Bộ nguồn (PSU)
Do có 1 số tính năng điều khiển từxa nên về nguyên tắc bộ nguồn phải luôn
luôn được cấp điện. Ta sẽ không thấy công tắc Power tự giữ theo kiểu AT nữa
(Sau khi bấm, công tắc sẽ tự giữ trạng thái đó cho đến khi bấm lần nữa để thay
đổi trạng thái), thay vào đó là 1 nút bấm kích (tự động trở về vị trí ban đầu sau
khi ngưng bấm) tương tự như nút Reset.
Khi bấm nút nầy, đường tín hiệu thứ 14 của đầu cắm nguồn (PW_ON) sẽ được
nối đất để tạo ra tín hiệu mở máy nếu máy đang trong tình trạng tắt (hay tắt
máy nếu máy đang trong tình trạng mở).
Chú ý: Khi mở máy bạn chỉ cần kích nút Power (bấm rồi nhả ngay) nhưng đặc
biệt khi tắt, tùy theo mainboard có thể ta phải bấm rồi giử sau 4 giây mới được
nhả (do xác lập trong Bios).
Khi trong tình trạng tắt, thực sự bộ nguồn vẫn tiêu thụ 1 lượng điện rất nhỏ để
duy trì sự hoạt động cho mạch điều khiển tự động mở máy (theo xác lập trong
Bios hay chương trình điều khiển). Chỉ khi nào bạn rút dây cắm nguồn hay tắt
điện bằng công tắt phía sau bộ nguồn thì máy mới ngắt điện hoàn toàn.
196 trang |
Chia sẻ: truongthinh92 | Lượt xem: 1895 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Phần cứng & lắp ráp máy tính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ài
Tổ chức vật lý của đĩa mềm
Để ổ đĩa mềm có thể ghi và đọc được dữ liệu ra từ đĩa mềm, người ta phải định
dạng và đánh địa chỉ vào từng đơn vị của đĩa mềm. Phần này do hệ điều hành
đảm nhiệm. Để có thể đánh địa chỉ cho đĩa người ta chia cấu trúc vật lý của đĩa
mềm như sau:
Track: là các đường tròn đồng tâm, được
chia làm 80 đường được đánh số từ ngoài
vào trong, track ngoài cùng mang số 0.
Sector: Là đơn vị quản lý nhỏ nhất trên
đĩa 1 Sector = 512 bytes cho mọi loại đĩa.
Một track được chia làm nhiều Sector.
Cluster: Đơn vị này được tính theo
Sector, 1 Cluster = 1,2,4,8,16,... Sector.
Đây là đơn vị truy xuất thông tin trên đĩa,
thường thì đĩa mềm 1Cluster = 1sector.
Head: Vì đĩa mềm có khả năng làm việc trên 2 mặt nên nó có 2 đầu ứng với 2
mặt đó. Để phân biệt hai đầu từ trên người ta đưa ra các giá trị 0 và 1 ứng với 2
đầu từ.
Bộ nhớ ngoài
Cấu trúc của Sector
Sector header: lưu trữ các thông tin về vị trí đầu đọc , cylinder, và số thứ tự vật lý
của sector. Nó cũng đảm nhận luôn nhiệm vụ xác định sector có sử dụng được hay
không hoặc sector nào sẽ lưu dữ liệu thay cho sector này. Thông tin cuối cùng mà
sector header cung cấp chính là giá trị của việc kiểm tra lỗi chẵn lẽ (CRC), giá trị
này giúp cho các chương trình xác định được sector header có chính xác hay không.
Góc rỗng (GAP): đối với một sector sự có mặt của góc rỗng là rất cần thiết. Góc
rỗng cung cấp cho đầu đọc/ghi một khoảng thời gian nhất định để nó có thể chuyển
từ việc đọc dữ liệu trên sector sang ghi dữ liệu. Khi đọc dữ liệu, đầu từ sẽ bỏ qua góc
rỗng.
Góc rỗng mở rộng (Inter-GAP): Góc rỗng mở rộng thì cung cấp cho đầu đọc 1
khoản thời gian nhất định để đầu đọc có thể chuyển từ việc “ghi trên 1 sector này”
sang “đọc sang sector kết tiếp”. Tương tự như Gócrỗng, khi đọc dữ liệu đầu đọc bỏ
qua Góc rỗng mở rộng.
Dữ liệu: Thông thường khi ta format đĩa cứng duới nền Windows hoặc DOS thì một
sector có thể chứa được 512 byte dữ liệu. Phần cuối cùng của vùng dữ liệu này chứa
thông tin về mã sửa lỗi (ECCs), dùng cho việc phát hiện và sửa lỗi.
Bộ nhớ ngoài
Nguyên tắc cấp phát không gian lưu trữ
Khi cần không gian để lưu trữ file trên đĩa từ thì đơn vị cấp phát
cơ bản là cluster. Ví dụ: ta cần lưu trữ một file có dung lượng 13
KB (giả sử 1 cluster = 4KB). Như vậy khi lưu file này sẽ được
tách ra trên 4 cluster lần lượt là:
Cluster 1 -> 4KB đầu tiên
Cluster 2 -> 4KB tiếp theo
Cluster 3 -> 4KB tiếp theo
Cluster 4 (cluster cuối cùng): 1KB còn lại của file. Cluster cuối
cùng có 3KB bị bỏ trống.
Như vậy luôn có một khoảng không gian bị bỏ phí trên ổ cứng -
đây chính là một trong những điểm khác nhau và tiến bộ giữa các
thế hệ FAT File System (Hệ thống tập tin).
Bộ nhớ ngoài
Tổ chức vật lý của đĩa mềm
Như vậy, ta đã thấy tất cả các điểm trên đĩa mềm đều có thể chỉ định
bằng tổ hợp các giá trị (Head, Track, Sector) hay (Head, Track, Cluster).
Tuy vậy, trên đây chỉ là cách tổ chức vật lý, rất khó cho quá trình làm
việc của máy tính. Do đó, người ta đưa ra cách đánh địa chỉ cho các đơn
vị lưu trữ trên đĩa theo logic chính xác và đơn giản hơn.
Bộ nhớ ngoài
Tổ chức logic của đĩa mềm
Để quản lý các thông tin trên đĩa mềm người ta tổ chức
cấu trúc logic của nó như sau:
Boot Sector: Là Sector đầu tiên của đĩa mềm chứa các
thông tin về đĩa mềm đó và các đoạn chương trình điều
khiển khởi động nếu đó là đĩa khởi động. Khi truy xuất
máy tính đọc các thông số này để xác định cấu trúc của
đĩa, từ đó xác định vị trí thông tin truy xuất. Nếu là đĩa
khởi động thì chương trình khởi động sẽ được thực hiện
để tìm ra các file khởi động trên đĩa.
Bộ nhớ ngoài
Tổ chức logic của đĩa mềm
Khi đọc dữ liệu từ một file, HĐH sẽ tìm đến Cluster đầu tiên để đọc
dữ liệu. Sau đó, đọc dần đến các Cluster tiếp theo cho đến Cluster
mang giá trị fff. Sau đây là đoạn trích của một đoạn FAT:
Các Cluster 003, 004, 005, 009: cùng một file và Cluster 009 là
Cluster kết thúc. Cluster 006 thuộc một file khác, Cluster 007, 008 là
các Cluster còn trống.
Như vậy, bảng FAT rất quan trọng đối với đĩa, nó quyết định việc truy
xuất thông tin trên đĩa và được sử dụng thường xuyên nên rất dễ bị lỗi.
Do đó, trên đĩa người ta phải lưu trữ dự phòng bảng FAT thành 2 bảng
là FAT1 và FAT2. Trong đó FAT1 được sử dụng và FAT2 dự trữ, khi
FAT1 bị lỗi ta có thể thay FAT1 bằng FAT2 để tiếp tục làm việc.
Bộ nhớ ngoài
Tổ chức logic của đĩa mềm
Bảng FAT (File Allocation Table) được giới thiệu lần đầu tiên vào năm
1977 với phiên bản FAT12. Sau đó là các phiên bản FAT16 và FAT32
Bản FAT là công cụ lưu giữ các thông tin liên quan đến Cluster trên đĩa.
Mỗi điểm vào của bảng FAT là ứng với một giá trị của tổ hợp (Head,
Track, Cluster). Toàn bộ bảng FAT là ánh xạ của toàn bộ các đơn vị trên
đĩa. Các điểm vào này được đánh địa chỉ tuần tự. Các điểm vào trên FAT
của các Cluster trống trên đĩa thì mang giá trị 000, các Cluster đã ghi dữ
liệu sẽ được đánh dấu bằng giá trị của Cluster tiếp theo trong chuỗi, nếu là
Cluster cuối cùng sẽ mang giá trị fff. Khi ghi một file, HĐH sẽ lần trên
bảng FAT tìm Cluster trống và ghi dữ liệu vào Cluster đó trên đĩa, đồng
thời gán giá trị cho Cluster đó chỉ đến địa chỉ của các Cluster tiếp theo
hoặc mang giá trị kết thúc fff. Trong giai đoạn này, HĐH cũng ghi địa chỉ
của Cluster đầu tiên của chuỗi vào bảng thư mục (Root Directory).
Đĩa mềm sử dụng FAT 12.
Bộ nhớ ngoài
Tổ chức logic của đĩa mềm
Root Directory: Là bảng chứa thông tin về thư mục, mỗi điểm vào của bảng là những
thông tin về các File hay Thư mục chứa trong thư mục gốc của đĩa. Những thông tin này
giúp cho việc đọc dữ liệu trên đĩa. Cấu trúc của bảng có thể được mô tả như sau:
Nếu là File thì mục Cluster đầu sẽ lưu giữ Cluster đầu tiên của File, được ghi vào khi File
được ghi và được sử dụng khi truy cập File. Nếu là thư mục con thì trỏ đến địa chỉ đầu
của bảng thư mục con có cấu trúc như bảng thư mục gốc trên.
Khi truy cập thư mục thì thông tin xuất hiện trên màn hình chính là thông tin chứa trong
bảng thư mục, do đó ta thấy dường như những thông tin này xuất hiện tức thời.
Bộ nhớ ngoài
Ổ đĩa cứng (HDD)
Dù rằng công nghệ mới không ngừng phát minh
nhiều loại bộ phận lưu trữ một lượng thông tin
lớn nhưng đĩa cứng vẫn giữ vị trí quan trọng.
Đĩa cứng có hai nhiệm vụ trong máy tính:
Lưu trữ dài hạn các tập tin.
Thiết lập một cấp bộ nhớ để làm bộ nhớ ảo
lúc chạy chương trình.
Ổ đĩa cứng lưu giữ thông tin dưới dạng nhị
phân trên bề mặt các tấm đĩa hình tròn phủ vật
liệu từ tính.
Ban đầu, ổ cứng được thiết kế để hoạt động trong máy tính điện tử. Với sự phát
triển nhanh chóng của công nghệ, ổ cứng ngày có kích thước càng nhỏ và dung
lượng càng lớn nên ngày nay đĩa cứng còn được sử dụng trong các thiết bị điện
tử khác như máy nghe nhạc kĩ thuật số, máy ảnh kĩ thuật số, máy quay phim kĩ
thuật số, đầu máy DVD, v.v.
Bộ nhớ ngoài
Cấu trúc đĩa cứng
Các thành phần quan
trọng của đĩa cứng:
Khung vỏ ổ đĩa
Tấm đĩa
Đầu từ (đầu đọc)
Bộ dịch chuyển đầu từ
Cần đọc
Mô tơ trục quay
Bản mạch
Bộ nhớ đệm
Bộ nhớ ngoài
Cấu trúc đĩa cứng
Bộ nhớ ngoài
Cấu trúc đĩa cứng
Khung vỏ đĩa cứng: Bộ khung cơ khí rất quan trọng đối với
hoạt động chính xác của ổ đĩa cứng, ảnh hưởng đến sự hợp nhất
về cấu trúc, về nhiệt và về điện của ổ đĩa. Khung cần phải cứng
và tạo nên một cái nền vững chắc để lắp ráp các bộ phận khác.
Các ổ đĩa cứng thường dùng khung nhôm đúc, nhưng các ổ cứng
loại nhỏ của máy tính xách tay thường dùng vo plastic. Vật liệu
vỏ cụ thể phụ thuộc vào yếu tố hình dạng (form factor) tức là
kích thước của ổ cứng. .
Đầu từ: được chế tạo giống như vi mạch dùng công nghệ quang
hóa. Do kích thước nhỏ và nhẹ nên độ rộng của rãnh ghi cũng
nhỏ hơn và thời gian dịch chuyển đầu tư nhanh hơn. Trong cấu
trúc tổng thể, các đầu đọc/ghi này được gắn vào các cánh tay kim
loại dài điều khiển bằng các môtơ. Ðầu từ ổ đĩa cứng có khả
năng đọc/ghi được các rãnh rất nhỏ (hơn 1000 rãnh trên một
đĩa).
Bộ nhớ ngoài
Cấu trúc đĩa cứng
Môtơ trục quay: Một trong những yếu tố xác định chất
lượng của ổ cứng là tốc độ mà đĩa từ lướt qua dưới đầu
đọc/ghi. Đĩa từ lướt qua đầu từ với tốc độ khá cao (ít nhất
là 3600 vòng/phút).
Môtơ trục (spindle môtơ) có chức năng làm quay các đĩa
từ. Khi môtơ được cấp điện, một từ trường được tạo ra
trong các cuốn dây môtơ. Khi điện cắt, năng lượng từ
trường lưu trữ trong các cuộn dây môtơ được giải phóng
dưới dạng xung điện thế ngược. Kỹ thuật Hãm động
(dynamic braking) sẽ sử dụng năng lượng của xung điện
thế ngược đó để làm dừng đĩa lại. Nếu tốc độ của ổ cứng
(rpm - revolutions per minute - số vòng trên phút) càng cao
thì tốc độ truy xuất dữ liệu sẽ càng nhanh.
Bộ nhớ ngoài
Cấu trúc đĩa cứng
Bản mạch đĩa cứng: ổ đĩa cứng được điều khiển bởi các mạch điện
tử tương đối phức tạp. Mạch điện tử được gắn dưới bộ khung và
chứa hoàn toàn các mạch cần thiết để truyền tải các tín hiệu điều
khiển và dữ liệu với bộ giao diện vật lý riêng, điều khiển đầu
đọc/ghi, thực hiện đọc/ghi theo yêu cầu và để quay các đĩa từ. Mỗi
một chức năng kể trên phải được thực hiện hoàn hảo với độ chiính
xác cao. Bo mạch điều khiển này bao gồm bộ chip controller, chip
input/output IO, bộ nhớ đệm cho ổ cứng (HDD cache), một ổ cắm
nguồn 5+ 5- 12- 12+, và chân cắm chuẩn IDE 39/40 chân.
Bộ dịch chuyển đầu từ: Thách thức lớn nhất trong việc điều khiển
đầu tư là giữ cho được nó đúng ngay tâm rãnh mong muốn. Nói
cách khác là các nhiễu loại khí động học, các hiệu ứng nhiệt trên đĩa
từ và các biến thiên của dòng điều khiển môtơ có thể gây nên sai số
trong việc điều định vị trí đầu từ. Vị trí của đầu từ phải luôn luôn
được kiểm tra và điều chỉnh kịp thời để đảm bảo vị trí rãnh thật
chính xác.
Bộ nhớ ngoài
Cấu trúc đĩa cứng
Bộ nhớ đệm: tuy các nhà sản xuất đang ngày càng một nâng cao tốc độ
của ổ cứng nhưng chắc chắn là tốc độ truy xuất dữ liệu của ổ cứng sẽ
không bao giờ có thể nhanh bằng RAM. Để giảm bớt phần nào khoảng
cách đó, các nhà sản xuất phần cứng và phần mềm đã tạo ra bộ đệm ổ
cứng (disk cache). Bộ đệm của ổ cứng sử dụng một phần của RAM để
lưu trữ những thông tin thường xuyên được các ứng dụng truy nhập.
Chính việc lưu trữ những thông tin này trên RAM, bộ đệm đã giúp tốc
độ truy xuất dữ liệu nhanh hơn và giúp kéo dài tuổi thọ của ổ cứng.
Nguyên tắc hoạt động của bộ đệm khá đơn giản: những dữ liệu thường
xuyên được truy nhập sẽ được lưu trữ trong RAM khi đó nếu có ứng
dụng yêu cầu truy cập những dữ liệu này thì những dữ liệu này sẽ được
lấy ra trực tiếp từ RAM chứ không cần ổ cứng phải làm những công
vịêc như: quay đĩa, xác định vị trí đầu đọc, tìm kiếm
Bộ nhớ đệm càng cao thì tốc độ truy xuất dữ liệu trên ổ cứng sẽ nhanh
hơn rất nhiều và vấn đề sai sót dữ liệu cũng rất thấp.
Có 4 kiểu bộ đệm ổ cứng chính.
Bộ nhớ ngoài
Cấu trúc đĩa cứng
Bộ đệm “mềm” (Software disk caches): sử dụng một
phần bộ nhớ chính của máy để truy xuất và lưu trữ tạm thời
một phần dữ liệu của ổ cứng. Loại bộ đệm này do một
chương trình tao và quản lý cho nên không cần đế những
phần cứng hỗ trợ đặc biệt. VCACHE chính là một ví dụ
thực tế về bộ đệm mềm.
Bộ đệm “cứng” (on-board disk caches): sử dụng bộ nhớ
và bộ điều khiển cache được thiết kế ngay trên board mạch
của ổ cứng. Mặc dù nó không hề sử dụng bất cứ một phần
RAM nào của bộ nhớ chính để làm công việc lưu trữ tạm
thời nhưng chúng có dung lượng rất thấp (128KB->2MB cá
biệt có thể lên đến 4MB) và cực kỳ đắt tiền.
Bộ nhớ ngoài
Cấu trúc đĩa cứng
Bộ đệm “riêng” (disk caching controllers): tương tự như bộ
đệm cứng, bộ đệm riêng sử dụng bộ nhớ riêng (có cấu trúc khác
RAM) nhưng bộ nhớ và bộ điều khiển mà bộ đệm này sử dụng là
bộ nhớ và chíp điều khiển được gắn riêng rẽ trên một card điều
khiển chứ không phải là trên board mạch của ổ cứng và lẽ dĩ
nhiên giá thành của chúng rất đắt. Tuy nhiên, bộ đệm riêng lại
hoạt động tốt và nhanh hơn rất nhiều so với bộ đệm cứng vì nó
vượt qua được một số giới hạn của những phần của ổ cứng mà
bộ đệm cứng luôn bị ảnh hưởng.
Buffers : Buffers gặp rất nhiều giới hạn trong các quá trình giao
tiếp và chuyển đổi dữ liệu bởi vì khả năng quản lý dữ liệu của nó
rất kém. Khi lưu trữ dữ liệu tạm thời, buffer lưu trữ một lúc cả
một track vì thế nếu muốn tìm một sector nào trên track này thì
hệ điều hành lại phải tiếp tục tìm kiếm trên track mà buffer cung
cấp - chậm hơn hẳn so với cache.
Bộ nhớ ngoài
Cấu trúc đĩa cứng
VCACHE : Windows có một driver ảo gọi là VCACHE có
nhiệm vụ quản trị bộ nhớ đệm cho ổ cứng. VCACHE chính là
một sự thay thế cho “bộ đệm mềm” của DOS và các version
Windows trước đó (thường được gọi là SmartDrive). VCACHE
có khả năng thay đổi rất nhanh dung lượng bộ nhớ mà nó sử
dụng, điều mà các trình quản lý bộ đệm trong DOS không thể
làm được. Khi đĩa cứng hoạt động liên tục (chép file hoặc đọc
file lớn) trong khi đó việc truy cập bộ nhớ lại thấp thì nó sẽ tự
động điều chỉnh kích thước bộ đệm (tăng lên) cho phù hợp để
RAM có thể chia sẻ bớt một phần công việc của đĩa cứng. Nguợc
lại, khi ổ cứng ít hoạt động (ít truy xuất dữ liệu) nhưng RAM lại
liên tục có lệnh truy xuất (khi chạy các ứng dụng tính toán cao
cấp) thì nó sẽ tự động điều chỉnh kích thước bộ đệm (giảm
xuống) để có được dung lượng RAM tối đa cho các ứng dụng
tính toán. Nó sử dụng quá trình “đọc trước – ghi từ cache xuống”
(read-ahead and write-behind caching).
Bộ nhớ ngoài
Cấu trúc đĩa cứng – Tấm đĩa
Tấm đĩa cứng được làm từ vật liệu nền cứng như nhôm, thủy tinh hay
gốm. Lớp vật liệu nền được phủ một lớp tiếp xúc bám (nickel) phía trên
lớp tiếp xúc bám là màng từ lưu trữ dữ liệu (Cobalt). Bề mặt trên cùng
được phủ một lớp chống ma sát (graphit hay saphia ). Do cấu tạo cơ
học bền, đĩa cứng có thể quay với tốc độ lớn (3600 vòng/phút hoặc lớn
hơn nữa).
Các ổ đĩa cứng hiện đại ngày nay có mật độ thông tin vào khoảng 100
đến 300 Mbit trong một inch vuông.
Hai yếu tố quan trọng quyết định đến mật độ lưu trữ cao là:
Cấu trúc hạt của vật liệu từ thật nhỏ,
Bề mặt đĩa thật phẳng để giữ khoảng cách giữa đầu đọc và mặt đĩa
tại giá trị tối thiểu.
Ðĩa từ sau khi phủ lớp phim nhạy từ và lớp bảo vệ được đánh bóng và
ghép vào trục động cơ. ổ đĩa có thể có một hay nhiều đĩa chồng lên
nhau. Trước khi định vị chồng đĩa, chồng đầu từ được ghép xen kẽ giữa
các đĩa.
Bộ nhớ ngoài
Cấu trúc đĩa cứng
Khác với đĩa mềm, do tốc độ quay nhanh, đầu đọc/ghi
không được tiếp xúc với bề mặt đĩa cứng. Ðầu đọc được
giữ cách xa mặt đĩa qua một lớp đệm không khí. Lớp đệm
không khí này được hình thành khi dĩa quay với tốc độ
cao.
Khoảng cách giữa đầu từ và mặt đĩa chỉ vào khoảng vài
micrômét, nhỏ hơn rất nhiều một hạt bụi khói trung bình. Vì
thế phía bên trong ổ đĩa cứng cần được giữ thật sạch.
Người sử dụng không được phép mở ổ đĩa trong môi
trường bình thường. Ðể sản xuất hoặc sửa chữa đĩa cứng
người ta cần đến môi trường siêu sạch như thường gặp
trong công nghiệp vi điện tử.
Bộ nhớ ngoài
Cấu trúc vật lý ổ cứng
Đĩa cứng rất giống đĩa mềm. Do đó, về cấu tạo và tổ chức của
nó cũng giống nhau gồm Head, Track, Sector, Cluster, FAT. Tuy
nhiên, chúng cũnng có thêm một số khác biệt như sau:
Do có cấu trúc nhiều
đĩa nên số đầu từ
của ổ đĩa cứng cũng
nhiều hơn và được
đánh số từ 0 cho lớp
trên cùng và tăng
dần xuống dưới.
Cũng vì lý do như
trên mà trong ổ đĩa
cứng còn có khái
niệm Cylinder là hình
trụ, tập hợp các
Track có cùng chỉ số.
Bộ nhớ ngoài
Cấu trúc logic ổ cứng
Do dung lượng đĩa cứng lớn nên để nguyên ổ đĩa như vậy sẽ gây khó
khăn cho việc tổ chức cũng như tìm kiếm thông tin trên đĩa. Để khắc
phục tình trạng trên, người ta cho phép chia ổ đĩa cứng thành nhiều
phần có kích thước nhỏ hơn.
Mỗi phần này hoạt động tương tự như một ổ đĩa cứng riêng biệt gọi là
Partition. Để quản lý các Partition này, người ta dùng bảng Master Boot
Record để lưu giữ các thông tin này, toàn bộ cấu trúc logic của đĩa cứng
như sau:
Bộ nhớ ngoài
Cấu trúc logic ổ cứng
Master Boot Record: là Sector đầu tiên của ổ đĩa cứng, nó
chứa các thông tin về các Partition như số thứ tự, tên ổ đĩa logic,
trạng thái, kích thước của Partition v.v... gọi là các điểm vào. Mỗi
Master Boot Record có thể quản lý 4 điểm vào, mỗi điểm vào có
kích thước 16 bytes, như vậy cần 64 bytes để lưu giữ các điểm vào
này gọi là bảng Partition. Không gian còn lại của Sector này được
lưu trữ chương trình Bootrap của đĩa khởi động.
Như trên, ta thấy mỗi Master Boot Record chỉ chứa 4 điểm vào, vậy
mỗi đĩa cứng chỉ phân tối đa thành 4 phần. Để khắc phục điều này,
người ta lấy Sector đầu tiên của Partition thứ 4 để quản lý các phần
chia tiếp theo như là một Master Boot Record thực thụ gọi là Master
Boot Record phụ, cứ như thế mà ta có thể chia đĩa cứng thành nhiều
phần khác nhau.
Master Boot Record được tạo ra bởi chương trình Fdisk của DOS,
do đo, ta có thể khôi phục lại nó bằng lệnh này khi nó bị hỏng với
tham số mbr, tức là lệnh Fdisk /mbr.
Bộ nhớ ngoài
Cấu trúc logic ổ cứng
Partition (Phân khu): Là phần được chia bởi ổ đĩa cứng, nó làm
việc như một ổ đĩa biệt lập và có cấu trúc giống hệt như ổ đĩa
mềm. Thông tin về Partition được lưu giữ trong bảng Partition
trên Master Boot Record. Đối với các hệ điều hành DOS và
Windows chỉ cho phép khởi động ở Partition đầu tiên. Ngoài ra,
còn có một số hệ điều hành cho phép khởi động từ các Partition
khác. Để phân đĩa cứng thành các Partition, ta dùng lệnh Fdisk
của DOS, theo dõi các trình đơn của tiện ích này để chia đĩa cứng
và tạo Partition khởi động.
Bộ nhớ ngoài
Hệ thống tập tin
Bảng FAT đĩa cứng: Về cơ bản, bảng FAT ổ cứng giống hệt như việc tổ
chức trên đĩa mềm, song chúng chỉ khác nhau về kích thước.
FAT12 được dùng cho ổ đĩa mềm, ổ đĩa có dung lượng từ 32MB trở
xuống. FAT12 sử dụng 12 bit để đếm nên chỉ có khả năng quản lý các ổ
đĩa có dung lượng thấp hơn 32Mb với số lượng cluster thấp. Đối với đĩa
mềm, do kích thước đĩa hạn chế nên chỉ cần dùng 12 bits để đánh địa chỉ
là đủ, thường được gọi là FAT 12.
FAT16 Với hệ điều hành MS-DOS, hệ thống tập tin FAT (FAT16 – để
phân biệt với FAT32) được công bố vào năm 1981 đưa ra một cách thức
mới về việc tổ chức và quản lý tập tin trên đĩa cứng, đĩa mềm. Tuy nhiên,
khi dung lượng đĩa cứng ngày càng tăng nhanh, FAT16 đã bộc lộ nhiều
hạn chế. Với không gian địa chỉ 16 bit, FAT16 chỉ hỗ trợ đến 65.536 liên
cung (cluster) trên một partition, gây ra sự lãng phí dung lượng đáng kể
(đến 50% dung lượng đối với những ổ đĩa cứng trên 2 GB).
Bộ nhớ ngoài
Hệ thống tập tin
FAT32: Được giới thiệu trong phiên bản Windows 95
Service Pack 2 (OSR 2), được xem là phiên bản mở rộng của
FAT16. Do sử dụng không gian địa chỉ 32 bit nên FAT32 hỗ
trợ nhiều cluster trên một partition hơn, do vậy không gian
đĩa cứng được tận dụng nhiều hơn. Ngoài ra với khả năng hỗ
trợ kích thước của phân vùng từ 2GB lên 2TB và chiều dài
tối đa của tên tập tin được mở rộng đến 255 ký tự đã làm cho
FAT16 nhanh chóng bị lãng quên. Tuy nhiên, nhược điểm
của FAT32 là tính bảo mật và khả năng chịu lỗi (Fault
Tolerance) không cao.
Tuy nhiên, với một ổ đĩa nhỏ mà ta dùng bảng FAT lớn sẽ
gây lãng phí không gian chứa bảng FAT và ảnh hưởng đến
tốc độ truy tìm.
Bộ nhớ ngoài
Hệ thống tập tin
NTFS (New Technology File System) là một hệ thống tập tin được Microsoft
giới thiệu vào tháng 7 năm 1993 cùng với hệ điều hành Windows NT version 3.1.
Các hệ điều hành Windows NT sau đó, Windows 2000, Windows XP và
Windows Server 2003 đều hổ trợ NTFS.
Hệ thống file NTFS có khả năng hoạt động cao và có chức năng tự sửa chữa.
Nhờ có tính năng lưu giữ lại các thông tin xử lý, NTFS có khả năng phục hồi file
cao hơn trong những trường hợp ổ đĩa có sự cố. Nó hỗ trợ chế độ bảo mật ở mức
độ file, nén và kiểm định. Nó cũng hỗ trợ các ổ đĩa lớn và các giải pháp lưu trữ
mạnh mẽ như RAID.
NTFS tăng cường khả năng lưu trữ, tính bảo mật cho tập tin và thư mục, khả
năng mã hóa dữ liệu đến từng tập tin. Ngoài ra, NTFS có khả năng chịu lỗi cao,
cho phép người dùng đóng một ứng dụng “chết” (not responding) mà không làm
ảnh hưởng đến những ứng dụng khác. Tuy nhiên, NTFS lại không thích hợp với
những ổ đĩa có dung lượng thấp (dưới 400 MB) và không sử dụng được trên đĩa
mềm.
NTFS hiện có các phiên bản: v1.0, v1.1, v1.2 ở các phiên bản Windows NT 3.51
và 4, v3.0 ở phiên bản Windows 2000, v3.1 ở các phiên bản Windows XP và
Windows Server 2003. Riêng Windows XP và Windows Server 2003 còn hỗ trợ
các phiên bản v4.0, v5.0, v5.1.
Bộ nhớ ngoài
Các thông số cần lưu ý
Bộ nhớ ngoài
Các thông số cần lưu ý
Dung lượng (đơn vị gigabyte - GB)
Tốc độ truy xuất trung bình (đơn vị mili giây - ms)
Tốc độ truy xuất trung bình thấp đồng nghĩa với khả
năng đáp ứng yêu cầu đọc ghi dữ liệu cao.
Độ lớn của bộ nhớ đệm (đơn vị megabyte - MB)
Độ lớn của bộ đệm có ảnh hưởng đáng kể tới hiệu suất
hoạt động của ổ cứng.
Số vòng quay một phút (đơn vị vòng/phút - rpm)
Tốc độ quay của tấm đĩa dữ liệu và mô tơ.
Kích thước (đơn vị inch - ")
Hầu hết các ổ đĩa cứng ngày nay có kích thước
3,5" đối với máy để bàn và 2,5" đối với máy xách
tay. Các ổ đĩa 2,5" thường chậm hơn và có dung
lượng thấp hơn đồng thời tiêu thụ ít điện năng hơn
và an toàn hơn khi di chuyển.
Bộ nhớ ngoài
Các chuẩn giao tiếp ổ cứng - IDE
IDE: khái niệm IDE (Integrated Device Electronics) được Western
Digital và Compaq đưa ra năm 1986. IDE không phải là chuẩn phần
cứng mà chỉ là một phần trong bộ đặc tả giao tiếp công nghiệp ATA
(AT Attachment) Việc tích hợp bộ điều khiển IDE lên ổ đĩa cứng được
xem là một bước tiến rất quan trọng vì tách biệt được chức năng điều
khiển ra khỏi chuẩn giao tiếp. Nhờ vậy, nhà sản xuất có thể độc lập
nghiên cứu nâng cao băng thông mà không làm thay đổi giao tiếp; đạt
được cả yếu tố thời gian và hiệu quả đầu tư.
IDE đáp ứng được hai yếu tố quan trọng là chi phí rẻ và tương thích
rộng. Đặc tả IDE được thiết kế hỗ trợ 2 ổ đĩa cứng gắn trong dung
lượng tối đa 528 MB/ổ đĩa (băng thông tối đa chỉ lên đến 2MBps hoặc
3MBps)
Năm1993, Western Digital đưa ra chuẩn EIDE (Enhanced IDE) để giải
quyết 'thắt cổ chai' ATA. EIDE hỗ trợ tốc độ truyền dữ liệu cao
16,6MBps và đĩa cứng dung lượng 137GB. Bốn thiết bị có thể gắn trên
một hệ thống EIDE và được chia thành hai kênh. Mỗi kênh hỗ trợ hai
thiết bị và phân biệt thứ bậc master/slave (chính/phụ).
Bộ nhớ ngoài
Các chuẩn giao tiếp ổ cứng - ATA
Chuẩn Parallel ATA (P-ATA) được phát triển từ giao tiếp IBM
Advanced Technology (AT), thực hiện nhiệm vụ định nghĩa tập
lệnh và thanh ghi để tạo nên ngôn ngữ giao tiếp giữa ổ đĩa lưu
trữ với PC.
ATA-2:có thể truyền với tốc độ 16,6MBps.
ATA-3 có thêm tính năng tự phân tích và báo cáo (Self-
Monitoring Analysis and Reporting Technology - SMART) giúp
tăng độ tin cậy của ổ đĩa cứng
ATA-4, kể cả Ultra ATA tăng gấp đôi băng thông dữ liệu
33,3MBps. còn bổ sung chế độ Ultra DMA mode 2 (33,3MBps).
ATA-4 được tích hợp vào đặc tả AT Attachment Program
Interface (ATAPI) chung cho cả ổ CD-ROM, ổ băng và thiết bị
lưu trữ di động. Ultra ATA còn nâng độ chính xác dữ liệu bằng
cách dùng mã phát hiện lỗi truyền dữ liệu Cyclical Redundancy
Checking (CRC).
Bộ nhớ ngoài
Các chuẩn giao tiếp ổ cứng - ATA
ATA-5, gồm cả Ultra ATA/66, tăng băng thông gấp đôi so với
Ultra ATA. Nhiễu điện từ bắt đầu xuất hiện rõ rệt nên tuyến cáp
40 dây trước đây dùng trong chuẩn ATA và Ultra ATA buộc
lòng phải thay thế. Tuyến cáp mới có đến 80 dây, trong đó dùng
40 dây làm vật dẫn tiếp đất. Tuy nhiên, đầu nối vẫn giữ nguyên
thiết kế 40 chân nên ổ đĩa Ultra ATA/66 hoàn toàn tương thích
với thiết bị Ultra ATA/33 và DMA, EIDE/IDE, ổ CD-ROM,...
Đặc tả ATA-5 giới thiệu mã phát hiện lỗi CRC mới và có thêm
chế độ Ultra DMA mode 3 (44,4MBps) và mode 4 (66,6MBps).
ATA-6, còn được gọi là Ultra DMA mode 5, cũng xuất hiện
không lâu sau. Tăng tốc độ truyền dữ liệu lên mức tối đa
100MBps. Mặc dù mọi người đều xem Ultra ATA/100 như
phiên bản cuối cùng của giao tiếp Parallel ATA trước khi chuyển
sang Serial ATA. Tuy nhiên, vào giữa năm 2001, chuẩn
ATA/133 (Ultra DMA 133) lại ra đời 'ngoài kế hoạch' và nâng
băng thông lên 133MBps.
Bộ nhớ ngoài
Các chuẩn giao tiếp ổ cứng - SATA
SATA (Serial Advanced Technology Attachment) Vào năm
1999, một số công ty gồm APT Technologies, Dell, IBM, Intel,
Maxtor, Quantum và Seagate Technologies quyết định hợp tác
thiết kế chuẩn giao tiếp Serial ATA cho ổ cứng và thiết bị ATA
Packet Interface (ATAPI) với mục tiêu thay thế Parallel ATA.
So với Parallel ATA, Serial ATA dùng điện áp thấp, đầu chân
cắm nhỏ gọn và ít dây hơn. Đặc biệt, Serial ATA tương thích
hoàn toàn với phần mềm trước đây dành cho thiết bị Parallel
ATA và ATAPI.
Thế hệ sản phẩm Serial ATA đầu tiên xuất hiện trên thị trường
vào giữa 2002, đạt tốc độ 150MBps. Các phiên bản kế tiếp có thể
đạt băng thông 300MBps và 600MBps.
Bộ nhớ ngoài
Một số chuẩn giao tiếp ổ cứng
So sánh giữa PATA và SATA
Parallel ATA Serial ATA
Băng thông 100/133
MB/Secs
150/300/600
MB/Secs
Volts 5V /12V 250mV
Số chân 40 7
Chiều dài
cáp tối đa
18 inch
(45.72cm)
1 meter
(100cm)
Cable Rộng bản Mỏng
Tính thông
thoáng
Cáp rộng bản
nên chiếm diện
tích
Gọn gàng
Bộ nhớ ngoài
Các chuẩn giao tiếp ổ cứng
SCSI: Có thể kết nối 8 thiết bị lưu giữ phụ như đĩa cứng và
đĩa CD-ROM có thể kết nối liên tiếp thiết bị này sau thiết bị
khác. Điều này được gọi là chuỗi cánh hoa. Một IDC số
hiệu để phân biệt các thiết bị khác nhau được gán cho một
thiết bị được kết nối và một điện trở được gọi là đầu cuối,
chỉ ra rằng thiết bị đầu cuối được nối.
Luồng dữ liệu theo 2 chiều
Lớn nhất có thể có 8 thiết bị
Thiết bị đầu cuối
Đĩa cứng CD-ROM MO
Bộ nhớ ngoài
Các chuẩn giao tiếp ổ cứng
SCSI
Băng thông 20/40/80
MB/Secs
Số chân 50/63
Cable Rộng bản
Peer-to-Peer (nối
ngang hàng)
8/16 thiết bị
Ổ cứng chuẩn SCSI
Bộ nhớ ngoài
Công nghệ RAID
Một phương pháp giúp tăng cường độ an toàn của thông tin trên đĩa từ
là dùng một mảng đĩa từ. Mảng đĩa từ này được gọi là Hệ thống đĩa dự
phòng (RAID - Redundant Array of Independent Disks). Cách lưu trữ
dư thông tin làm tăng giá tiền và sự an toàn (ngoại trừ RAID 0)
Cơ chế RAID có các đặc tính sau:
RAID là một tập hợp các ổ đĩa cứng (vật lý) được thiết lập theo một
kỹ thuật mà hệ điều hành chỉ “nhìn thấy” chỉ là một ổ đĩa (logic) duy
nhất.
Với cơ chế đọc/ghi thông tin diễn ra trên nhiều đĩa (ghi đan chéo
hay soi gương).
Trong mảng đĩa có lưu các thông tin kiểm tra lỗi dữ liệu; do đó, dữ
liệu có thể được phục hồi nếu có một đĩa trong mảng đĩa bị hư hỏng.
Bộ nhớ ngoài
Các công nghệ RAID
RAID 0: một dữ liệu được phân bố đều trên nhiều đĩa, đặc tính này
giúp tăng tốc độ lưu trữ lên rất cao.
RAID 1: những nội dung giống nhau được ghi trong 2 đĩa cứng với
dung lượng như nhau. Một trong 2 đĩa thao tác liên tục và đĩa kia
được sử dụng như bản sao lưu.
RAID 5: Đây có lẽ là dạng RAID mạnh mẽ nhất, với 3 hoặc 5 đĩa
cứng riêng biệt. Dữ liệu và bản sao lưu được chia lên tất cả các ổ
cứng
RAID 0 +1: Hệ thống RAID kết hợp 0+1 tổng hợp ưu điểm của cả
hai “đàn anh”. Tuy nhiên chi phí cho một hệ thống kiểu này khá đắt,
cần tối thiểu 4 đĩa cứng để chạy RAID 0+1. Dữ liệu sẽ được ghi
đồng thời lên 4 đĩa cứng với 2 ổ dạng Striping tăng tốc và 2 ổ dạng
Mirroring sao lưu. 4 ổ đĩa này phải giống hệt nhau và khi đưa vào
hệ thống RAID 0+1, dung lượng cuối cùng sẽ bằng ½ tổng dung
lượng 4 ổ, ví dụ bạn chạy 4 ổ 80GB thì lượng dữ liệu “thấy được”
là (4*80)/2 = 160GB.
Bộ nhớ ngoài
Sử dụng Rai
Thực ra, kỹ thuật này không nằm trong số các kỹ thuật có cơ chế an toàn dữ
liệu. Khi mảng được thiết lập theo RAID 0, ổ đĩa logic có được có dung dượng
bằng tổng dung lượng của các ổ đĩa thành viên. Dữ liệu được ghi phân tán trên
tất cả các đĩa trong mảng.
Tuy nhiên, như đã nói ở trên, kỹ thuật này không có cơ chế an toàn dữ liệu,
nên khi có bất kỳ một hư hỏng nào trên một đĩa thành viên trong mảng cũng sẽ
dẫn đến việc mất dữ liệu toàn bộ trong mảng đĩa. Xác suất hư hỏng đĩa tỉ lệ
thuận với số lượng đĩa được thiết lập trong RAID 0. RIAD 0 có thể được thiết
lập bằng phần cứng (RAID controller) hay phần mềm (Stripped Applications).
Bộ nhớ ngoài
Cáp kết nối ổ cứng
Bộ nhớ ngoài
Kết nối nhiều ổ đĩa
Bộ nhớ ngoài
Kết nối nhiều ổ đĩa
Các loại đĩa IDE giao tiếp với hệ thống thông qua Bus cắm vào hai
khe cắm IDE1 và IDE2 trên Mainboard. Mỗi khe cắm cho dùng
chung hai thiết bị làm việc theo chế độ khách chủ. Như vậy, trên
toàn bộ máy tính sử dụng ổ đĩa IDE có thể sử dụng 4 ổ đĩa như sau:
Primary Master.
Primary Slave
Secondary Master.
Secondary Slave.
Để thiết lập chế độ Master, Slave cho ổ đĩa cứng ta cắm lại Jump
thiết lập, thường được chỉ dẫn trực tiếp trên đĩa cứng hoặc
Catalogue đi cùng. Tuy nhiên, một số loại đĩa cứng tự động nhận
Master khi cắm cùng với các ổ đĩa khác.
Đối với loại đĩa giao diện SCSI thì cần phải có Card giao diện SCSI
để điều khiển đĩa này. Card này được cắm vào bus PCI hay ISA của
Mainboard. Cácloại đĩa này cho phép sử dụng tối đa 7 thiết bị.
Bộ nhớ ngoài
Set Jum ổ cứng
Bộ nhớ ngoài
Set Jum ổ cứng
Các chế độ chạy của ổ
cứng:
Master or Single Driver
Slave
Cable select
Dùng jum để set cho ổ cứng
chạy ở chế độ ta mong
muốn.
Bộ nhớ ngoài
định dạng đĩa từ
Để đĩa từ có thể làm việc được ta cần phải định dạng
(format) nó để tạo ra cấu trúc logic.
Đĩa mềm:
Trong DOS, ta dùng lệnh “Format a:”. Nếu muốn đĩa này thành
đĩa khởi động ta thêm thông số /s vào lệnh Format như sau Format
a: /s để HĐH copy các file hệ thống vào đĩa giúp nó trở thành đĩa
khởi động.
Đĩa cứng: Toàn bộ quá trình định dạng có thể chia thành các bước
như sau:
Định dạng cấp thấp
Phân chia đĩa
Định dạng cấp cao
Bộ nhớ ngoài
Định dạng cấp thấp (Low Level Format)
Đối với một ổ cứng mới ta phải LLF, Fdisk & Format thì mới sử
dụng được. Sở dĩ khi ta mua một HDD mới về chỉ cần Fdisk,
format là sử dụng được không cần phải LLF là do nhà sản xuất
đã LLF trước khi đưa HDD ra thị trường. LFF làm nhiều chuyện
như chia track, tạo Track Number, chia Sector, tạo byte CRC
(Cyclic Redundancy Check) Giữa hai sector kế tiếp nhau trên
cùng một Track LLF sẽ chừa lại một khoảng trống gọi là Gap,
khoảng trống nàydùng để dự phòng trường hợp đầu từ bị lệch, no
vẫn có thể đọc được Sector tiếp theo hoặc dự phòng trong trường
hợp Bad Sector.
Để định dạng cấp thấp ta nên dùng các chương trình Disk
Manager riêng của từng nhãn hiệu.
Low level format trước đây hay dùng cho đĩa cứng cũ nhưng với
đĩa cứng mới sau này, thường thay tên khác là Zero-fill
Bộ nhớ ngoài
Định dạng cấp thấp
Không Fdisk được HDD: trường hợp này bắt buộc dùng LLF, đơn giản không Fdisk thì
không Format được dĩ nhiên là sẽ không dùng được. Không Fdisk được: chạy Fdisk báo
“No fixed disk present” hoặc khi vào Fdisk được nhưng thao tác tiếp theo thì treo máy.
Không format được HDD: như trường hợp trên máy sẽ báo “Bad Track 0 - Disk
Unsable”
Các trường hợp sau vẫn có thể không dùng LFF hoặc tùy bạn quyết định. Nhưng hãy nhớ
Đừng quá lạm dụng
Khi đang format thì máy báo Trying to recover allocation uint xxxx. Lúc này máy
báo cho ta biết Cluster xxxx bị hư và nó đang cố gắng phục hồi lại cluster đó, nhưng
thông thường cái ta nhận được là 1 Bad Sector.
Khi chạy Scandisk hay NDD (Norton Disk Doctor) hay bất kỳ phần mềm kiểm tra bề
mặt đĩa (Surface Scan) nào ta sẽ gặp rất nhiều Bad Sector.
Đang chạy bất kỳ ứng dụng nào nhận được 1 câu thông báo như “Error reading data
on driver C:, Retry, Abort, Ignore, Fail?” hoặc “Sector not found on driver C:,
Retry, Abort, Ignore, Fail?”“A serious error occur when reading driver C:,
Retry or Abort?”
Bộ nhớ ngoài
Phân chia đĩa cứng
Phân chia đĩa: Phân chia đĩa cứng thành nhiều thành
phân vùng (Partition) để tạo các ổ đĩa logic như đã
trình bày ở trên. Chức năng này do chương trình Fdisk
của hệ điều hành đảm nhiệm, chương trình tạo ra các
Partition, xác định Partition cho phép khởi động và tạo
ra Master Boot Record chứa bảng các thông số về
Partition. Ngoài ra, chương trình cũng cho phép xem,
sửa và xóa các Partition đã có.
Để chia đĩa ta dùng các chương trình: fdisk (chạy trên
môi trường DOS), Patition Magic (chạy trên môi
trường DOS hoặc Windows)
Bộ nhớ ngoài
Định dạng đĩa cứng
Định dạng cấp cao: Đây là phần xác định các thông số
logic, cấu hình các Partition đã được chia để nó làm việc
như một ổ đĩa thực thụ. Phần này do chương trình
Format của hệ điều hành đảm nhiệm, nhằm tạo ra Boot
Sector, FAT, Root Directory v.v...
Khi muốn tạo ra đĩa khởi động ta dùng lệnh sau đối với
các Partition đã được thiết kế khởi động trong phần phân
đĩa ở trên:
Format Tên ổ đĩa logic : / s.
Đối với các Partition không cần khởi động ta dùng lệnh sau để tạo một ổ
đĩa lưu dữ liệu bình thường: Format Tên ổ đĩa logic. Kết thúc các quá
trình này ta đã kết thúc quá trình định dạng đĩa cứng và có thể sử dụng
bình thường.
Phần cứng máy tính
Bộ nhớ ảo
Trước đây, khi độ dài của chương trình vượt quá giới hạn dung
lượng bộ nhớ thì người lập trình phải phân chia chương trình của
mình thành từng phần tự loại bỏ nhau (overlays) và phải tự quản lý
việc trao đổi thông tin giữa bộ nhớ và đĩa từ. Bộ nhớ ảo làm nhẹ
trách nhiệm của các nhà lập trình bằng cách làm cho việc trao đổi
thông tin này được thực hiện một cách tự động.
Trong các bộ xử lý hiện đại, bộ nhớ ảo được dùng để cho phép thực
hiện cùng lúc nhiều tiến trình (process), mỗi tiến trình có một không
gian định vị riêng. Nếu tất cả các không gian định vị này đều thuộc
không gian định vị bộ nhớ trong thì rất tốn kém. Bộ nhớ ảo bao gồm
bộ nhớ trong và bộ nhớ ngoài được phân tích thành khối để có thể
cung cấp cho mỗi chương trình một số khối cần thiết cho việc thực
hiện chương trình đó.
Phần cứng máy tính
Bộ nhớ ảo
Ta thấy một
chương trình chứa
trong bộ nhớ ảo
gồm 4 khối:
3 trong 4 khối nằm
ở bộ nhớ trong, khối
thứ tư nằm trên đĩa
cứng (Trang D)
Bộ nhớ ngoài
Đĩa quang
Ra đời vào năm 1978,
đây là sản phẩm của
sự hợp tác nghiên cứu
giữa hai công ty Sony
và Philips trong công
nghiệp giải trí.
Từ năm 1980 đến nay,
công nghiệp đĩa
quang phát triển
mạnh trong cả hai
lĩnh vực giải trí và
lưu trữ dữ liệu máy
tính.
Bộ nhớ ngoài
Đĩa quang
Tương tự như đĩa từ, đĩa quang là môi trường lưu trữ dữ liệu ngay
cả khi mất nguồn điện. Ðiểm khác nhau giữa đĩa quang và dĩa từ
nằm ở phương pháp lưu trữ vật lý. Thông tin dược lưu trữ trên đĩa
quang dưới dạng thay đổi tính chất quang trên bề mặt đĩa. Tính chất
này được phát hiện qua chất lượng phản xạ một tia sáng của bề mặt
đĩa. Tia sáng này thường là một tia LASER với bước sóng cố định
(790nm đến 850nm). Bề mặt đĩa được thay đổi khi ghi để có thể
phản xạ tia laser tốt hoặc kém. Tia laser được hội tụ vào một điểm
rất nhỏ trên mặt đĩa, vì thế đĩa quang có dung tích lưu trữ lớn hơn
nhiều lần so với đĩa từ.
Hai nhược điểm chính của đĩa quang là:
Chỉ ghi dược một lần (nay đã dược khắc phục với đĩa CD-WR),
Tốc độ đọc chậm hơn đĩa từ.
Bộ nhớ ngoài
Tổ chức dữ liệu trên bề mặt đĩa
Trên CD được khắc các lỗ sâu 0,12 micron và rộng 0,6 micron. Các
lỗ này được bố trí theo một track hình xoắn ốc với khoảng cách
1,6 micron giữa các vòng, khoảng 16.000 track/inch. Các lỗ (pit)
và nền (land) kéo dài khoản 0,9 đến 3,3 micron. Track bắt đầu từ
phía trong và kết thúc ở phía ngoài theo một đường khép kín các
rìa đĩa 5mm.
Dữ liệu lưu trên CD thành từng khối, mỗi khối chứa 2.352 byte.
Trong đó, 304 byte chứa các thông tin về bit đồng bộ, bit nhận
dạng (ID), mã sửa lỗi (ECC), mã phát hiện lỗi (EDC). Còn lại 2.048
byte chứa dữ liệu. Tốc độ đọc chuẩn của CD-ROM là 75 khối/s hay
153.600 byte/s hay 150KB/s (1X).
Bộ nhớ ngoài
Cách thức truy cập dữ liệu trên đĩa quang
Quá trình đọc thông tin dựa
trên sự phản chiếu của các tia
laser năng lượng thấp từ lớp
lưu trữ dữ liệu. Bộ phận tiếp
nhận ánh sáng sẽ nhận biết
được những điểm mà tại đó tia
laser bị phản xạ mạnh hay biến
mất do các vết khắc (pit) trên
bề mặt đĩa. Các tia phản xạ
mạnh chỉ ra rằng tại điểm đó
không có lỗ khắc và điểm này
được gọi là điểm nền (land).
Bộ nhận ánh sáng trong ổ đĩa
thu nhận các tia phản xạ và
khuếch tán được khúc xạ từ bề
mặt đĩa. Khi các nguồn sáng
được thu nhận, bộ vi xử lý sẽ
dịch các mẫu sáng thành các
bit dữ liệu hay âm thanh.
Bộ nhớ ngoài
Đĩa quang
Ðiểm khác nhau giữa đĩa quang và đĩa từ là đĩa quang cần
kiểm tra và sửa lỗi nhiều hơn. Thông tin rất dễ bị nhiễu chẳng
hạn khi một hạt bụi nằm giữa nguồn laser và nơi cần đọc trên
đĩa. Vì thế đĩa quang cần nhiều thông tin CRC hơn đĩa từ. Lỗi
đọc phải được phát hiện và sửa lại dùng mã CRC đi kèm theo
dữ liệu
tốc độ quay của đĩa vào khoảng 200 đến 500 vòng/phút đối
với CD-ROM và 350 đến 500 vòng/phút đối với DVD tùy
thuộc vào vị trí mắt đọc trên đĩa. Khi mắt đọc các track gần
tâm đĩa thì vận tốc quay của đĩa càng cao.
Bộ nhớ ngoài
Bộ nhớ Flash
Hiện nay, thẻ nhớ là một
trong những công nghệ
mới nhất được dùng làm
thiết bị lưu trữ.
Tốc độ, yêu cầu về dòng
điện cung cấp thấp và đặc
biệt với kích thước nhỏ gọn
của các loại thẻ nhớ làm
cho kiểu bộ nhớ này được
dùng rộng rãi trong công
nghệ lưu trữ và giải trí
hiện nay.
Bộ nhớ ngoài
Bộ nhớ Flash
Thẻ nhớ flash là một dạng bộ nhớ bán dẫn EEPROM(công nghệ
dùng để chế tạo các chip BIOS trên các vỉ mạch chính), được cấu
tạo bởi các hàng và các cột. Mỗi vị trí giao nhau là một ô nhớ gồm
có hai transistor, hai transistor này cách nhau bởi một lớp ô-xít
mỏng. Một transistor được gọi là floating gate và transistor còn lại
được gọi là control gate. Floating gate chỉ có thể nối kết với hàng
(word line) thông qua control gate. Khi đường kết nối được thiết
lập, bit có giá trị 1. Để chuyển sang giá trị 0 theo một qui trình có
tên Fowler-Nordheim tunneling.
Phần cứng máy tính
Mainboard
Mainboard: (Còn gọi là motherboard)
là một bản mạch đóng vai trò là trung
gian giao tiếp giữa CPU và các thiết bị
khác của máy tính.
Bản mạch chính chứa đựng những linh
kiện điện tử và những chi tiết quan trọng
nhất của một máy vi tính cá nhân như:
bộ vi xử lý CPU (central processing
unit), hệ thống bus và các vi mạch hỗ
trợ. Bản mạch chính là nơi lưu trữ các
đường nối giữa các vi mạch, đặc biệt là
hệ thống bus. Vì vậy, bản mạch chính
cần thoả mãn nhiều điều kiện về cấu trúc
và đặc tính điện khắt khe như: gọn, nhỏ
và ổn định với nhiễu từ bên ngoài.
Mainboard
Các thành phần chính của Mainboard
Các thành phần chính:
Khe cắm CPU: socket, slot
Chipset & hệ thống BUS
Khe cắm RAM
Các khe cắm mở rộng: dùng đề cắm các bộ điều hợp (Card màn hình,
âm thanh). Gồm các chuẩn: ISA, PCI, AGP, PCI Express
Giao tiếp vào ra (I/O): Cổng chuột – bàn phím, cổng COM, cổng máy
in
Khe cắm IDE - Khe cắm Floppy
Khe cắm điện cho mainboard
Các ROM chứa các chương trình hỗ trợ khởi động và kiểm tra thiết bị.
Pin và CMOS lưu trữ các thông số thiết lập cấu hình máy tính gồm cả
RTC (Real Time Clock - đồng hồ thời gian thực). Các Jump thiết lập
các chế độ. Trong một số mainboard mới, các Jump này được thiết lập
tự động bằng phần mềm.
Mainboard
Các thành phần chính của Mainboard
Các thành phần chính:
1. Socket
2. Chipset - North Bridge
3. DIMM Slot
4. Power connector
5. FDD
6. IDE
7. Battery
8. Chipset - South Bridge
9. Serial ATA Interface
10.Front Panel connector
11.ROM BIOS
12.AGP Slot
13.USB
14.PCI Slot
15.Port (Back Panel)
16.Power connector (For Pentium4)
Mainboard
Kiến trúc của Chipset
Để chọn được bo
mạch chủ (BMC)
xử lý nhanh, hoạt
động ổn định thì
yếu tố quan tâm
hàng đầu phải là
chipset - đây là
trung tâm đầu não
quản lý mọi hoạt
động của BMC, từ
việc giao tiếp CPU,
bộ nhớ, đồ họa đến
các thiết bị ngoại vi
(chuột, bàn phím,
âm thanh, mạng,
modem, printer...).
Mainboard
Kiến trúc của Chipset
Thông thường, chipset gồm 2 thành phần: chipset cầu bắc
(North Bridge Chipset) và chipset cầu nam (South Bridge
Chipset). Nhiệm vụ của hai chipset này được quy định rõ ràng
và hiếm khi thay đổi. Năm 1997, giao tiếp AGP được giới thiệu
và chipset cầu bắc có thêm nhiệm vụ kết nối với card đồ họa.
Chipset cầu bắc sẽ quản lý việc giao tiếp dữ liệu với CPU,
RAM và card đồ họa, vì vậy nó rất quan trọng, khả năng xử
lý của BMC phụ thuộc chipset này rất nhiều.
Chipset cầu nam quản lý các thiết bị ngoại vi, thông tin từ
ngoài vào chipset cầu nam được đưa lên cầu bắc để xử lý và
trả kết quả về. Tuy nhiên cũng có một số ngoại lệ như
chipset Intel 875P lại đưa giao tiếp mạng gigabit lên chip cầu
bắc để tránh nghẽn đường truyền từ chip cầu nam lên cầu
bắc.
Mainboard
Hệ thống Bus
BUS: Là hệ giao thông huyết mạch của cả hệ thống máy tính, bus
liên tục được nâng cấp, mở rộng để bắt kịp nhu cầu ứng dụng thực
tiễn. Hệ thống máy tính ngày nay vẫn được cấu thành từ 3 bộ phận
cơ bản là bộ xử lý, bộ nhớ và thiết bị ngoại vi; không thay đổi nhiều
so với kiến trúc máy tính đầu tiên do IBM thiết kế. Để chuyển tải
dữ liệu giữa các bộ phận, nhiều tuyến mạch kết nối đã được lập ra.
Do có chức năng tương đồng với tuyến xe buýt (bus) trong cuộc
sống mà tuyến mạch kết nối này cũng được đặt tên là bus.
Hệ thống máy tính hiện đại xây dựng và phát triển dựa trên hai hệ
thống bus chủ đạo:
System Bus - nối kết từ bộ xử lý đến bộ nhớ chính, cache level 2
I/O Bus (bus ngoại vi) - nối kết thiết bị ngoại vi với bộ xử lý thông
qua cầu chipset.
Mainboard
Hệ thống Bus
Trong kiến trúc Dual Independent Bus (DIB - hai tuyến bus độc lập).
Bus hệ thống: dùng chung được tách thành Frontside Bus và Backside
Bus.
FSB là nhịp cầu quan trọng nối bộ xử lý với bộ nhớ chính và tuyến bus
ngoại vi. Đôi lúc, thuật ngữ FSB và system bus được xem là một.
BSB chỉ tập trung chuyển tải dữ liệu giữa bộ xử lý với bộ đệm thứ cấp.
Tách bus hệ thống thành 2 kênh độc lập góp phần tăng hiệu năng xử lý
nhờ cho phép bộ xử lý truy xuất đồng thời trên cả hai kênh giao tiếp
quan trọng.
Bus ngoại vi: có nhiều dạng khác nhau và dần dần chuyên biệt hóa
theo yêu cầu của ứng dụng. ISA Bus thuộc loại lâu đời nhất và đã bị
thay thế hoàn toàn từ giữa năm 2000. PCI Bus được giới thiệu lần đầu
trong hệ thống Pentium vào năm 1993. AGP là chuẩn bus được thiết kế
để đáp ứng yêu cầu băng thông của xử lý đồ họa. PCI Express mới nhất
có khá nhiều ưu điểm, đặc biệt là không gây xáo trộn lớn lên kiến trúc
PCI hiện tại.
Mainboard
Hệ thống Bus - ISA
ISA: Lần xuất hiện đầu tiên trên
máy tính, bus ISA được thiết kế ở
dạng 8bit, sử dụng tần số 4,77MHz
(bằng với xung bộ xử lý). Sau
nhiều năm cải tiến, chuẩn được
chính thức công nhận và mang tên
Industry Standard Architecture
(ISA) vào năm 1982. Trong hệ
thống IBM PC/AT 80286, bus ISA
được nâng lên 16bit. Vào lúc này,
tốc độ bus hệ thống mới chỉ đạt
6MHz; sau đó không lâu thì đạt
8MHz.
Mainboard
Hệ thống Bus - ISA
Bus ISA dùng giao tiếp 16bit, xung 8MHz (mức xung chuẩn của
bộ xử lý) và đạt tốc độ truyền dữ liệu trên lý thuyết là 16MBps.
Tuy nhiên, tốc độ thực tế bị giảm đi một nửa (còn 8MBps) vì cần
dành 1 đường bus cho địa chỉ và một đường bus khác cho dữ liệu
16bit.
Thiết bị dùng khe mở rộng ISA phát triển cho đến cuối thập niên
1990 bởi vì khả năng đáp ứng của thiết bị ngoại vi lúc này mới
chỉ ở mức 5MBps.
Nhưng khi bộ xử lý trở nên nhanh hơn và cần băng thông dữ liệu
lớn hơn thì chuẩn ISA không đáp ứng nổi. Cuối thập niên 90,
hầu hết card ISA còn lại đều chỉ mang tính đại diện cho công
nghệ 8bit. Cái chết của ISA đã được chính thức văn bản hóa
trong tài liệu PC99 System Design Guide do Intel và Microsoft
biên soạn vào năm 1999.
Mainboard
Hệ thống Bus - PCI
PCI (Peripheral Component Interconnect) nguyên thủy dùng xung
33MHz, sau đó nâng lên 66MHz (phiên bản PCI 2.1) để nhân đôi băng
thông lý thuyết (đạt 266MBps); nhanh gấp 33 lần bus ISA. PCI còn cho
phép thiết lập chuyển đổi bus 32bit hoặc 64bit linh hoạt nên chấp nhận
cả card 32bit lẫn 64bit. Việc hiện thực 64bit lên bus tốc độ 66MHz vào
năm 99 đã nâng băng thông lý thuyết lên 524MBps. Độ trễ của bus PCI
thấp hơn nên tốc độ hệ thống cũng được nâng lên. Từ giữa năm 1995,
những thiết bị cần tốc độ chính yếu của máy tính đều chuyển sang sử
dụng bus PCI. Phổ biến nhất chính là card điều khiển đĩa cứng và đồ
họa; cả lúc tích hợp trên bo mạch chủ lẫn khi cắm trên khe mở rộng.
PCI chỉ cho phép thiết kế tối đa 5 cổng nối mở rộng nhưng lại cho phép
thay thế mỗi cổng bằng hai thiết bị tích hợp. Kiến trúc này còn cho
phép bộ xử lý hỗ trợ thêm một mạch cầu nữa.
Không chỉ có đặc tả chặt chẽ, chuẩn còn cung cấp được hai mức điện
áp khác nhau: 5V và 3,3V. Vì thế, khe cắm được thiết kế thêm một số
chân khóa (chân được đúc kín) để tránh trường hợp card 3,3V bị cắm
nhầm sang khe 5V và ngược lại.
Mainboard
Hệ thống Bus – Các loại khe cắm PCI
Mainboard
Hệ thống Bus – AGP
AGP (Accelerated Graphic Port): Chipset AGP hoạt
động như một cầu trung gian giữa bộ xử lý và bộ đệm cấp
2. Trong kiến trúc Single Edge Contact Cartridge của
Pentium II, chipset AGP được gọi là bộ tăng tốc Quad Port
(4 cổng) vì nằm giữa ngã tư nối đến bộ xử lý, bộ nhớ
chính, I/O và cổng AGP.
Ban đầu hoạt động cùng tần số 66MHz với bus bộ xử lý
(FSB), gấp đôi tần số PCI và đạt băng thông tối đa là
264MBps. Để hỗ trợ xử lý đồ họa, trong phiên bản AGP
2X, dữ liệu được truyền tại cả cạnh lên và xuống trong một
xung nên tần số lên đến 133MHz (gấp đôi xung đồng bộ)
và đạt băng thông 528MBps.
Băng thông của AGP còn được nâng lên gấp bốn (AGP
4X), gấp tám (AGP 8X) xung hệ thống nhằm tăng tốc độ
truyền dữ liệu đồ họa và tạo cơ hội triển khai ứng dụng đồ
họa cao cấp, nâng cao chất lượng hình ảnh mà không sợ
ảnh hưởng đến tốc độ hiển thị.
Mainboard
Hệ thống Bus – Các loại khe AGP
Đặc tả AGP hiện có ba
phiên bản:
1.0 (AGP 1X, 2X)
2.0 (AGP 1X, 2X, 4X)
3.0 (AGP 4X, 8X)
1X (266MB/s)
2X (533MB/s)
4X (1,07GB/s)
8X (2,1GB/s).
Universal
AGP slot
AGP 2x
slot (3.3v)
AGP 4x/ 8x
slot (1.5v)
Mainboard
Hệ thống Bus – Nhận biết các loại khe AGP
Mainboard
Hệ thống Bus – PCI Express
PCI Express dùng liên kết nối tiếp.
Bus nối tiếp có băng thông/kênh rộng
hơn kiến trúc bus song song và dễ mở
rộng lên băng thông lớn hơn. Chuẩn
cho phép thiết lập mạng theo giao tiếp
điểm-điểm giữa các thiết bị, thay thế
cho kiểu một-nhiều của kiến trúc song
song nên không cần bộ điều khiển bus
(tác nhân làm chậm và ngăn cản khả
năng thay thế nóng).
Kiến trúc PCI Express còn giúp thu nhỏ
50% diện tích bo mạch chủ. Một phiên
bản khác của PCI Express cũng đang
được phát triển để thay thế cho tuyến
cầu nam trong chipset.
Một kết nối điểm-điểm theo kiến trúc
PCI Express Architecture với 32 đường
dữ liệu có khả năng cung cấp băng
thông 16GBps.
Phần cứng máy tính
Mainboard – Hệ thống Bus
Phần cứng máy tính
Mainboard – Giao tiếp input/output
Cổng serial đạt băng thông tối đa 115,2 Kbps
Cổng parallel đạt khoảng 500 Kbps (tùy dạng).
Hầu hết PC đều có hai cổng COM và một cổng parallel. Có thế tăng số
lượng cổng COM và parallel nhưng hệ thống phải chấp nhận hy sinh
IRQ.
USB 1.1 đạt tốc độ 12 Mbps
USB 2.0: Hi-Speed đạt băng thông 480 Mbps; 12 Mbps và 1,5 Mbps.
Firewire - IEEE 1394: hỗ
trợ tốc độ truyền dữ liệu
là 12,5, 25, 50 Mbps, còn
tốc độ giao tiếp cáp đạt
100, 200, 400 Mbps.
Cổng nối cáp IEEE 1394
có sẵn đường dẫn điện
bên trong nhưng được
thiết kế an toàn, không
gây giật.
Phần cứng máy tính
Bộ nguồn (PSU)
Nguồn điện máy tính có chức năng chuyển đổi nguồn điện 110V/220V thành
nguồn điện một chiều±3, 3V,±5V và±12V cung cấp cho toàn bộ hệ thống
máy tính. Công suất trung bình của bộ nguồn hiện nay khoảng 200W. Công
suất tiêu thụ một số thành phần như sau:
Mainboard : 20W - 35W.
CD-ROM : 20W - 25W
Ổ đĩa mềm : 5W - 15W.
Ổ đĩa cứng : 5W - 15W.
Ram : 5W /MB.
Card : 5W - 15W.
CPU : Tùy theo mức độ làm việc nhiều hay ít.
Các số liệu trên đây chỉ mang tính chất tham khảo, bởi vì hiện nay xu thế các
hãng sản xuất đưa ra các thiết bị tiêu thụ điện năng nhỏ. Bên cạnh đó, tùy thuộc
vào số lượng thiết bị mà máy tính sử dụng nhều hay ít điện năng.
Phần cứng máy tính
Bộ nguồn (PSU)
Ðầu cắm ATX có 20 chân
Ðể kiểm tra nhanh bộ
nguồn có hoạt động hay
không, bạn có thể kích nối
tắt đường tín hiệu 14 và 15
(chập rồi nhả liền) hay
chắc ăn nhất là cắm đầu nối
nguồn vào Mainboard rồi
kích nối tắt 2 chấu của
Jumper PowerSw trên
mainboard (khi thử chỉ cần
có bộ nguồn và mainboard
ATX là đủ, không cần
thêm gì nữa).
Chân Tín hiệu Chân Tín hiệu
1 +3.3v 11 +3.3v
2 +3.3v 12 -12v
3 Ðất (Ground) 13 Ðất (Ground)
4 +5v 14 PW_ON (mở nguồn)
5 Ðất (Ground) 15 Ðất (Ground)
6 +5v 16 Ðất (Ground)
7 Ðất (Ground) 17 Ðất (Ground)
8 PWRGOOD (nguồn
tốt)
18 -5v
9 +5vSB 19 +5v
10 +12v 20 +5v
Phần cứng máy tính
Bộ nguồn (PSU)
Do có 1 số tính năng điều khiển từxa nên về nguyên tắc bộ nguồn phải luôn
luôn được cấp điện. Ta sẽ không thấy công tắc Power tự giữ theo kiểu AT nữa
(Sau khi bấm, công tắc sẽ tự giữ trạng thái đó cho đến khi bấm lần nữa để thay
đổi trạng thái), thay vào đó là 1 nút bấm kích (tự động trở về vị trí ban đầu sau
khi ngưng bấm) tương tự như nút Reset.
Khi bấm nút nầy, đường tín hiệu thứ 14 của đầu cắm nguồn (PW_ON) sẽ được
nối đất để tạo ra tín hiệu mở máy nếu máy đang trong tình trạng tắt (hay tắt
máy nếu máy đang trong tình trạng mở).
Chú ý: Khi mở máy bạn chỉ cần kích nút Power (bấm rồi nhả ngay) nhưng đặc
biệt khi tắt, tùy theo mainboard có thể ta phải bấm rồi giử sau 4 giây mới được
nhả (do xác lập trong Bios).
Khi trong tình trạng tắt, thực sự bộ nguồn vẫn tiêu thụ 1 lượng điện rất nhỏ để
duy trì sự hoạt động cho mạch điều khiển tự động mở máy (theo xác lập trong
Bios hay chương trình điều khiển). Chỉ khi nào bạn rút dây cắm nguồn hay tắt
điện bằng công tắt phía sau bộ nguồn thì máy mới ngắt điện hoàn toàn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- slide_phan_cung_lap_rap_may_tinh_0251.pdf