc cảm cho học sinh. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Chúng tôi tiến hành đo trắc nghiệm và khảo sát tại Trường THPH Chuyên tỉnh Thái Nguyên: là học sinh trường THPT chuyên tỉnh Thái Nguyên các khối lớp Chuyên 10, 11, 12; phân ra thành 2 khối chuyên tự nhiên và chuyên xã hội. Chúng tôi sử dụng thang đo của MSCEIT để đo lường mức độ trí tuệ cảm xúc chung của học sinh THPT chuyên tỉnh Thái Nguyên, thang đo đã được dịch ra Tiếng Việt bản dịch của tác giả Nguyễn Công Khanh, cùng nhóm chuyên gia thẩm định, Việt hóa: Trần Trọng Thủy, PGS. TS. Lê Đức Phúc, Nguyễn Huy Tú, Nguyễn Công Khanh. Trí tuệ cảm xúc của học sinh trường THPT chuyên tỉnh Thái Nguyên được thể hiện và đánh giá thông qua 4 năng lực sau: Năng lực nhận biết xúc cảm; Năng lực hiểu xúc cảm; Năng lực xúc cảm hóa ý nghĩ; Năng lực điều khiển và quản lý xúc cảm. Kết quả mức độ biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh trường THPT chuyên tỉnh Thái Nguyên Năng lực trí tuệ cảm xúc của một người theo thang đánh giá MSCEIT của J. Mayer và P. Đinh Đức Hợi và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 49 - 53 50 Salovey được cấu trúc bởi 4 năng lực thành phần: Năng lực nhận thức xúc cảm, năng lực hiểu xúc cảm, năng lực xúc cảm hóa suy nghĩ và năng lực điều khiển và quản lý xúc cảm. Vì vậy, chỉ số trí tuệ cảm xúc của một người tính bằng điểm được tính bằng tổng điểm của cả 4 năng lực hợp thành đó. Bảng 1 cho thấy: kết quả điểm thô trung bình mức độ biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh trường THPT chuyên tỉnh Thái Nguyên là 77 với độ lệch chuẩn 20. So với điểm lý tưởng của thang đo MSCEIT là 141, điểm thô trung bình trắc nghiệm của học sinh trường THPT chuyên tỉnh Thái Nguyên đạt khoảng 55%. Điều này cho thấy mức điểm của học sinh chỉ giữ ở mức điểm trung bình so với điểm lý tưởng. Xét điểm trung bình EQ trên với thang đánh giá Wechsler cho ta đánh giá tổng quan về mức độ trí tuệ cảm xúc của học sinh chuyên ở nhóm trung bình (90 < EQ = 100 < 109). Tuy vậy, độ lệch chuẩn lại rất cao (SD = 15) nói lên rằng chỉ số EQ của từng học sinh chuyên là không đồng đều, có học sinh đạt điểm rất cao nhưng có những học sinh đạt điểm rất thấp. Cụ thể như học sinh Phương Việt Bùi lớp 11 Anh có chỉ số EQ = 122 điểm thuộc nhóm có EQ cao (120 <EQ =122 <129) nhưng học sinh nữ lớp 12 Anh chỉ số EQ = 64 điểm thuộc nhóm có EQ thấp (EQ =64 <89). Kết quả khảo sát trí tuệ cảm xúc ở mức trung bình cho thấy: học sinh chuyên đạt điểm trung bình các năng lực nhận thức xúc cảm, năng lực hiểu xúc cảm, năng lực xúc cảm hóa suy nghĩ, năng lực điều khiển và quản lý xúc cảm ở mức trung bình. Học sinh đã bắt đầu nhận thức được các xúc cảm đang diễn ra trong mình và trong người khác nhưng chưa thực sự rõ ràng; học sinh còn gặp khó khăn khi hiểu, lý giải những xúc cảm diễn ra trong mình, và của mọi người trước mọi tình huống gặp phải và từ đó khi suy nghĩ, điều khiển, chế ngự và quản lý xúc cảm của mình và người khác trở nên bối rối, đôi khi lúng túng không làm chủ được xúc cảm. Kết quả khảo sát về mức độ biểu hiện của trí tuệ cảm xúc (trên 4 thành phần của năng lực) Dựa trên cách đánh giá năng lực trí tuệ cảm xúc theo thang đo MSCEIT và cơ sở lý luận của trí tuệ cảm xúc ta thấy có thể mức độ biểu hiện năng lực trí tuệ cảm xúc của một người ở mức trung bình nhưng mức độ biểu hiện năng lực trí tuệ cảm xúc của từng thành phần năng lực riêng cấu thành năng lực trí tuệ cảm xúc của người đó không hoàn toàn đều ở mức trung bình. Hoàn toàn có thể, năng lực nhận thức xúc cảm của người này đạt chỉ số điểm rất cao, hoặc cao còn năng lực hiểu xúc cảm, năng lực điều khiển và quản lý xúc cảm lại chỉ đạt chỉ số điểm ở mức khá hoặc thấp và ngược lại. - Bảng so sánh mức độ biểu hiện của từng năng lực cấu thành năng lực trí tuệ cảm của học sinh trường THPT chuyên tỉnh Thái Nguyên được trình bày cụ thể ở bảng 2. Bảng 1: Kết quả điểm trung bình của mức độ biểu hiện trí tuệ cảm xúc ở học sinh trường THPT chuyên tỉnh Thái Nguyên Tổng số (n) X SD Điểm thô 48 77.4792 20.04462 EQ 48 100.32 15.00 Bảng 2. So sánh mức độ biểu hiện của từng năng lực cấu thành năng lực trí tuệ cảm xúc của học sinh trường THPT chuyên tỉnh Thái Nguyên STT Thang đo ĐTB thang đo SD Số item 1 Nhận thức xúc cảm (AE) 26.54 11.61 50 2 Xúc cảm hóa ý nghĩ (BF) 17.27 5.06 30 3 Hiểu xúc cảm (CG) 20.73 3.91 32 4 Điều khiển và quản lý xúc cảm (DH) 12.94 4.35 29 5 MSCEIT 77.47 20.04 141 Đinh Đức Hợi và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 49 - 53 51 Kết quả bảng 2 cho thấy: Trong kết quả điểm trung bình item của các thang đo thì điểm trung bình của thang đo DH (ĐTB = 12.94) là thấp nhất với độ lệch chuẩn SD = 4.35. Thang đo DH là thang đo phản ánh mức độ biểu hiện năng lực điểu khiển và quản lý xúc cảm. Điều này cho ta kết luận học sinh THPT có khả năng thấp trong việc điều khiển, chế ngự và quản lý xúc cảm của mình và của mọi người. Đây là một năng lực quan trọng trong hình thành và phát triển năng lực trí tuệ cảm xúc ở mỗi người, chỉ số điểm của năng lực này thấp sẽ khiến cho năng lực trí tuệ cảm xúc tổng thể không cao. Bên cạnh đó, độ lệch chuẩn của thang đo DH thấp còn nói lên đa số học sinh đều có chỉ số điểm ở năng lực điều khiển và quản lý xúc cảm chưa cao. Trong kết quả điểm trung bình item của các thang đo điểm trung bình của thang đo AE – năng lực nhận thức xúc cảm là cao nhất (ĐTB = 26.54) cho thấy học sinh chuyên có khả năng nhận biết, gọi tên, chỉ ra, phân loại được những xúc cảm đang diễn ra trong bản thân và trong mọi người ở mỗi tình huống. Điều này góp phần nâng cao chỉ số điểm EQ của họ. Nhưng thang đo AE lại có độ lệch chuẩn cũng cao nhất (SD = 11.61), điều này nói lên có sự không đồng đều trong năng lực nhận thức xúc cảm của mỗi học sinh. Có học sinh nhận thức rất cao, cao và cũng có học sinh nhận thức trung bình, thấp. Nếu tất cả các năng lực cấu thành năng lực trí tuệ cảm xúc của học sinh đều đạt chỉ số điểm cao thì mới có thể đạt được chỉ số điểm EQ cao. Vì vậy, nhà giáo dục cần chú ý bồi dưỡng từng năng lực trí tuệ cảm xúc cho học sinh, phát huy năng lực có chỉ số cao và không ngừng gia tăng điểm số cho những năng lực còn hạn chế. - Sự khác biệt về mức độ biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh trường THPT chuyên tỉnh Thái Nguyên theo khối lớp. Ở mỗi lớp, mỗi độ tuổi con người sẽ có mức độ biểu hiện trí tuệ cảm xúc khác nhau. So sánh mức độ biểu hiện trí tuệ cảm xúc các khối lớp với nhau giúp ta nhận thấy sự khác nhau này. Kết quả so sánh sự khác biệt về mức độ biểu hiện trí tuệ cảm xúc qua thang đo MSCEIT của học sinh theo khối lớp 10, 11, 12 được thể hiện ở bảng 3. Kết quả bảng 3 cho thấy: học sinh lớp 10 có phần trăm học sinh đạt mức điểm ở nhóm điểm trung bình cao nhất (82.4%). Lớp 12 là lớp có phần trăm số học sinh đạt mức điểm ở nhóm điểm thấp nhiều nhất (58.8%). Có thể nhận thấy ở 3 khối lớp, lớp 11 có mức điểm khá cao trong đó có 28.6% học sinh đạt mức điểm ở nhóm điểm cao, 42.6% học sinh ở nhóm điểm khá và 28.6% học sinh đạt mức điểm ở nhóm điểm trung bình. Những lý giải về việc phân loại đánh giá số điểm học sinh đạt được thông qua thang đánh giá của Wechsler là sự giải thích cho sự khác nhau giữa số điểm EQ trung bình mà mỗi khối lớp đạt được. Cụ thể, lớp 11 có số điểm EQ trung bình cao nhất (EQ =112), độ lệch chuẩn 9.44 cho thấy đa số học sinh lớp 11 đều đạt được mức điểm 112 này, không có sự chênh lệch lớn giữa số điểm của mỗi học sinh. Lớp 12 có số điểm EQ trung bình thấp nhất trong 3 lớp (EQ = 88), tuy vậy độ lệch chuẩn lại rất lớn (SD = 15.84) cho thấy sự chênh lệch lớn về số điểm EQ mà mỗi học sinh trong khối 12 đạt được, có học sinh đạt điểm khá nhưng lại những học sinh chỉ đạt điểm EQ thuộc nhóm điểm thấp. Bảng 3: Sự khác biệt về mức độ biểu hiện trí tuệ cảm xúc qua thang đo MSCEIT theo khối lớp STT Lớp Mức độ Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Tần số % Tần số % Tần số % 1 Nhóm rất cao 0 0 0 0 0 0 2 Nhóm cao 0 0 4 28.6 0 0 3 Nhóm khá 3 17.6 6 42.8 2 11.8 4 Nhóm trung bình 14 82.4 4 28.6 5 29.4 5 Nhóm thấp 0 0 0 0 10 58.8 6 Tổng số học sinh 17 14 17 EQ 103 SD = 6.76 112 SD = 9.44 88 SD = 15.84 Đinh Đức Hợi và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 49 - 53 52 Từ những chỉ số định lượng trên, ta thấy chỉ số EQ của học sinh lớp 11 là cao nhất có thể do trong 3 khối lớp đây là khối lớp đã quen với môi trường học ở trường chuyên THPT, học sinh ở khối này không còn gặp khó khăn trong việc thay đổi môi trường từ cấp II lên cấp III như học sinh lớp 10. Họ đã làm chủ được công việc học ở trường và tự gây dựng được cho mình những nề nếp học tập phù hợp để đạt được kết quả học tập cao nhất. Thời gian dành cho việc học được cân đối với thời gian vui chơi, tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao bổ ích khác. Từ những nguyên nhân đó khiến cho chỉ số trí tuệ cảm xúc của học sinh khối lớp này cao hơn các khối lớp khác. Học sinh khối 12, là khối lớp có nội dung chương trình học tập nặng nhất trong 3 khối lớp. Đặc biệt, lớp 12 là một lớp học quan trọng đối với tương lai của mỗi học sinh, họ phải tập trung cao độ vào công việc học tập, tích lũy tri thức thật chắc và rộng để có thể tham gia kỳ thi Đại học của quốc gia, đỗ vào trường Đại học mà họ mơ ước hoặc có cơ hội theo đuổi con đường đam mê tri thức của họ với một môn học cụ thể qua kỳ thi Olimpic trong và ngoài nước. Từ đó, chính trong họ có rất nhiều áp lực khách quan và chủ quan ảnh hưởng, tác động đến hoạt động của mỗi học sinh. Ở khối lớp này, có nhiều học sinh rơi vào trạng thái tự kỷ, trầm cảm và thường xuyên cảm thấy hoang mang và lo sợ trước khi đối mặt với những kỳ thi quan trọng trong đời họ. Từ những nguyên nhân do hoạt động chủ đạo – hoạt động học tập đem lại có thể khiến cho khi làm bài tập trắc nghiệm này học sinh lớp 12 không thực sự tập trung làm, họ có thái độ chưa tích cực, chưa thực sự chú tâm suy nghĩ trong thời gian làm từng item nên số điểm EQ học sinh đạt được là thấp nhất. Bên cạnh đó, có thể trong chính mỗi học sinh xúc cảm đang rất hỗn độn, trong thời điểm này họ thực sự không có thời gian để tâm, lắng nghe xúc cảm trong mình và trong người khác nên học sinh lớp 12 gặp những khó khăn, trở ngại trong việc xúc cảm hóa ý nghĩ hay điều khiển và quản lý xúc cảm của bản thân và của người khác. Từ thực trạng trên mong rằng nhà trường và các nhà giáo dục sẽ quan tâm đến đặc điểm tâm sinh lý của học sinh từng khối lớp, đặc biệt của học sinh khối lớp 12 tìm ra những biện pháp, nội dung dạy học và giáo dục phù hợp giúp học sinh có thể cân bằng việc học của mình với các hoạt động khác. Giúp học sinh không cảm thấy quá áp lực với việc học, giảm số học sinh bị tự kỷ, trầm cảm, stress trong học tập, góp phần nâng cao chỉ số trí tuệ cảm xúc của mỗi học sinh khối lớp này. Hình thành một nhân cách toàn diện ở người học. KẾT LUẬN Để có một năng lực trí tuệ cảm xúc được đánh giá ở nhóm mức cao thì phải đảm bảo đạt các năng lực thành phần cũng phải đạt ở nhóm mức cao. Và cũng rất có thể năng lực trí tuệ cảm xúc cao thì năng lực nhận thức xúc cảm ở nhóm mức cao nhưng năng lực điều khiển và quản lý xúc cảm lại mới chỉ đạt nhóm mức trung bình. Vì vậy, nhà giáo dục cần chú ý đánh giá chính xác năng lực trí tuệ cảm xúc của từng học sinh, của nhóm học sinh để có thể tìm ra những mục tiêu nâng cao, phát triển năng lực trí tuệ cảm xúc và từ đó xây dựng nội dung chương trình, tìm phương pháp, phương thức và hình thức tổ chức nâng cao phù hợp với đặc điểm trí tuệ cảm xúc của học sinh. Bên cạnh đó, để hiệu quả công việc đạt được cao nhất nhà giáo dục cũng cần chú ý đánh giá năng lực trí tuệ cảm xúc của mỗi học sinh, nhóm học sinh trên từng năng lực riêng cấu thành năng lực trí tuệ xúc cảm của một người. Từ đó, phát triển những năng lực riêng được đánh giá cao và chú trọng nâng cao những năng lực riêng chưa có mức đánh giá cao, trung bình hoặc còn thấp. Việc nâng cao, phát triển năng lực trí tuệ cảm xúc cho học sinh trường THPT chuyên tỉnh Thái Nguyên có ý nghĩ lớn trong việc xây dựng một nhân cách toàn diện ở người học mà nhà trường cần quan tâm. Đinh Đức Hợi và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 49 - 53 53 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Daniel Goleman (2012), Trí tuệ xúc cảm ứng dụng trong công việc (Phương Thúy, Minh Phương, Phương Linh dịch, Alpha books hiệu đính), Nhà xuất bản lao động – xã hội. 2. Phan Trọng Nam, (2012), Trí tuệ cảm xúc của sinh viên Đại học Sư phạm, Luận án tiến sĩ Tâm lý học, Bộ giáo dục và đào tạo, Viện khoa học giáo dục Việt Nam. 3. Nguyễn Huy Tú (2003), Trí tuệ cảm xúc – bản chất và phương pháp chuẩn đoán, Tạp chí Tâm lý học. 4. Dương Thị Hoàng Yến (2010), Trí tuệ cảm xúc của giáo viên Tiểu học, Luận án tiến sĩ Tâm lý học, Viện Tâm lý học – Viện khoa học xã hội Việt Nam. 5. Nguyễn Thị Yến (2013), Trí tuệ xúc cảm của học sinh Trường THPT Chuyên tỉnh Thái Nguyên, Thái Nguyên. SUMMARY EMOTIONAL INTELLECTURAL DEVELOPMENT TO STUDENT PRIVATE SCHOOL Dinh Duc Hoi*, Nguyen Thi Yen College of Education - TNU Emotional intelligence is a special type of Intelligence, it is related to cognition, feelings and actions will of the people. Intellectual emotional development in humans process and river activities. Intelligence can understand emotional intelligence is the type of show the subject's capacity for problems related to emotions, reflected in the capacity to feel and control the emotions of themselves and others, distinguish them and use this information to guide thinking for solving tasks in life. "Where the school is to foster and intellectual development for learners emotional. Keywords: intellectual, emotional, students, faculty Ngày nhận bài:13/3/2014; Ngày phản biện:27/3/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014 Phản biện khoa học: TS. Phùng Thị Hằng – Trường Đại học Sư phạm - ĐHTN * Tel: 0915 943456

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbrief_48397_52312_7920151047199_6486_2046512.pdf
Tài liệu liên quan