Words denoting mental thoughts are classified as verbs. However, it is widely known that they
function as both verbs and adjectives. Most of them are adjectives and only some of them are
verbs. The latter can not funtion as adjectives but the former can funtion as verbs. It is therefore
that all such words of mentality are regarded as verbs. The conversion of parts of speech in
languages in a popular phenomenon, especially verbs showing mental activities. This is a
debatable issue among linguists. A quite conviceable and typical argument for this is basing on
some distinctive features of verbs and adjectives, or even combining some of those features.
However, those explainations are still unsatisfactory. This paper aims at explaining the issue from
the categorization of cognitive linguistics.
6 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 391 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bàn về sự qui loại từ loại của động từ chỉ tâm lý trong tiếng Hán hiện đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Quách Thị Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 9 - 14
9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
BÀN VỀ SỰ QUI LOẠI TỪ LOẠI CỦA ĐỘNG TỪ CHỈ TÂM LÝ
TRONG TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI
Quách Thị Nga*
Khoa Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên
TÓM TẮT
Từ chỉ tâm lý được giới ngôn ngữ học Hán ngữ qui loại là động từ. Nhưng chúng ta đều biết từ chỉ
tâm lý là từ lưỡng tính động – tính. Phần đa từ chỉ tâm lý là tính từ, phần ít là động từ. Số ít là
động từ này không thể dùng như một tính từ nhưng số nhiều tính từ này lại có thể dùng như động
từ. Chính vì vậy, từ chỉ tâm lý được thống nhất qui về động từ. Sự chuyển đổi từ loại trong ngôn
ngữ là hiện tượng phổ biến, đặc biệt là động từ chỉ tâm lý. Đây là vấn đề gây nhiều tranh luận
trong giới ngôn ngữ học. Một phương pháp giải thích điển hình và cũng có nhiều sức thuyết phục
là đưa ra một số tiêu chí khu biệt động từ và tính từ, thậm chí kết hợp các tiêu chí lại , nhưng kết
quả cho thấy không triệt để. Bài viết muốn đi từ góc độ lý luận phạm trù hóa của ngôn ngữ học tri
nhận để giải thích vấn đề này.
Từ khóa: Hán ngữ, động từ chỉ tâm lý, từ loại, ngôn ngữ học tri nhận, phạm trù
Từ trước đến nay, từ loại là vấn đề được giới
ngôn ngữ chú trọng . Ngữ pháp Hán ngữ hiện
đại cơ sở căn cứ vào hình thái của từ như
“化”、“得”để chỉ ra đặc điểm của động từ ,
căn cứ vào dạng thức trùng điệp của động từ
mà chỉ ra một số qui luật của tính từ.
Học giả Liễu Định Văn cho rằng : Động từ chỉ
tâm lý mang tân ngữ không có giới hạn , có
thể mang tân ngữ là danh từ, động từ, tính từ.
Ông chỉ ra : Động từ chỉ tâm lý có thể kết hợp
cùng phó từ chỉ trình độ .
Giáo sư Lã Thúc T ương khi nói về mối quan
hệ giữa nghĩa của từ và từ loại đã nhấn mạnh
tầm quan trọng của nghĩa của từ với việc phân
loại từ tính của từ . Đầu tiên , ông trích dẫn
SaHe, Matuofuyuanshi trong kết cấu câu
tiếng Nga đã nhấn mạ nh “Sự phân loại từ ,
ngoài nền tảng kết cấu học còn có một nền
tảng vững vàng hơn , đó là nền tảng ngữ nghĩa
học ” . Ông phản đối dựa vào hình thức để đi
phân loại từ như ý kiến của ông Cao Minh
Khải: “núi” là núi , “cá ” là cá , “người” là
người, như vậy mỗi một từ tự nó không phản
ánh nó là danh từ , những từ này về mặt ngữ
nghĩa đều không có điểm tương đồng . Nghĩa
của từ là một tiêu chuẩn quan trọng để tham
khảo, nếu kết quả của một kiểu phân loại nào
đó mà có chỗ nào đó mâu thuẫn với ngữ
nghĩa thì đảm bảo khó được đón nhận” .
Như vậy , xuất phát từ góc độ ngữ nghĩa đi
khu biệt từ loại của động từ là cần và bắt
Tel: 01663836912, Email: Guoe12780@yahoo.com
buộc , mà đã đi từ góc độ ng ữ nghĩa thì tôi
cho rằng không thể không có sự tham gia
của ngôn ngữ học tri nhận .
Đưa ra sự phân loại như vậy rốt cuộc có ý
nghĩa gì đối với động từ chỉ tâm lý ? Không
phải tất cả những động từ chỉ tâm lý đều được
qui loại về động từ rồi hay sao ? Có điều trong
thực tế chúng ta thấy có những động từ chỉ
tâm lý mang tính tính từ rất rõ ràng , ví dụ từ
“高兴”(vui, vui vẻ ) có thể kết hợp với các
phó từ “很”(rất)、“不”(không) và mang hình
thức trùng điệp của một tính từ “高高兴兴”.
Như vậy tại sao lại qui nó vào từ loại động
từ? Tôi muốn đi từ góc độ ngôn ngữ học tri
nhận để giải thích vấn đề này .
Như trên đã nói vấn đề qui loại từ loại của
Hán ngữ là một vấn đề quan trọng trong ngữ
pháp Hán ngữ . Đã có không ít tranh luận ,
những quan điểm và những tiêu chuẩn xác
định khác nhau về vấn đề này . Trong cuốn
“Mã Thị Văn Thông” có nói “chữ không có
nghĩa nhất định , vì vậy cũng không qui loại
nhất định cho nó được , muốn biết nó thuộc từ
loại nào thì phải xem văn cảnh trước và sau
nó”. Học giả Lê Cẩm Hi lại cho rằng khu biệt
từ loại cần căn cứ vào thành phần câu “Từ
loại của từ trong ngôn ngữ t a tự nó khó có
cơ sở phân loại được ; bắt buộc phải xem vị
trí và chức năng của nó trong câu mới có
thể quyết định nó thuộc loại từ loại nào” .
Nhưng phương pháp này theo giáo sư Lã
Thúc Tương cũng còn mặt tồn tại của n ó:
Quách Thị Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 9 - 14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
(1) Từ ngữ nghĩa của từ không thể xác định
được từ loại của nó . Như vậy khiến cho
những người mới học sẽ gặp không ít khó
khăn; (2) Khi xa rời câu , từ không thuộc từ
loại nào cả ; (3) Nếu việc qui loại từ loại
hoàn t oàn phụ thuộc vào thành phần câu thì
thật không cần thiết để thiết lập ra hai thuật
ngữ (thành phần câu và từ loại ) làm gì , một
thuật ngữ cho nó đã là quá đủ .
Học giả Phương Quang Thọ , Lục Chí Vi lại
đưa ra cách dựa và o quan hệ kết cấu của câu
để qui định từ loại . Phương Quang Thọ từng
nói: “Từ loại không nhất định là phải đưa từ
vào trong câu mới nhận định được . Từ liên hệ
qua lại giữa từ và từ , sự tổ hợp từ và từ cũng
có thể nhậ n định được rõ ràng tính chất của
từ. Ví dụ : „一块墨,一块钟‟ (Một miếng
mực, một chiếc đồng hồ ), rõ ràng mực và sắt
đều có thể tổ hợp cùng „一块‟(cục, tấm,
miếng) nhưng rõ ràng không cùng một phạm
trù”. Đến đây có thể thấ y rõ hơn , việc vận
dụng phạm trù để phân loại từ loại đã sớm có
người nghĩ đến , nhưng làm sao để vận dụng
cả lý luận này để giải thích những vấn đề cụ
thể thì đến nay vẫn còn là vấn đề . Quan hệ
kết cấu của họ Phương tuy có ưu điểm của nó ,
khắc phục được những nhược điểm của việc
phân loại từ dựa vào thành phần câu , nhưng
“Nó vẫn không thể giải quyết nổi một vấn đề
cổ chí kim đó là : sự phân loại phân định tính
từ và nội động từ, nội động từ và ngoại động
từ ” (Lã Thúc Tương)
Lại có người đưa ra dùng phương pháp “Chữ
phân định” để phân loại từ loại , nhưng mỗi
một chữ phân định lại không có tính hoàn
chỉnh, như giáo sư Lã Thúc Tương từng nói
“Chữ phân định lý tưởng là phải có tính phổ
biến đối với từ loại mà nó phân định và không
có tính mở đối với các từ loại khác” , nhưng
thực tế thì chữ phân định vừa có tính phổ
biến với từ loại mà nó phân định lại vừa ít
nhiều có tính mở với các từ loại khác .
Học giả Dụ Mẫn , Lục Tông Đạt đề nghị dùng
thức trùng điệp để phân định từ loại . “Thức
trùng điệp là một phương pháp hay để phân
định động từ và tính từ tuy nhiên còn có hạn
chế như có loại từ dùng được , có loại lại
không dùng được” .
Trước các tiêu chuẩn phân định như vậy ,
ngữ pháp tiếng Hán vấp phải không ít vấn
đề, “Nếu dùng một tiêu chuẩn để phân định
từ loại , e rằng trên thực tế k hông làm nổi .
Đến ngay cả sự kết hợp các tiêu chuẩn lại
thì quan điểm của mỗi người cũng khác
nhau” .(Lã Thúc Tương )
Học giả Văn Luyện, Hồ Phụ hai người đã người
kết hợp một số tiêu chuẩn lại phán đoán động từ
((《谈词的分类.下》中国语文.1954(3))
Và giáo sư Lã Thúc Tương đã theo những sự
kết hợp này để phân định động từ nhưng kết
quả vẫn còn một loạt các động từ như : 知道
(biết)、取消(hủyabỏ)、象a(giống)、死(chết)
、活(sống)、糊涂(hồ đồ) v.v.. mà “không có
một từ nào được điểm tuyệt đối , cũng không
có một từ nào không được điểm” , như vậy
rốt cuộc chúng là tính từ hay động từ?
Đối với những tồn tại như vậy và sự phân vân
của giáo sư Lã Thúc Tương nên giải quyết
như thế nào? Trường hợp từ không biết nên
xếp vào từ loại nào chúng ta có thể tạm xếp
chúng vào từ lưỡng tính động - tính. Nhưng
tại sao lại có hiện tượng ngôn ngữ này?
Nguồn gốc của sự chuyển đổi từ loại này là gì
và vì sao có thể chuyển đổi được như vậy.
Đây là vấn đề từ trước đến nay khó có thể giải
đáp được.
Ngôn ngữ học tri nhận là một khoa học mới
ra đời, hiểu nôm na đó là môn khoa học giải
thích trên căn cứ tư duy nhận thức của con
người. Tôi cho rằng có thể thông qua lý luận
phạm trù của ngôn ngữ học nhận thức để giải
đáp vấn đề trên.
Lý luận phạm trù cho rằng giữa các phạm trù
luôn tồn tại những ranh giới không rõ ràng,
không thể chia ranh giới một cách mạch lạc.
Một phạm trù gồm nhiều thành viên, những
thành viên này ít hay nhiều đều mang thuộc
tính của phạm trù đó. Những thành viên chính
của phạm trù thường có nhiều thuộc tính của
phạm trù, còn thành viên phụ thì có ít thuộc
tính của phạm trù hơn, thậm chí chỉ có một
thuộc tính trong rất nhiều thuộc tính của
phạm trù. Vì vậy thành viên phụ của phạm
trù này nhiều khi cùng là thành viên phụ
của phạm trù kia. Từ hiện tượng chuyển đổi
từ loại của từ chỉ tâm lý, có thể lý giải rằng
động từ tâm lý trong tiếng Hán là m ột phạm
Quách Thị Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 9 - 14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
trù trong đó những tiêu chí để khu biệt động
từ tâm lý với các từ loại khác của từ chỉ hoạt
động tâm lý là những thuộc tính của phạm trù
này. Những thuộc tính của phạm trù động từ
tâm lý mà bài viết đưa ra gồm: Có thể dùng
làm vị ngữ của câu, có thể đặt sau danh từ,
khi làm định ngữ cho danh từ bắt buộc phải
mang„的, có thể đi với trợ từ động thái “了,
着, 过”, động từ chỉ xu hướng “起来, 下去”,
trợ từ kết cấu “得”, phó từ phủ định “不”,
hình thức trùng điệp của động từ. Động từ
chỉ tâm lý nào mang càng nhiều thuộc tính
của phạm trù từ tâm lý thì nó là động từ chỉ
tâm lý điển hình, ngược lại động từ tâm lý
nào mang càng ít thuộc tính của phạm trù này
từ loại động từ của nó càng mờ nhạt. Khi đó
nó vừa là thành viên của phạm trù động từ
tâm lý, vừa có thể là thành viên của phạm trù
tính từ chỉ tâm lý.
Bảng 1. Các thuộc tính của phạm trù động từ chỉ tâm lý
Sự phân loại theo
ngữ nghĩa các động
từ chỉ tâm lý
Đảm nhiệm
TP câu
Quan hệ kết cấu Từ làm tiêu chí nhận định
Trùng
điệp
Làm
vị ngữ
Khi làm
định ngữ
cho danh từ
bắt buộc
phải mang
‟的‟
Đặt sau
danh từ
了 着 过
起
来
下
去
得/
不
Từ song
âm tiết
1.Chỉ cảm xúc
VD: vui\ buồn..v.v..
+ - + + + - + - + -
2.Chỉ tình cảm
VD:thích\ghét\yêu
.v.v
+ + + + + + + - + +
3.Chỉ cảm nhận
VD:cảm thấy
\hiểu được \nhận
biết\ lý giải..v.v.
+ + +
+
-
- +
+
-
- + +
4.Chỉ hoạt động
nhận thức
VD: quên, nhớ, hy
vọng, nghi ngờ
+ + + + + +
+
-
+
-
+ +
5.Chỉ truyền cảm
VD:dọa\nạt
+ + + + +? + + - + +
Ở bảng trên , trong 5 loại động từ chỉ tâm lý
thì loại nào mang nhiều nhất các thuộc tính
của phạm trù động từ chỉ tâm lý ? Có thể thấy
rằng rõ ràng không có bất kỳ loại nào mang
đầy đủ toàn bộ các thuộc tính của phạm trù
động từ chỉ tâm lý mà chỉ có thể là mang
nhiều nhất hay ít nhất các thuộc tính này mà
thôi. Ví dụ, loại chỉ hoạt động nhận thức và
chỉ truyền cảm mang nhiều thuộc tính của
phạm trù này nhất , loại chỉ cảm xúc mang ít
thuộc tính của phạm trù này nhất . Nếu tính
theo thứ tự thuộc tính của phạm trù từ nhiều
đến ít, từ mạnh đến yếu , ta có thể xếp 5 loại
động từ chỉ tâm lý theo thứ tự sau :
Loại chỉ nhận thức →Loại truyền cảm → Loại tình cảm →Loại cảm nhận → Loại cảm
xúc
Mạnh Yếu
Ví dụ: Từ “高兴” (vui vẻ) thuộc loại cảm xúc
này có thể đảm nhiệm thành phần vị ngữ
trong câu. Trong câu “他很高兴。” (Anh ta
rất vui.) , từ “高兴” (vui vẻ) rõ ràng có thuôc
tính “đảm nhiệm thành phần vị ngữ” của phạm
trù động từ chỉ tâm lý . Nhưng “高兴” (vui vẻ)
khi dùng làm định ngữ tu sức cho danh từ , nó
có thể mang “的”, có thể không mang “的”, ví
Quách Thị Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 9 - 14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
dụ “高兴的姑娘”, “高兴姑娘”. Ở chức năng
này, “高兴”rõ ràng mang thuộc tính của một
tính từ , vì vậy nó không có thuộc tính “ khi
làm định ngữ cho danh từ bắt buộc phải
mang„的”như ở động từ.
Cũng như vậy , „高兴‟ (vui vẻ ) cũng có thể
theo sau bởi các trợ từ động thái , cũng có thể
dùng „ 得、不‟ (đến nỗi , không) để biểu đạt
bổ ngữ kết quả hoặc bổ ngữ trạng thái nào đó .
Chúng ta cũng có thể kết hợp sử dụng „高兴‟
(vui vẻ ) và „起来‟ (lên) . Ở chức năng này ,
„高兴‟ (vui vẻ ) rõ ràng mang những thuộc
tính của động từ . Nhưng „高兴‟ (vui vẻ ) lại
không thể kết hợp sử dụng cùng „下去‟ (tiếp
tục). Chúng ta đều biết „着‟ và“下去” đều là
những tiêu chí của thể phi hoàn thành trong
Hán ngữ hiện đại , tại sao „高兴‟ (vui vẻ ) chỉ
có thể k ết hợp sử dụng cùng „着‟ mà không
thể kêt hợp sử dụng cùng „下去‟? Bởi vì „着‟
và „下去‟ có sự khác nhau về bản chất, „着‟ là
tiêu chí của thể phi hoàn thành tiếp diễnnó
đứng sau động từ để biểu đạt động tác hành
động đang tiếp diễn . Còn „下去‟ lại là thì phi
hoàn thành tiếp diễn, nó đứng sau động từ để
biểu đạt hành động sau khi đã đạt đến một
điểm biến đổi nào đó rồi thì vẫn tiếp tục .
Điều đó cho chúng ta thấy „高兴‟ không thể
kết hợp s ử dụng cùng „ 下去‟ bởi vì „高兴‟ là
động từ tĩnh hoặc nói cách khác là tính động
từ không rõ rệt . Khi nó kết hợp cùng „着‟, nó
biểu thị sự tiếp diễn trạng thái tĩnh của sự vật,
“Trong quá trình sự vật tiếp diễn , chúng ta
đều không quan sát thấy sự biến đổi lúc nó
bắt đầu tiếp diễn , cũng không quan sát được
sự biến đổi của nó trong quá trình tiếp diễn ,
đương nhiên cũng không quan sát được sự
biến đổi của nó khi sự tiếp diễn này kết th úc,
sự vật luôn có một kết cấu thời gian đồng đều ,
bất kỳ một khoảng nào trong quá trình tiếp
diễn của sự vật đều giống với các khoảng
khác trong quá trình đó .”(《Nghiên cứu về
động từ tiếng Hán ). Cũng giống như vậy ,
chúng ta không thể quan sát được khoảng
giữa của „高兴‟, vì vậy cũng không thể nhìn
thấy được sự vật sau khi đạt đến điểm biến
đổi của nó là „高兴‟ thì vẫn tiếp tục trạng
thái này .
Nếu vận dụng quan điểm „有界‟ (hữu giới –
có thể chia ranh giới ) và „无界‟(vô giới –
không thể chia ranh giới ) của Thẩm Gia
Xuyên để giải thích thì ta có thể tìm thấy
được cùng một kết quả “Trong sự cảm nhận
và nhận biết sự vật của con người có sự đối
lập giữa „hữu giới‟ và „vô giới‟, trong sự cảm
nhận và nhận biết hành động hành vi của con
người cũng có sự đối lập giữa „hữu giới‟ và
„vô giới‟ . Hành động không thể chia ranh giới
có cùng tính chất , hành động có thể chia ranh
giới khác về tính chất .Nếu phân cắt về mặt
thời gian một cách bất kỳ trạng thái
“我想家”(Tôi nhớ nhà ),sau đó lấy ra một
khoảng bất kỳ thì vẫn luôn là “ 我想家” (Tôi
nhớ nhà ). Ngược lại động tác
“我跑到学校”(Tôi chạy đến trường ) chỉ có
điểm kết thúc của động tác này mới được
tính là “chạy tới trường” , còn những khoảng ,
thời điểm khác chỉ là đang chạy hoặc bắt đẩu
chạy. Điều này khiến cho hành động , động tác
trong khi hình thành có sự đối lập giữa „có thể
chia ranh giới‟ và „không thể chia ranh giới‟ ,
phản ánh rõ rệt nhất trong ngữ pháp là sự
phân chia của „động từ tiếp diễn‟ và „động từ
phi tiếp diễn‟ .
Có nghĩa là „động từ tiếp diễn‟ là „không thể
chia ranh giới‟ , là đồng chất , là không thể
phân cắt hoặc sau khi phân cắt thì mỗi đoạn
được cắt ra đó đều có cùng một trạng thái . Vì
vậy, nó không có điểm bắt đầu ,điểm kết
thúc, nói cách khác điểm bắt đầu , điểm kết
thúc, khoảng giữa đều giống như nhau .
Ngược lại , „động từ phi tiếp diễn‟ là động từ
có thể chia ranh giới , dị chất , vì vậy nó có
điểm bắt đầu , khoảng giữa và điểm kết thúc
hoặc ít nhất có điểm kết thúc . Nhà ngôn ngữ
học G .Leech(1981) từng chỉ ra ”tiếp diễn là
một đặc tính của trạng thái tĩnh” . Đây là
nguyên nhân giải thích tại sao động từ tâm
lý chỉ cảm xúc không thể kết hợp cùng
„下去‟ (tiếp tục ).
Đến đây hẳn có người thắc mắc „着‟ chẳng
phải cũng là tiêu chí biểu thị một hành động
có quá trình tiếp diễn hay sao ? Có quá trình
tất nhiên là phải có điểm bắt đầu , kết thúc, và
quá trình . Như vậy nó nên đi sau động từ để
biểu thị sự trạng thái động ? Nếu nghĩ như vậy
tức là chỉ nghĩ đến một mặt của „ 着‟. Trong
luận văn phân tích ngữ nghĩa của „ 着‟ và „过‟
Quách Thị Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 9 - 14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
khi đứng sau động từ , Học giả người Trung
Quốc Hồ Dụ Thụ đã chỉ ra „ 着‟ thuộc loại trợ
từ biểu thị động tĩnh lưỡng tính . Biểu thị
trạng thái động hay trạng thái tĩnh còn phụ
thuộc vào động từ mà nó theo sau . Nếu động
từ mà ngữ nghĩa của nó biểu thị trạng thái
tĩnh thì động từ mang „ 着‟ này chỉ sự động
thái mang tính tiếp diễn .
Như vậ y lại có người thắc mắc từ „高兴‟ có
thể kết hợp cùng „ 起来‟, có lúc có thể lại kết
hợp cùng „ 了‟. Như vậy khi đó „ 高兴‟ nên
được coi là một động từ có ngữ nghĩa biểu thị
trạng thái tĩnh hay trạng thái động ? Hãy thử
xem ví dụ sau:
他今天很高兴。(Hôm nay anh ấy rất vui) (1)
他高兴了三天。(Anh ấy đã vui 3 ngày rồi) (2)
Như trên đã nói , „高兴‟ vốn là một động từ
tâm lý biểu thị trạng thái tĩnh , vì nó không
phản ánh được sự biến đổi của động từ ,là
một động từ có kết cấu thời gian đồng chất .
Ví dụ (1) chứng minh rất rõ điều này . Nhưng
trong ví dụ (2), khi đặt „ 了‟ sau „高兴‟,
„高兴‟ lúc này không còn là một động từ tâm
lý biểu thị trạng thái tĩnh nữa , „了‟ xuất hiện
trong câu đã khi ến „ 高兴‟ đi vào điểm biến
đổi của trạng thái tĩnh , từ đó mà mang theo
trạng thái động , có quá trình từ biến đổi đến
kết thúc.
Nói tóm lại , „高兴‟ không thể đi cùng „ 下去‟,
nói cách khác động từ tâm lý „ 高兴‟ không có
thuộc tính “có thể mang „下去‟ theo sau”. Từ
bảng biểu trên có thể thấy , không chỉ động từ
tâm lý chỉ cảm xúc mà đa số những động từ
tâm lý của 4 loại còn lại đều không thể mang
„下去‟ theo sau . Từ phân tích trên cho thấy
nguyên nhân của vấn đề này.
Dạng trùng điệp của „ 高兴‟ cũng không phải
là dạng trùng điệp của động từ , vì „ 高兴‟
cũng không có thuộc tính này của phạm trù
động từ chỉ tâm lý .
KẾT LUẬN
Từ chuyển đổi loại và sự đan xen của từ loại
không phải là hiện tượng phức tạp khó hiểu
của ngôn ngữ . Nhìn nhận từ góc độ phạm trù ,
vấn đề này càng dễ hiểu hơn . Từ loại cũng
giống như các phạm trù khác đều không có
một đường biên rõ ràng mà luôn ảnh hưởng
qua lại lẫn nhau, liên hệ và bổ sung cho nhau .
Trong Hán ngữ trước thời Tần , hiện tượng từ
chuyển đổi nhiều loại cũng rất phổ biến . Như
vậy có thể nói từ cổ chí kim , từ chuyển đổi
loại là hiện tượng tự nhiên của ngôn ngữ ,
cũng như vậy , động từ chỉ tâm lý có tới 20%
không phân biệt rõ được là tính từ hay động
từ cũng là một hiện tượng tất yếu .
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]a吕叔湘集.中国社会科学院科研局组织编写(
M).中国社会科学出版社.2001年10月第一次印
刷. (Cục nghiên cứu khoa học xã hội Trung Quốc.
Tuyển tập Lã Thúc Tương. Nhà xuất bản khoa học
xã hội. In lần 1 tháng 10 năm 2001)
[2]a张敏.认知语言学与汉语名词短语.中国社会
科学出版社.1998 (Trương Mẫn . Cụm danh từ
tiếng Hán và ngôn ngữ học tri nhận. Nhà xuất bản
khoa học xã hội.1998)
[3]a王寅.认知语言学探索.重庆出版社.2005年
(Vương Dần . Tìm hiểu ngôn ngữ học tri nhận .
Nxb Trùng Khánh. Năm 2005)
[4]
沈家煊.“有界”和“无界”a(J).中国语文.1995年第
5期 (Thẩm Gia Xuyên . “có chia ranh giới”và
“không chia ranh giới” . Tạp chí Ngữ văn Trung
Quốc. Kỳ 5 năm 1995)
[5]a范晓、杜高印、陈光磊.汉语动词研究.上海
教育出版社.1987 (Phạm Hiểu , Đỗ Cao Ấn , Trần
Quang Lỗi . Nghiên cứu động từ tiếng Hán . Nxb
Giáo dục Thượng Hải. 1987)
A DISCUSSION ON THE CLASSIFICATION OF PARTS OF SPEECH FOR
WORDS DENOTING MENTAL THOUGHTS IN MODERN CHINESE
Quach Thi Nga
Tel: 01663836912, Email: Guoe12780@yahoo.com
Quách Thị Nga Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 9 - 14
14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Foreign Languages Faculty- Thai Nguyen University
SUMMARY
Words denoting mental thoughts are classified as verbs. However, it is widely known that they
function as both verbs and adjectives. Most of them are adjectives and only some of them are
verbs. The latter can not funtion as adjectives but the former can funtion as verbs. It is therefore
that all such words of mentality are regarded as verbs. The conversion of parts of speech in
languages in a popular phenomenon, especially verbs showing mental activities. This is a
debatable issue among linguists. A quite conviceable and typical argument for this is basing on
some distinctive features of verbs and adjectives, or even combining some of those features.
However, those explainations are still unsatisfactory. This paper aims at explaining the issue from
the categorization of cognitive linguistics.
Keywords: Chineses, Words denoting mental thoughts, Part of speech, Cognitive linguistics,
Categorization.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_3836_9781_banvesuquiloaituloaicuadongtuchitamly_2224_2052817.pdf