Trong các két này thường chứa đầy nước , dầu khí
nằm trong két sẽ chứa dạng giọt phân tán hoặc bọt .
Do sự khác nhau về tỷ trọng , các giọt dầu và bọt
khí sẽ nổi lên trên mặt lớp và di chuyển lên trên tới
lớp đá mái , rồi sau đó nếu mái nằm nghiêng chúng
lại di chuyển theo hướng nhô lên của két chứa .
59 trang |
Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 5512 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bẫy dầu khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BẪY DẦU KHÍ
PHẦN I: GIỚI THIỆU
PHẦN II: PHÂN LOẠI BẨY DẦU KHÍ
I. BẪY KIẾN TRÚC
II: BẪY DIAPIRIC
III: BẪY ĐỊA TẦNG
IV: BẪY MÀN CHẮN THỦY LỰC
V: BẪY KẾT HỢP
PHẦN III: CÁC KIỂU BẨY DẦU KHÍ Ở VIỆT NAM
GIỚI THIỆU
Bẫy dầu là một tổng những điều kiện giữ dầu trong đá
chứa ngăn sự di chuyển của dầu .
Trong tự nhiên , các đá chứa dầu nằm giữa các đá có
độ thấm xấu được gọi là két chứa tự nhiên .
Trong các két này thường chứa đầy nước , dầu khí
nằm trong két sẽ chứa dạng giọt phân tán hoặc bọt .
Do sự khác nhau về tỷ trọng , các giọt dầu và bọt
khí sẽ nổi lên trên mặt lớp và di chuyển lên trên tới
lớp đá mái , rồi sau đó nếu mái nằm nghiêng chúng
lại di chuyển theo hướng nhô lên của két chứa .
Nếu quá trình di chuyển cứ tiếp tục như vậy thì dầu
khí luôn ở trạng thái phân tán .
Các tích tụ dầu khí trong các két chứa tự nhiên chỉ
có thể xuất hiện khi trên đường di chuyển chúng bị
ngăn lại không di chuyển được nữa .
Bộ phận của két chứa tự nhiên , nơi có điều kiện
thuận lợi cho sự tích tụ dầu khí trên đường di chuyển
của chúng được gọi là bẫy dầu và khí .
- Đỉnh nếp uốn (crest) : điểm cao nhất của bẫy nếp lồi
- Điểm tràn (spill point) : khi lấp đầy một bẫy kiến trúc , điểm
tràn chính là điểm mà tại đó mực dầu là thấp nhất .
- Đê bao khép kín của bẫy (closure) : khoảng cách thẳng đứng từ
đỉnh nếp uốn đến mặt phẳng đi qua điểm tràn .
- Mặt phân cách dầu - nước (oil - water contact) : mặt phẳng
phân chia dầu và nước trong bẫy (dầu nằm trên nước)
- Mặt phân cách khí - dầu (gas – oil contact) : mặt phẳng phân
chia khí và dầu trong bẫy (khí nằm trên dầu)
Một loại bẫy phổ biến nhất là nếp lồi . Dầu từ phía dưới đi lên theo
hướng tới đỉnh nếp lồi , nếu bên trên là lớp đá chắn thì nó sẽ đọng lại.
Từ đó có một số định nghĩa có liên quan đến bẫy dầu :
PHÂN LOẠI BẨY DẦU KHÍ
1. Bẫy cấu trúc: gây ra bởi quá trình kiến tạo
Bẫy nếp lồi
Bẩy đứt gãy
2. Bẫy Diapiric: Gây ra bởi sự uốn nếp đảo ngược giữa tầng
muối diapiric
Muối diapiris
Bùn diapiris
3. Bẫy địa tầng học: Gây ra bởi dạng trầm tích hoặc là quá
trình tạo đá trầm tích
4. Bẫy thủy động: Gây ra bởi dòng nước chảy
5. Bẫy kết hơp: Gây ra bởi hai hay nhiều quá trình trên
PHÂN LOẠI BẨY DẦU KHÍ
I. BẪY KIẾN TRÚC
Nguyên nhân thành tạo do các lớp đá bị biến dạng uốn
nếp , đôi khi do hiện tượng xâm nhập hay hiện tượng nén
chặt gây ra .
1. Bẫy nếp lồi
Bẫy nếp lồi gây ra bởi sự nén ép được tìm thấy nhiều nhất ở
những vùng lân cận bên dưới vùng trũng, nơi có sự co rút của
vỏ trái đất.
Vì vậy nhiều bẫy được thành lập bên trong và ở vùng kế
bên dãy núi, xuất hiện ở nhiều nơi trên thế giới.
Nguyên nhân thành tạo do các lớp đá bị biến dạng uốn nếp
Nhóm thứ hai của bẫy nếp lồi được hình thành không
phải do sự nén ép mà do lực căng của vỏ trái đất.
Sức căng của vỏ trái đất là nguyên nhân hình thành bồn
trũng, mặt tiếp xúc thường tách ra đi vào khảm trong đá
móng của địa lũy và địa hào
2. Bẫy do phay: Đứt gãy có vai trò gián tiếp nhưng quan
trọng đối với sư nạp bẫy của nhiều mỏ. Bẫy do phay là
kiến trúc chiếm ưu thế trong sự thành tạo bẫy, ở đây không
tính đến nếp lồi bị phay phá. Phay trong trường hợp này là
là hậu qủa của uốn nếp. Mặt phay cắt qua một loạt địa
tầng: phục vụ cho sự di chuyển và tạo nên những vùng
khép kín không thấm
3. Quan hệ giữa bẫy kiến trúc với hoạt động kiến tạo
Sự phân loại cấu trúc bẫy thì rất quan trọng đối với
những bẫy không được khảo sát trong phạm vi kiến tạo.
Cấu trúc bẫy không xảy ra ngẫu nhiên.
Sự phân loại bẫy cấu trúc dựa vaò lịch sử hình thành
vùng và khu vực có hoạt đông kiến tạo đóng kín
Sự phân loại bẫy cấu trúc được đưa ra bởi
Harding và Lowell (1979) .
Cấu trúc bẫy phân loại tùy theo hoạt động kiến
tạo, tùy theo đá móng hay lớp phủ liên quan ,hay
theo môi trường đối với đới kiến tạo
Loại cấu trúc Ảnh hưởng
của lực kéo
Quan hệ đá
móng(Basement
involved)
Đứt gãy trượt
sâu(Wrench fault)
Ngẫu lực (Couple)
Vùng cao cổ
xưa(Region
paleohigh)
Quá trình
phủ(Mantle process)
Khối đứt gãy chờm
nghịch và đứt gãy
nghịch(Thrust
blocks and reversed
faults)
Sự nén
ép(Compreson)
Sự mở rộng khối
đứt gãy và sự xếp
nếp (Extension fault
blocks and drape
anticlines)
Lực kéo(Tension)
Sự tách rời lớp
phủ từ đá
móng(Cover
detached from
basement)
Đứt gãy đồng
trầm tích và nếp
lồi uốn(growth
faults and
rollover
anticlines)
Sự bóc tách-quan
hệ cấu
trúc(Decollement
-relatived
structures)
Sự nén
ép(Compression)
Diapirs(muối và
sét)(Diapirs(salt
and clay)
Sự đảo ngược tỉ
trọng(Density
contract)
II. BẪY DIAPIRIC
Bẫy diapiric được sinh ra bởi sự chuyển động đi lên của
trầm tích có tỉ trọng nhỏ hơn lớp phủ chúng.
Trong hoàn cảnh này trầm tích có khuynh hướng di
chuyển đi lên diapiric, bẫy hidrocacbon có dạng thay đổi
khác nhau.
Vòm muối
Khi khối magma hay vòm muối đi lên các loạt đá kề
trên một cấu trúc vòm muối có 3 tác dụng
+ Đầy lùi các lớp đấy đá mà nó đi qua và tạo ra cấu trúc
nêm vát ở 2 bên sườn .
+ Nâng các lớp đất đá kề trên thành nếp lồi nếu nó
không chọc thủng các lớp này .
Ngay trên phần đỉnh của chỏm muối , gọi là mũ đá
thường được thành tạo bởi thạch cao , đá vôi , dolomit ,
những chất cặn không tan của chỏm muối → tạo nên
tầng chứa sản phẩm
Một loại bẫy chính khác được xét đến là bẫy địa tầng, nó
có dạng hình học do có sự thay đổi về thành phần thạch
học.
Những sự thay đổi đó có thể là nguyên nhân bởi nguồn
gốc của sự bồi tích trong đá, tạo ra những ám tiêu hay
những kênh rãnh.
III. BẪY ĐỊA TẦNG
Bẫy địa tầng là bẫy mà sự khép kín được tạo ra do
sự biến đổi của địa tầng hoặc sự biến đổi trầm tích
của đá chứa .
Do kết quả của hiện tượng địa chất sinh ra sau
các hoạt động trầm tích , chủ yếu chúng phụ thuộc
vào địa tầng cổ địa lý
1. Không liên quan với bất chỉnh hợp: Những bẩy trầm
tích thì bao gồm những rãnh, ám tiêu và những doi cát
a. Channel traps
Các thân cát hoăc nói chung hơn là các tích tụ vụn
có thể chia ra thành một số kiểu tùy theo các đặc tính
địa chất và nguồn gốc của chúng gồm: các thành hệ
dạng thấu kính tạo nên kiểu bẫy trầm tích không đều
và không liên tục.
- Các lạch cát: Là những thành hệ trầm tích vụn
tương ứng với sự lấp đầy các lạch cổ. Trong trường
hợp này các thân cát vuông góc hoặc xiên chéo với
bờ biển, tương ứng với những dòng sông cổ hoặc tam
giác châu cổ nơi vật liệu được đưa ra biển.
- Các doi cát: là những bẫy địa tầng nguyên sinh
tương ứng với những doi cát lắng đọng ở một độ sâu
nhất định ở phía ngoài bờ biển. Thân cát thuộc dạng
này thường có dạng hình học đều đặn, kéo dài và ít
nhiều song song với đường bờ biển
Mô hình về địa
chất học và mô
hình điện toán
của đường địa
chấn về đá cát
chắn bờ biển bị
giật lùi
Được thành tạo cơ bản ở sườn các khối nâng và những
cấu trúc lớn khác do sự giảm chiều dày theo đường phương
từ trên xuống cũng như sự thay đổi theo chiều hướng giảm
đi tính chứa dầu và đến khi vát nhọn, mất hoàn toàn những
tầng chứa dầu .
b. Bẫy vát nhọn
Thường nó được khép kín ở phía trên của núi dốc do
sự biến đổi theo chiều ngang từ vật liệu cát đến sét, thân
cát thường có hình dạng dẹp hoặc thu dài, loại đơn giản
nhất là thân cát thuộc loại thấu kính.
Trong trường hợp này đá chứa có dạng như một cái
nêm được bao bọc xung quanh bởi các đá không thấm
(đá chắn) .
c. Bẩy ám tiêu: thường khó phát hiện chúng thường nằm ở
một chỗ đối với độ dốc đáy biển, giữa bồn và nền ven bờ .
Bẩy ám tiêu hay là nơi mà có sự tăng độ nghiêng của đá
cacbonat, là một trong những loại bẫy quan trọng thuộc bẫy
địa tầng.
Sự trưởng thành của ám tiêu tạo ra dạng tháp nhọn hoặc
dạng đối xứng kéo dài.
Chúng phát triển ở những chỗ có kết cấu đá cứng, và độ
xốp ban đầu cao. Có 2 loại:
- Tầng đất đá sinh vật: là những tầng chứa tỷ lệ lớn các
vỏ, các mãnh vụn và cơ thể sinh vật khác nhau
- Các rạn sinh vật: Các ám tiêu này thường được thành
tạo bởi các sinh vật: san hô, bọt biển, huệ biển, sò, ốc,
tay cuộn, rêu, trùng lỗ… Thường chúng tạo thành những
khối Dolomit, có sự tích tụ của các mảnh vỏ sò, ốc ở trên
các sườn có tính chất đá chứa
Hai vấn đề chính về bẫy địa tầng ám tiêu là: không phải tất cả
những ám tiêu thì đều chứa Hidrocarbon và ở đây những đặc
trưng của vỉa chứa thì không liên quan đến tướng trầm tích
2. Quan hệ với bất chỉnh hợp
Liên quan với bất chỉnh hợp địa tầng tại các cấu trúc kiến tạo . Liên quan với bất
chỉnh hợp địa tầng ở bề mặt bóc mòn các phần sót lại bị chôn vùi của địa hình cổ hay các
phần lồi của móng kết tinh . Trong trường hợp này những lớp đá nằm bên dưới có thể bị
nghiêng , bị xói mòn và sau đó được phủ không khớp đều lên trên bởi một lớp đất đá không
thấm trẻ hơn và tại đó dầu – khí có thể được bẫy lại .
Tầng đá chứa bên dưới có thể được phủ lên bất kỳ một loại đá trầm tích không
thấm nào đó , nhưng thường là loại đá phiến bột sét hoặc đá trầm tích bốc hơi
Bẫy bất chỉnh hợp và phủ bất chỉnh hợp
Nước từ những khoảng trống có áp lực lớn trong đá đi theo
đứt gãy thẩm thấu vào những bẫy chứa dầu và đẩy dầu di
chuyển ra khỏi bẫy tạo lên màn chắn thủy lực .
Đặc biệt, trong bẫy màn chắn thủy lực thường có mặt phân
cách dầu – nước ở trạng thái nghiêng .
IV. BẪY THỦY ĐỘNG LỰC
Các tầng chứa nước ít khi đứng yên và di chuyển với một
tốc độ mạnh làm thay đổi điều kiện thành tạo bẫy thay vì
chỉ chịu lực trọng trường . Tỷ trọng của khí luôn nhỏ hơn
dầu nên vỉa khí bị biến dạng và di chuyển yếu, vỉa dầu bị
biến dạng và di chuyển mạnh hơn . Do đó nhân tố thủy
tĩnh và thủy động lực kéo theo sự thay đổi vị trí của bẫy .
V. BẪY KẾT HỢP
* Quá trình hình thành bẫy hỗn hợp
Nhân tố địa tầng gây ra trước tiên, tiếp theo là nhân tố kiến
trúc gây ra biến dạng để hoàn chỉnh bẫy.
Hai hiện tượng có thể liên kết chặt chẽ với nhau và hiện
tượng kiến tạo sẽ quyết định quá trình trầm tích.
Một nếp lồi có thể bị trọc đi do sự xói mòn phần đỉnh, sau
đó bị phủ lên bởi một thành hệ biển tiến.
Bẫy có thể được tạo nên do sự phối hợp nêm vát bên
dưới bất chỉnh hợp hoặc nêm vát biển tiến nằm trên sườn
của một nếp lồi. Trong trường bẫy liên kết với các vòm
muối thì có nhiều hiện tượng trầm tích sẽ đi kèm với sự
nâng lên của vòm.
Bẫy liên kết với những dãy núi cổ hoặc một đồi bị vùi
lấp. Một dãy núi cổ vẫn nổi cao so với các thành hệ sau
đó. Chúng ta phân biệt dãy núi cổ thuần tuý và dãy núi cổ
hoạt động trong uốn nếp sau này.
Trước thời kỳ bị phủ, địa hình của nó đã bị các nhân tố
xói mòn. Sau khi bị chôn vùi nó vẫn có độ lỗ rỗng cao trở
thành lớp có độ thấm đáng kể và tầng chứa tốt.
Bẫy do khe nứt là nhiều khoáng sản có các tầng chứa
nứt nẻ. Và những tầng chứa này thuộc về những kiểu bẫy
khác nhau.
Hiện tượng nứt nẻ là nguồn gốc của tầng chứa khi vắng
mặt mọi biến dạng của kiến trúc, cũng như một bẫy địa
tầng chủ yếu được tạo nên bởi sự phát triển của một bẫy
không liên tục của tầng xốp và thấm.
Hầu hết các trường dầu và khí trên thế giới không chỉ là
đơn độc hoặc bẫy cấu trúc hoặc bẫy địa tầng hoặc bẫy
màn chắn thủy động lực mà là sự tổ hợp của hai hay nhiều
yếu tố trên .
Trong thực tế , các bẫy dầu thường là tổ hợp của 2 yếu tố
cấu trúc và yếu tố địa tầng , trường hợp có thêm yếu tố màn
chắn thủy động lực thì rất hiếm gặp .
Các kiểu bẫy hỗn hợp :
* Nêm vát địa tầng nằm trên sườn của một nếp lồi .
* Bẫy có thể được tạo nên do sự kết hợp của một nếp lồi
bị cắt bởi mặt bất chỉnh hợp .
* Đa số các bẫy liên kết với vòm muối cũng được coi là
bẫy hỗ hợp .
KIỂU BẪY DẦU KHÍ Ở VIỆT NAM
I. BỂ CỬU LONG
Các bẫy dầu khí được phát hiện chủ yếu là:
+ Bẫy cấu tạo vòm, vòm đứt gãy, khối đứt gãy nghiêng,
các cấu tạo hình hoa tồn tại trong các tập C, E ( Oligocen),
B1 (Miocen dưới).
+ Bẫy chứa trong móng đá nứt nẻ.
+ Bẫy địa tầng liên qưan đến các thân cát tuổi Oligocen,
Miocen. Các thân các có dạng thấu kính, dạng vát nhọn địa
tầng.
Đới nâng Rồng-Bạch Hổ-Cửu Long :
Còn gọi là đới nâng trung tâm có phương hướng kéo dài
theo hướng Đông Bắc-Tây Nam.
Đới nâng này bị phân cách với các trũng kế cận bởi các
đứt gãy lớn đặc biệt là đứt gãy Đông Bắc–Tây Nam.
Qua các bản đồ đẳng dày ta thấy các đới nâng này phát
triển kế thừa một cách bền vững và liên tục từ móng đá
trước Kainozoi đến tầng “rotalid”.
The image cannot be displayed. Your computer may not have enough memory to open the image, or the image may have been corrupted. Restart your computer, and then open the file again. If the red x still appears, you may have to delete the image and then insert it again.
II. BỂ NAM CÔN SƠN
Các dạng bẫy trong bể Nam Côn Sơn gồm:
+ Bẫy cấu trúc nếp oằn cuốn, những đứt gãy nghiêng kéo
dài.
+ Bẫy rong khối đá móng nhô cao bị phong hóa nứt nẻ.
+ Bẫy ám tiêu trong các thành tạo cacbonat ( chủ yếu
trong tầng Miocen trung và thượng).
+ Bẫy địa tầng: dạng vát nhọn trên cánh đới nâng.
III.BỂ PHÚ KHÁNH
Có các dạng bẫy chính sau:
+Bẫy chứa trong móng nứt nẻ (trong móng trước Đệ Tam).
+Bẫy dạng vòm (Eocen thượng –Oligocen).
+ Bẫy địa tầng : các vát nhọn địa tầng (Oligocen thượng).
+Bẫy chứa hình thành trong pha nghịch đảo và nâng lên của
khu vực (Miocen hạ ).
+Bẫy địa tầng chứa ám tiêu san hô ( Miocen trung –thượng).
IV. BỂ SÔNG HỒNG
Điển hình là các thành tạo cacbonat đươcẹ hình thành
trong điều kiện biển nông.
Bẫy dạng vòm được kế thừa trên khối nâng móng và
chịu mức độ nén ép khác nhau giữa đỉnh và cánh. Tầng
chắn là sét phủ lên mặt trượt đứt gãy.
Các khối cacbonat ám tiêu Miocen với các tầng sinh
Miocen và Oligocen trong các bẫy khối xây kế thừa các
gờ nâng hay các vòm nâng và các địa lũy.
V. BỂ MALAY-THỔ CHU
Bẫy phổ biến nhất là khối bám đứt gãy, hay dạng cấu tạo
hình hoa, một số các thân cát lòng sông cổ.
PHẦN IV: KẾT LUẬN
Bẫy nếp lồi xuất hiện trong tất cả các loại bồn tự
nhiên và thường thì xuất hiện như các giếng nghịch
đảo (lấy nước vào phía miệng và mất nước đi phía
đáy ) và các khối nâng trong các bồn kiến trúc
Bẫy có kiến trúc đứt gãy thường xuất hiện trong các
bồn nép ép và các bồn tạo nên do các đứt gãy lục địa . Cơ
chế của loại bẫy này được đặc trưng bởi những đai đứt
gãy nghịch chờm cả các khối nâng bên trong những diện
tích chịu ảnh hưởng của những hoạt động di chuyển kiến
tạo trong suốt lịch sử địa chất của chúng
Các bồn kiến tạo muối thành tạo trên những khu vực
rộng lớn trong suốt kỷ Devon và Pecmi sớm đã cung cấp
nhiều loại đá chắn độc đáo ở gần sát bên các vòm muối
Bẫy địa tầng xuất hiện như những đới nêm địa tầng –
phát triển ở phần hông của vỉa kiến trúc nếp lồi .
Các bẫy địa tầng thường có liên quan đến các bẫy bất
chỉnh hợp .
Mỗi trường hợp riêng biệt tùy vào môi trường tướng
đá cổ là các thể thấu kính .
Phần lớn các tầng chứa thành tạo ở môi trường xa bờ
và gần bờ - nơi chịu ảnh hưởng của thủy triều và vùng
tam giác châu .
Các tầng chứa ám tiêu thường được thành tạo
do các thành hệ cacbonat và chúng phản ánh những
môi trường cổ - nơi mà chúng được tạo thành .
Chúng tạo nên các tầng chứa có độ rỗng và độ
thấm tốt có khả năng tạo các tích tụ lớn .
Phân loại đứt gãy
a. Đứt gãy thuận: mặt đứt gãy nghiêng về phía đất đá sụt
xuống, cánh treo sụt tương đối so với cánh nằm.
Hình thành chủ yếu trong trường lực căng giãn theo
phương ngang, hoặc do sự dịch chuyển tương đối theo
chiều thẳng đứng của đất đá trong vùng có vận động kiến
tạo thăng trầm
b. Đứt gãy nghịch: mặt đứt gãy nghiêng về phái các đá bị
trồi lên, cánh treo nâng lên tương đối so với cánh nằm.
Đứt gãy nghịch và nghịch chờm được hình thành trong
điều kiện nén ép của vỏ trái đất
Đứt gãy ngang (phay ngang): là những đứt gãy mà các
đất đá có cùng chuyển dịch theo phương ngang.
Địa hào: là hợp bởi đứt gãy thuận hay đứt gãy nghịch mà
phần trung tâm bị tụt xuống
Địa luỹ: được thành tạo bởi các đứt gãy thuận hoặc
nghịch, phần trung tâm nâng lên tương đối
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 17_compatibility_mode__4012.pdf