Trường hợp này, vẫn phải dựa vào phương pháp cơ bản là điểm tụ bất kỳ.
- Nếu là trường hợp những người đứng ở các vị trí cao thấp khác nhau thì chuyển
nhân vạt trên cao xuống thấp (nếu là nhân vật gần nhất) và tìm ra độ cao của
những nhân vật ở dưới thấp.
- Nếu là trường hợp những người lên dốc, xuống dốc thì phải dựa vào điểm tụ
trên tầm mắt, và lấy nhân vật gần nhất làm chuẩn
34 trang |
Chia sẻ: nguyenlam99 | Lượt xem: 1551 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Nguyên lý thị giác - Chương 3: Biểu hiện không gian trên mặt phẳng – các phép chiếu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
38
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
Tranh những người mót lúa, 1857. Tranh sơn dầu của Mi-lê
Chƣơng 3: Biểu hiện không gian trên mặt phẳng – các phép chiếu
Nghiên cứu về không gian là quá trình lao động sáng tạo không ngừng của con người.
Đối với việc tạo dựng không gian, các nhà khoa học đã phát minh ra nhiều công cụ để ghi
chép không gian một cách nhanh chóng và chính xác như ống kính máy ảnh, máy quay
phim
Trong hội họa cũng vậy, từ lâu người ta đã tìm ra nhiều phương pháp để biểu đạt
không gian: mầu sắc, sáng tối, đậm nhạt, hoặc bằng đường nét kết hợp mầu sắc. Khác với
các ngành khoa học kỹ thuật khác, không gian trong hội họa là một thứ không gian ảo,
được tái hiện lại trên mặt phẳng.
Để thực hiện được điều này người ta dựa vào nguyên tắc của các phép chiếu hình học, tức là
phép chiếu in hình của vật thể lên mặt phẳng bằng các đường chiếu hình học nhằm tìm kiếm cấu
tạo tương ứng với hình dạng cấu trúc của vật thể ở không gian.
Trên thực tế có ba phép chiếu thông dụng, đó là:
- Phép chiếu song song
- Phép chiếu vuông góc
- Phép chiếu xuyên tâm.
Khái niệm phép chiếu :
- Giả sử ta có mặt phẳng Л
- Một điểm S
- Một điểm A bất kỳ
- Dựng đường AS cắt Л tại điểm A = Ta đã thực hiện một phép chiếu.
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
39
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
3.1. Phép chiếu song song:
Là phép chiếu mà các tia chiếu thì song song với nhau và song song với phương chiếu.
Biểu diễn lại phép chiếu song song
- Cho một mặt phẳng Л: gọi là mặt phẳng hình chiếu
- Một đường thẳng S không song song với Л: gọi là hướng chiếu
- Giả thiết, có một điểm A bất kì trong không gian. Qua A vạch đường thẳng AA song
song với S: gọi là tia chiếu qua A.
Đường thẳng AA cắt mặt phẳng hình chiếu Л ở điểm A : goi là hình chiếu song song của
A lên mặt phẳng hình chiếu Л.
Nếu có một hình (H), thì tập hợp các hình chiếu song song của các điểm thuộc (H) sẽ cho
hình (H ) gọi là hình chiếu song song của (H)
Trường hợp nếu hướng chiếu S thẳng góc với mặt phẳng Л thì phép chiếu song song được
gọi là phép chiếu vuông góc.
Trường hợp nếu ta cho các đường thẳng song song là các đường sẽ cắt nhau ở điểm vô tận
thì phép chiếu song song là trường hợp đặc biệt của phép chiếu xuyên tâm khi tâm chiếu ở
vô tận.
Những bóng ngả của đồ vật in lên tường hay lên mặt đất khi trời nắng cho ta hình dung kết
quả của phép chiếu song song
Áp dụng phép chiếu này, ta có thể biểu hiện được hình khối của sự vật một cách ước lệ,
tức là gây được sự nổi và chiều sâu nhưng không gây được ấn tượng thật về không gian
như mắt ta vẫn thường thấy.
Theo phép chiếu song song thì những hình đi vào chiều sâu đều biến dạng theo một quy ước:
Hình chữ nhật trở thành hình bình hành, hình tròn trở thành hình elipnhư ta vẫn thường thấy
trong hình học không gian.
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
40
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
Trong những bản vẽ kỹ thuật và xây dựng người ta thường trình bày theo một thể loại để
người đọc bản vẽ dễ dàng hình dung ra được vật thể gọi là: Hình chiếu trục đo.
Để thực hiện được người ta gắn vật thể vào một hệ trục Ox, Oy, Oz trong đó có một trục
thẳng đứng và hai trục kia làm thành góc với nó theo những góc độ quy định, rồi kẻ từ các
điểm mốc của vật thể những đường song song với ba trục đó để có các cạnh và các mặt
theo ba chiều, cuối cùng được phối cảnh của vật thể.
Có 3 loại hình chiếu trục đo thường dùng, mà tên gọi căn cứ vào các góc độ của hệ trục.
3.1.1. Hình chiếu trục đo thẳng góc đẳng trắc
Đẳng: Thứ bậc, Ngang bằng nhau
Trắc: Thương xót – Trắc ẩn. Chật hẹp – Trắc trở. Đo sâu cạn – Trắc địa
= Đẳng trắc: Đo trong trường hợp các góc bằng nhau
Ba trục Ox. Oy, Oz làm với nhau những góc bằng nhau và đều bằng 120°, (Một góc 360°/3
= 120°) loại này dễ vẽ, ít gây nhầm lẫn và đẹp mắt, nhưng với những vật thể vuông vắn thì
hình biểu diễn lại xấu và có vẻ dị dạng.
3.1.2. Hình chiếu trục đo thẳng góc nhị trắc
Nhị: Hai
Trắc: Thương xót – Trắc ẩn. Chật hẹp – Trắc trở. Đo sâu cạn – Trắc địa
=> Nhị trắc: Đo hai góc
Hệ trục gồm một trục thẳng đứng và hai trục kia nghiêng với đường nằm ngang những góc
7°10 và 41°25 . Với những góc độ như vậy, hình chiếu sẽ cho cảm giác thuận mắt, tránh
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
41
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
tình trạng chập nét, thường thích hợp cho những hình vuông vắn và những vật thể có nhiều
chi tiết
3.1.3. Hình chiếu trục đo xiên góc nhị trắc
Hệ trục gồm một trục thẳng đứng, một trục nằm ngang và trục thứ ba nghiêng một góc 45°
với đường nằm ngang. Loại này cũng dễ vẽ và thích hợp với những vật thể có nhiều hình
tròn hướng về phía trước.
3.2. Phép chiếu vuông góc
Khái niệm: Là phép chiếu mà các tia chiếu thì song song với nhau và song song với
phương chiếu S, mà S vuông góc với mặt phẳng hình chiếu
Phƣơng pháp: Trong phép chiếu vuông góc, người ta quy ước hệ thống mặt chiếu là ba
mặt phẳng vuông góc với nhau:
Mặt chiếu Л1 thẳng đứng, gọi là mặt chiếu đứng.
Mặt chiếu Л2 nằm ngang, gọi là mạt chiếu bằng
Mặt chiếu Л3 vuông góc với 2 mặt phẳng kia tức là vuông góc với giao tuyến của
chúng, gọi là mặt chiếu cạnh.
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
42
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
Hình 38a
Nếu từ những điểm của hình F kẻ những đường thẳng góc xuống các mặt phẳng hình chiếu
đó, ta được những hình F1, F2, F3 của F theo 3 mặt: mặt bằng, mặt đứng, mặt cạnh.
Hình 38b
Trên ví dụ 38b, 3 mặt chiếu theo các trục Ox, Oy, Oz hợp thành 1 hệ thống trục, cho ta
hình dung được 3 chiều củ vật thể: trục Ox chỉ chiều rộng, trục Oy chỉ chiều sâu, trục Oz
chỉ chiều cao.
Đem dàn những hình này trên một mặt phẳng, ta được một bản vẽ trình bày cấu trúc của F
theo đúng kích thước của nó. Nhìn vào bản vẽ ta có thể nhận xét vật thể một cách tường
tận về kích thước, hình dáng theo nhiều phía. Nếu bản vẽ biểu diễn thêm mặt cắt thì ta còn
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
43
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
hiểu thêm sự cấu tạo bên trong của vật thể. Đối với những vật có kích thước lớn, hình
chiếu có thể thu nhỏ lại theo một tỉ lệ tương ứng
3.3. Phép chiếu xuyên tâm
Khái niệm về phép chiếu xuyên tâm
- Đối với sự thụ cảm thị giác thì các hình khối nằm trong không gian ba chiều có thể biểu
đạt lên mặt phẳng hai chiều, bằng phương pháp dựa theo nguyên tắc của phép chiếu xuyên
tâm, để in hình của vật thể lên mặt phẳng bằng những đường chiếu hình học.
- Phép chiếu xuyên tâm là phép chiếu trong đó các tia chiếu đều đi qua một điểm đã chọn
gọi là tâm chiếu. Hình chiếu của vật thể được in lên mặt phẳng gọi là mặt phẳng hình
chiếu. Hình chiếu của vật thể trên mặt phẳng có thể lớn hơn vật (phép duỗi) và cũng có thể
nhỏ hơn vật (phép co), nói chung đều bị biến dạng
- Vậy phép chiếu xuyên tâm là phép chiếu in hình của vật thể lên mặt phẳng bằng những
tia chiếu xuất phát từ một điểm.
Hình 39
3.2 Cơ sở khoa học của phép chiếu xuyên tâm
* Giả thiết ta có mặt phẳng π gọi là mặt phẳng hình chiếu và một điểm S nằm ngoài mặt
phẳng hình chiếu π gọi là tâm chiếu.
Nếu ta có một điểm A bất kỳ trong không gian, qua A vạch SA, ta gọi SA là tia chiếu và
ta kéo dài SA cắt mặt phẳng π tại A , điểm này (A ) gọi là hình chiếu xuyên tâm của A trên
mặt phẳng hình chiếu π.
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
44
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
Hình 40a
- Tương tự như vậy, nếu ta có một hình tam giác BCD đứng ngoài mặt phẳng π và ta kẻ
SB, SC, SD kéo dài, nó sẽ cắt mặt phẳng π tại B , C , D ta có B C D là hình chiếu xuyên
tâm của tam giác BCD trên mặt phẳng hình chiếu π.
Trong phép chiếu xuyên tâm có hai phép đó là phép duỗi và phép co.
a. Phép duỗi
- Khi tâm chiếu đặt xa mặt phẳng hình chiếu hơn vật, ta có hình chiếu lớn hơn vật, gọi
là phép duỗi.
Hình 40b
b. Phép co
- Khi tâm chiếu đặt gần mặt phẳng hình chiếu hơn vật, ta có hình chiếu nhỏ hơn vật,
gọi là phép co.
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
45
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
Hình 40c
3.3 Mối quan hệ của phép chiếu xuyên tâm với sự nhìn
- Khi quan sát cảnh vật, mắt ta được coi như một tâm chiếu, cảnh vật ta nhìn thấy trước
mắt đã trở thành hình chiếu xuyên tâm của vật thể trên mặt phẳng (tấm kính tưởng
tượng) trong luật xa gần có tên là mặt tranh (K).
Hình 40d
- Hình dưới là sơ đồ của không gian vật thể in trên tấm kính tưởng tượng theo nguyên
tắc của phép chiếu xuyên tâm.
- Giả sử trước mắt ta là các cột AB, CD, DF, K là tấm kính có thực thì hình chiếu của
chúng in trên tấm kính sẽ là A B , C D , D F . Ta gọi A B , C D , E F là hình chiếu
xuyên tâm của AB, CD, EF.
- Vậy khi chúng ta vẽ các cột AB, CD, EF ngoài thực tế chính là ta đang truyền đạt lại
hình chiếu xuyên tâm của chúng là A B , C D , E F trên mặt phẳng gọi là bức vẽ.
3.4 Ứng dụng của phép chiếu xuyên tâm trong hội họa
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
46
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
- Ứng dụng trong hội họa, thì bản chất của sự nhìn là thể hiện nguyên tắc theo phép
chiếu xuyên tâm mà tâm chiếu là mắt. Nên hội họa vẽ theo lối tả thực chính là biểu
hiện của phép chiếu này.
Ngày lễ Primavera, 1478
Tranh màu trộn với lòng trắng trứng của Xan-đơ-rô Bốt-ti-xen-li
Mùa thu vàng, 1895
Tranh sơn dầu của Lê-vi-tan
Chƣơng 4: Phối cảnh đƣờng nét
4.1. Tìm hiểu khái quát về phối cảnh đƣờng nét
Phối cảnh đường nét gồm các yếu tố quan trọng là cơ sở khoa học lý giải cụ thể kết cấu của luật xa gần
và những ứng dụng của nó trong việc tạo dựng không gian trên mặt phẳng.
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
47
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
Thực chất phối cảnh đường nét là những ứng dụng hình học có liên quan đến việc tìm
những cấu tạo tương ứng với hình dáng và quan hệ của các vật thể trong không gian theo
quy luật của thị giác.
Phối cảnh đường nét xét về phương diện hình học là ứng dụng của phép chiếu xuyên
tâm, với tâm chiếu là mắt, đối tượng là hiện thực trước mắt, mặt phẳng hình chiếu là tấm
kính tưởng tượng ở trong khoảng giữa mắt ta với đối tượng. Còn hình chiếu là những điều
quan sát được qua tấm kính tưởng tượng và truyền đạt lại trên mặt phẳng trở thành bức vẽ.
Nhưng cần lưu ý, việc truyền đạt lại không gian trên mặt phẳng đã trải qua chọn lọc, phân
tích kỹ để hình chiếu chỉ còn là những đường nét hình học. Nó chỉ tạo ra bộ khung cho một bố
cục hay phong cảnh. Công việc tiếp theo để hoàn chỉnh bức vẽ trở thành một tác phẩm nghệ
thuật là công việc của người họa sĩ.
Phối cảnh đƣờng nét gồm hai phần
- Phần thứ nhất: Lý giải sự tất yếu các hiện tượng xảy ra trên mặt kính khi phép chiếu
được thực hiện, tức là ghi nhận những điều quan sát được ở thực tế.
- Phần thứ hai: Đưa kết quả ghi nhận đó lên bức vẽ, nói cho đúng là tiến hành phép
chiếu ngay trên mặt phẳng để có các hình tượng ứng với hình dạng và cấu trúc của đối
tượng ngoài không gian. Tất nhiên nó được xem xét trong một mối quan hệ nào đó
giữa chủ thể và đối tượng.
a. Mục tiêu
- Phối cảnh đường nét là những vấn đề trọng yếu của luật xa gần. Yêu cầu sinh viên
phải nắm vững các khái niệm và công dụng của nó trong hôi họa.
b. nội dung
*Tìm hiểu khái quát về phối cảnh đƣờng nét
- Phối cảnh đường nét là phương pháp biểu hiện trên mặt phẳng những cấu tạo đường
nét tương ứng với kích thước, hình dạng và quan hệ của các vật thể trong không gian
theo quy luật thị giác.
- Ta cũng có thể hiểu rằng phối cảnh đường nét là một loại phối cảnh được thực hiện
theo nguyên tắc của sự nhìn hay phép chiếu xuyên tâm, và chỉ biểu hiện bằng nét trên
mặt phẳng.
4.2 Điểm nhìn
- Như phần trên đã nói, thực chất sự nhìn là tuân theo nguyên tắc của phép chiếu xuyên
tâm mà tâm chiếu là mắt. Vì vậy ta hiểu rằng mắt đồng thời là tâm chiếu, cũng là điểm
xuất phát của các tia chiếu hay tia nhìn và điểm xuất phát của các tia nhìn khi ta quan
sát gọi là điểm nhìn. Trong luật xa gần điểm nhìn có ký hiệu là (O).
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
48
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
4.3. Trƣờng nhìn
- Trường nhìn là phạm vi (giới hạn) không gian mà mắt nhìn thấy được khi ta quan sát
từ một vị trí cố định và giữ nguyên hướng nhìn. Ta hình dung từ mắt tỏa ra một hình
chóp và ta chỉ nhìn thấy những vật thể nằm trong phạm vi hình chóp đó và mặt phẳng
cắt ngang hình chóp sẽ cho ta hình dáng của mặt đáy. Cắt ở gần mặt đáy sẽ nhỏ. Cắt ở
xa mặt đáy sẽ lớn. Như vậy càng ở gần, trường nhìn càng hẹp, càng ra xa càng rộng
dần. Khác với trường nhìn của ống kính máy ảnh, trường của mắt không phải là hình
chóp có mặt đáy tròn mà có dạng hình mắt kính, phía trên rộng phía dưới hẹp. Khi
quan sát thực tế, ta thấy rằng phạm vi nhìn thấy phía dưới mắt rộng hơn phía trên và
phạm vi bao quát theo chiều ngang rộng hơn so với chiều cao. Như vậy là góc độ nhìn
theo chiều ngang và theo chiều thẳng đứng không đều. Tâm của trường nhìn không
phải ở chính giữa mà thiên về phía trên nhiều h¬n. Nếu ta lấy tia nhìn chính là chuẩn
thì được.
- Góc nhìn lên: khoảng 450
- Góc nhìn xuống: khoảng 650
- Góc nhìn ngang: khoảng 700 mỗi bên.
4.4.Tia nhìn và tia nhìn chính
4.4.1. Tia nhìn (Còn gọi là tia chiếu)
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
49
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
- Là đường thẳng xuất phát từ mắt tới bất cứ một điểm nào trong phạm vi trường của
mắt. Như vậy là có vô số tia nhìn tạo thành một chùm tia mà điểm xuất phát là
mắt. Ta dùng những tia nhìn đó xác định hình dáng của các vật thể.
4.4.2. Tia nhìn chính
- Là tia thẳng góc với điểm nhìn. Trong vô số những tia nhìn có hai tia chính xuất phát
từ trục nhãn cầu của hai mắt. Khi ta quan sát, hai tia chính chập làm một, cho ta một tia
nhìn chính. Tia nhìn chính giữ quan hệ cố định với mắt. Mắt nhìn về hướng nào thì tia
nhìn chính hướng về đó, hướng của tia nhìn chính cũng chính là hướng nhìn của mắt.
- Khi ta đứng thẳng, tia nhìn chính song song với mặt đất, nếu ta nằm ngửa nó sẽ nhìn
thẳng góc với mặt đất.
- Trên mặt phẳng, hình phối cảnh của một điểm nằm trên tia nhình chính là điểm trông
hay điểm chính.
- Tất cả những điểm trong không gian, nằm trên tia nhìn chính, khi đưa vào tranh sẽ
trùng nhau tại điểm chính, hay nói cách khác điểm chính là chỗ tập trung hình phối
cảnh của những điểm trong không gian nằm trên tia nhình chính.
- Trên mặt phẳng tranh chính là giao điểm giữa tia nhìn chính với mặt tranh và cũng là
điểm đối diện với mắt.
- Trong việc xây dựng hình phối cảnh, tia nhìn chính giữ vai trò quan trọng.
4.5. Góc nhìn
- Khi nhìn vào vật thể: giới hạn kích thước lớn nhất của mỗi vật sẽ tạo thành một góc
với điểm nhìn gọi là góc nhìn vật. Trước một nhóm đồ vật hay một khung cảnh thì góc
nhìn ấy bao trùm tất cả phạm vi của cả nhóm hoặc khung cảnh đó.
- Góc nhìn vật sẽ thay đổi tuỳ theo độ lớn của đối tượng và khoảng cách từ mắt tới đối
tượng đó. Góc nhìn gần thì lớn, góc nhìn xa thì nhỏ hơn. Ta phân biệt độ nhìn rõ nhiều
hay ít của hình ảnh bằng cách đứng xa hay đứng gần, xa quá thì vật kém rõ, nhưng gần
quá cũng khó nhìn. Vì vậy cần chọn một khoảng cách cho thỏa đáng, kinh nghiệm cho
thấy nên đứng cách xa vật mẫu một khoảng bằng một lần rưỡi độ lớn của nó, khi ấy
góc nhìn vật sẽ là 370. Để có hình khối cảnh thật dễ nhìn nên chọn những góc nhìn biến
thiên từ 530 đến 280 và tốt nhất là khoảng 700. Nói một cách cụ thể là, khi ta đứng vẽ
nên cách xa vật mẫu một khoảng cách bằng ít nhất một lần đến hai lần độ lớn nhất của
nó, mà tốt nhất là một lần rưỡi.
4.6. Khoảng cách chính
- Khoảng cách chính là khoảng cách từ mắt đến mặt tranh. Kinh nghiệm thực tế cho ta
thấy khoảng cách chính vừa phải lớn hơn độ lớn nhất của vật mẫu, lại vừa phải lớn hơn
độ cao của điểm nhìn thì hình ảnh mới ổn thỏa. Ta cần ghi nhớ hai điểm sau:
- Khoảng cách chính: độ lớn nhất của vật mẫu hoặc kích thước của nhóm đối tượng.
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
50
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
- Khoảng cách chính: độ cao của điểm nhìn.
- Hai yêu cầu này phải luôn luôn được duy trì trong khi tiến hành bài vẽ phối cảnh.
- Nếu không thực hiện đúng thì hình vẽ sẽ méo mó, sai lệch, không thuận mắt.
4.7. Mặt tranh
Khái niệm
- Mặt tranh là tên đặt cho tấm kính tưởng tượng đặt thẳng trước mắt ta, qua đó ta nhìn
thấy cảnh vật.
- Mặt tranh vốn không có trên thực tế, nhưng ta hãy hình dung trước mắt là một tấm
kính trong suốt và ta nhìn cảnh vật qua tấm kính ấy.
- Đứng trước thiên nhiên, ta có cảm giác như đứng trước một màn ảnh cực rộng, nếu
tấm kính kia có thực thì ta có thể vẽ lên đấy theo hình dạng các vật thể kia tấm kính và
sẽ có những hình tương ứng của các vật thể đó trên tấm kính.
- Với cách hình dung như vậy là ta đã chiếu không gian lên một mặt phẳng theo phép
chiếu xuyên tâm trong đó mắt nhìn là tâm chiếu.
- Vì vậy mỗi khi ta ghi chép cảnh vật cũng có nghĩa là ta đang ghi chép lại hình ảnh (hình
phối cảnh) của cảnh vật in trên tấm kính tưởng tượng mang tên là mặt tranh.
- Tóm lại, hình phối cảnh là kết quả của sự biến dạng và thay đổi tỷ lệ của hình ảnh các
vật thể thông qua mặt tranh.
Dạng của mặt tranh
- Mặt tranh có thể là mặt phẳng hoặc mặt cong, trong Luật xa gần ta chỉ đề cập đến mặt
tranh phẳng, thẳng đứng, vuông góc với mặt đất hay mặt vật thể.
Vị trí và chiều hướng
* Vị trí
- Mặt tranh nằm ở khoảng từ điểm nhìn tới vật nhưng luôn luôn được coi như áp sát với
khung cảnh định vẽ. Đường cắt ngang giữa mặt tranh với mặt đất bằng phẳng gọi là
đáy tranh.
* Chiều hướng của mặt tranh
Trong Luật xa gần, mặt tranh được coi là một mặt phẳng đứng, đối diện với
mắt người quan sát và vuông góc với tia nhìn chính. Trong trường hợp phải
ngẩng lên hoặc cúi xuống để nhìn những vật quá cao hoặc quá thấp thì mặt tranh
có hướng nghiêng và hình phối cảnh trên mặt tranh sẽ nghiêng.
* Quan hệ xa gần
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
51
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
- Khi mặt tranh đã được xác định thì quan hệ xa gần giữa các vật đều lấy mặt tranh làm
căn cứ. Vậy ở gần mặt tranh được coi là gần hơn so với vật ở xa mặt tranh, sự so sánh
này không tính đến khoảng cách giữa vật với điểm nhìn. Vật ở gần mắt có thể lại xa
hơn hoặc vật ở xa mắt có thể được coi là gần hơn tùy theo chúng ở xa hay gần mặt
tranh.
- Tóm lại, các vật thẻ tuy có khoảng cách xa gần khác nhau đối với mắt nhưng lại có
cùng một khoảng cách đối với mặt tranh thì được coi là không có sự chênh lệch về độ
xa gần.
- Ngược lại, các vật thể tuy có cùng một khoảng cách đối với mắt nhìn nhưng lại khác
nhau khoảng cách đối với mặt tranh thì coi như có sự chênh lệch về độ xa gần, tức là
gần mặt tranh thì lớn, xa mặt tranh thì nhỏ.
Đáy tranh
- Trong phần nói về mặt tranh, ta có nhắc đến đáy tranh, nay cần nói thêm về công
dụng của nó trong thực hành vẽ phối cảnh.
- Đáy tranh là chỗ mặt tranh tiếp giáp với mặt đất, trong luật xa gần, đáy tranh chính là
đáy của mặt tranh.
- Đáy tranh cũng là đường nằm ngang trên mặt đất, giới hạn khoảng gần nhất của bức
tranh với mắt nhìn.
- Vì vậy, người ta hay dùng đáy tranh để kiểm tra sự xếp đặt xa gần và do vậy, trước
mắt ta, đáy tranh bao giờ cũng là đường thẳng nằm ngang.
- Tùy theo chiều hướng góc độ của vật thể đối với đẩytnh, hình ảnh của nó sẽ là phối
cảnh chính diện hay phối cảnh góc.
- Nếu cạnh chân của vật song song với đáy tranh, hình ảnh của nó sẽ là phối cảnh chính
diện hay phối cảnh bình hành. Nếu cạnh chân của vật không song song với đáy tranh,
hình ảnh của nó sẽ là phối cảnh góc.
4.8. Đƣờng chân trời.
Khái niệm về đường chân trời
- Khi đứng trước cảnh biển bao la, ta nhìn đến xa vút nơi tiếp tuyến giữa trời và biển.
Đó chính là giới hạn xa nhất của mặt bằng mà mắt ta nhìn thấy hoặc ranh giới giữa trời
và đất, thì người ta gọi là Chân trời.
- Khác với chân trời, đường chân trời là một đường hình học chuyên dùng cho phối
cảnh đường nét và chỉ có ý nghĩa toán học đơn thuần. Với góc độ phối cảnh, đường
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
52
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
chân trời trong tranh được xem là ảnh hay hình chiếu của chân trời. Khi đã trở thành
hình phối cảnh thì đường chân trời biến thành đường tầm mắt trên mặt tranh trong kết
cấu của luật xa gần nhằm giải quyết những tỷ lệ chiều cao trong phối cảnh
- Đường chân trời chính là một đường thẳng nằm ngang song song với mặt đất luôn có
vị trí cao ngang tầm mắt, nên còn gọi là đường tầm mắt.
- Chân trời và đường chân trời là hai yếu tố khác biệt: Chân trời là một đường thực tế,
thể hiện tầm xa nhất có thể thấy được bằng mắt thường trên mặt đất. Tầm xa đó rất có
giới hạn, đối với người đứng trên mặt đất bằng phẳng thì chân trời chỉ cách chỗ đứng
chừng 5km.
- Còn đường chân trời là đường hình học chuyên dùng trong phối cảnh đường nét. Tuy
vậy trong phối cảnh thì cả chân trời và đường chân trời đều có độ cao ngang tầm mắt và đượ
coi như trùng vào nhau.
Vị trí của đường chân trời và công dụng
- Trên thực tế, đường chân trời luôn luôn ở ngang tầm mắt, nó cao lên hay thấp xuống
là tuỳ theo ta đứng cao hay ngồi thấp xuống mà nhìn. Còn ở bức vẽ thì ta có thể chọn
đường chân trời cao hay thấp tuỳ ý sao cho phù hợp với ý đồ và bố cục tranh.
- Trường hợp mô tả cảnh vật rộng trên mặt đất mênh mông thì chọn đường chân trời
cao. Nếu mô tả những cảnh trên cao như: trời mây hoặc muốn diễn tả những công trình đồ
sộ cận cảnh thì ta chọn đường chân trời thấp.
*Công dụng của đường chân trời
- Đường chân trời là một yếu tố quan trọng của luật phối cảnh, nó chứa đựng các điểm
tụ của mặt bằng, dùng để xác định phối cảnh các vật thể trong không gian và cho ta
cảm giác thế nằm của mặt đất và các vật thể tồn tại trên đó. Vì thế đường chân trời đã
góp phần chủ yếu trong việc định ra chiều sâu của không gian trên mặt phẳng hai chiều
Chúng ta thấy rằng sự quan sát trong cuộc sống sẽ cho chúng ta nhiều kinh nghiệm và
kiến thức khi thực hiện một bức vẽ.
*Cách xác định đường chân trời
- Muốn tìm vị trí đường chân trời ta dùng một tấm bìa cứng đặt ngang tầm mắt, và điều
chỉnh khi thấy hai cạnh của tấm bìa chập lại thành một, cắt cảnh vật ở đâu thì đó là vị
trí đường chân trời.
- Một điểm cần lưu ý khi tìm đường chân trời là phải luôn luôn đứng thẳng mới xác
định được đường chân trời tự nhiên. Sau khi đã xác định xong đường chân trời dùng
cho việc thực hành vẽ phối cảnh thì không được tính đến những hiện tượng thay đổi do
ta ngẩng lên, cúi xuống hoặc lùi ra xa để ngắm tranh.
4.9. Điểm tụ
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
53
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
Khái niệm về điểm tụ
- Ta biết rằng, các hàng gạch lát cũng như các cạnh bàn, cạnh ghế và lề đường, đều có
dạng song song, nhưng khi nhìn chúng trong chiều sâu thì tất cả đều thay đổi chiều
hướng. Nếu ta đặt một tấm kính ở trước mặt và đồ lại các đường đã biến dạng đó rồi
kéo dài thì thấy những đường vốn song song với nhau đều trở thành những đường đồng
quy.
- Tất cả những hiện tượng đồng quy về một điểm của những đường thẳng song song
như đã nêu ở trên không phải diễn ra tuỳ tiện mà nó hoàn toàn lệ thuộc vào mối quan
hệ giữa chúng với mặt tranh và điểm nhìn. Quan hệ này tạo ra cho mỗi đường một
điểm riêng biệt, xác định hướng đi của nó trong phối cảnh. Và cho dù có vô số đường
thẳng nhưng nếu cùng một hướng đi vào chiều sâu thì đều quy tụ ở một điểm, điểm đó
chính là điểm tụ.
- Vậy điểm tụ chính là điểm đồng quy của những đường thẳng cùng hướng trong phối
cảnh.
Các loại điểm tụ:
Khi nói đến điểm tụ ta cần phân biệt các loại điểm tụ khác nhau:
- Điểm tụ chính (còn gọi là điểm chính): là điểm tụ của tất cả những đường đi vào
chiều sâu theo hướng vuông góc với mặt tranh (điểm chính chỉ có một và xuất hiện
trong phối cảnh chính diện).
- Điểm tụ phụ: là điểm tụ của những đường đi vào chiều sâu theo hướng đâm xiên bất
kỳ với mặt tranh (điểm tụ phụ có nhiều và xuất hiện trong phối cảnh góc). (S)
- Điểm cự ly, tức là điểm cách chính: cũng là một loại điểm tụ phụ, nhưng đi vào chiều
sâu theo hướng đâm xiên 450 với mặt tranh (trên mặt tranh, nó nằm cách điểm chính
bằng khoảng cách từ mắt tới điểm chính. Nó có tác dụng tìm ra chiều sâu của các hình
vuông (kể cả hình chữ nhật) đi vào chiều sâu theo phối cảnh chính diện.
- Điểm tụ trên tầm mắt và điểm tụ dưới tầm mắt: đó là những điểm tụ không nằm ở
đường chân trời mà được đặt ở phía trên hoặc dưới đường này, dùng cho những đường
thẳng đi vào chiều sâu nhưng không song song với mặt đất như: cao hơn hay thấp hơn
tầm mắt.
- Cả điểm tụ trên tầm mát và điểm tụ dưới tầm mắt đều chiếu thẳng góc với điểm tụ
tương ứng ở đường tầm mắt (đấy là trường hợp của những mái nhà dốc, hướng chếch
của những bậc thang lên xuống).
Vị trí của điểm tụ
Về vị trí của điểm tụ có 3 trƣờng hợp:
a. Đối với những đường thuộc các mặt phẳng nằm ngang trong phối cảnh thì điểm tụ
bao giờ cũng nằm ở đường chân trời, kể cả ở trên hay dưới tầm mắt.
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
54
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
b. Đối với những đường xiên, không thuộc mặt bằng, cũng không song song với mặt
tranh thì điểm tụ sẽ ở trên hoặc dưới đường chân trời (tùy theo hướng xiên chạy trở lên
hay trở xuống).
c. Đối vưói những đường song song với mặt tranh không kể nằm đứng hay nghiên thì
điểm tụ ở vô tận, nói một cách cụ thể là không biến dạng và không có điểm tụ. Đó là
trường hợp của những đường thẳng đứng, đường dàn mặt (song song với đáy tranh)
Ứng dụng của điểm tụ
- Trong phối cảnh, điểm tụ được ứng dụng rất phong phú và đa dạng. Nhưng tựu trung
lại thì điểm tụ dùng để xác định hướng của những đường thẳng song song đi vào chiều
sâu.
- Trong ứng dụng của điểm tụ, ta cần nhắc đến một số điểm tụ của các đường thẳng đặc
biệt được mang tên riêng trong luật xa gần như: điểm chính, điểm cự ly
Cách xác định điểm tụ
- Muốn tìm điểm tụ của một đường, ta cần biết rõ hướng đi của nó trong thực tế cùng vị
trí tương đối của nó với mắt và mặt tranh, khi ấy chỉ việc kẻ từ điểm nhìn một tia song
song với nó. Tia này xuyên qua mặt tranh ở đâu thì đấy chính là điểm tụ cần tìm.
Xem hình 135 tranh 158: AB là một đoạn thẳng bất kì trong không gian, cắt mặt tranh ở N.
Nếu từ O kẻ một tia song song với AB và xuyên qua mặt tranh ở F. Thì (trong thực tế) AB
và OF kéo dài sẽ gặp nhau ở vô tận và hội tụ . F chính là phối cảnh của F vô tận.Và như
thế phối cảnh của AB nhất thiết phải đi qua F. Nối NF sẽ thấy NF chập vào AB và ta tìm
được A B là phối cảnh của AB. (ví dụ khác Nếu có thêm đường khác đồng hướng với AB,
CD//AB cắt mặt tranh tại M, nhìn từ O sẽ thấy MF chập vào CD) (S)
Những điểm tụ đặc biệt
4.10. Điểm chính (điểm trông)
- Điểm chính cũng là điểm tụ của những đường thẳng song song thuộc các mặt phẳng
có góc 900 so với mặt tranh (còn gọi là những đường chiếu mặt)
- Điểm chính là hình chiếu của tất cả các điểm trong không gian, nằm trên tia nhìn
chính.
- Người ta áp dụng điểm chính để vẽ phối cảnh của các hình có đường chiếu mặt.
- Điểm chính còn dùng làm điểm chuẩn để chuyển số đo từ đồ thức mặt bằng ra đồ
thức phối cảnh trong phần vẽ phối cảnh hình vuông, hình lập phương
4.11. Điểm cự ly và điểm đo
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
55
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
-Điểm cự ly là điểm tụ của những đường nằm trên các mặt bằng đi vào chiều sâu làm
thành góc 450 với mặt tranh. Điểm cự ly là một cặp đặt ở hai bên điểm chính và cách
điểm chính một khoảng bằng khoảng cách chính.
- Điểm cự ly có thể tham gia vào việc dựng phối cảnh của tất cả mọi hình khối, không
cần đến điểm tụ của những hướng bất kỳ mà chỉ đòi hỏi các đường dàn mặt và chiếu
mặt.
Điểm cự ly rút ngắn
- Người ta có thể rút ngắn điểm cự ly theo một tỷ lệ nào đó nhằm đưa vị trí của nó vào
trong phạm vi khung tranh.
-Trong khi vẽ phối cảnh người ta có thể giữ nguyên điểm cự ly mà phóng to hình
vuông theo ý muốn, miễn là khổ giấy cho phép.
Chƣơng 5: Một số hình thức phối cảnh
* Giới thiệu chung
- Tuy vậy, khi đưa hình khối vào tranh đòi hỏi người họa sĩ phải tính toán, cân nhắc,
chọn lọc những yếu tố điển hình tạo nên những hình tượng nghệ thuật đẹp mắt.
- Để làm được việc này, trước hết người họa sĩ phải nắm được phương pháp vẽ các
hình khối cơ bản và sự biến dạng của chúng trong không gian.
- Trong bài này, chủ yếu giới thiệu một số hình thức vẽ phối cảnh
- Phương pháp vẽ phối cảnh hình vuông
- Phương pháp vẽ phối cảnh hình lập phương
- Phương pháp vẽ phối cảnh hình tròn
- Phương pháp vẽ phối cảnh bóng ngả, bóng nước kết hợp với tỷ lệ của con người
trong không gian.
- Đây là bài tập tối cần thiết làm sáng tỏ và củng cố phần lý thuyết đã học được ở
các bài trước.
- Phần thực hành vẽ phối cảnh cũng là những ứng dụng quan trọng nhằm rèn
luyện mắt quan sát và kỹ năng thực hành. Bước đầu giúp cho người học vẽ biết
cách xây dựng bố cục một bức tranh từ những ký họa ở thực tế. (S)
5.1 Vẽ phối cảnh hình vuông
- Dựng được phối cảnh hình vuông, ta sẽ vẽ được phối cảnh của nhiều hình khác nhau
như hình tròn, sàn lát gạch vuông, xây dựng một khung nội thất bằng những ô vuông
để tiện xếp đặt và trang hoàng. Dựng phối cảnh hình tròn trước hết phải biết cách vẽ
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
56
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
phối cảnh hình vuông rồi sau đó căn cứ vào một số điểm chuẩn trên hình vuông đó để
vẽ phối cảnh của hình tròn. Dựng phối cảnh sàn lát gạch vuông hoặc xây dựng một
khung nội thất mà sàn tường và trần đều là những ô vuông, trên cơ sở đó mà bố trí và
trang hoàng cho một đồ án trang trí, nội thất Có nhiều phương pháp vẽ phối cảnh
hình vuông. Song đối với phương pháp nào cũng đòi hỏi phải có những điều kiện sau:
- Vị trí của điểm nhìn
- Khoảng cách chính
- Vị trí của đường chân trời so với mặt tranh
- Kích thước vị trí của hình vuông (S)
5.1.1 Vẽ phối cảnh chính diện
- Đây là trường hợp phối cảnh chính diện, tức là cạnh chân của vật song song với đáy
tranh.
- Giả thiết trên đô thức mặt bằng, ta có hình vuông ABCD đặt theo hướng chính diện.
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
57
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
- Muốn đưa hình vuông ABCD ra phối cảnh, trước hết trên đồ thức mặt bằng, ta kéo dài hai
cạnh chiếu mặt AC và BD cho gặp mặt tranh tại các điểm C và D và đặt các điểm này trên
đáy tranh trong hình phối cảnh. (S)
- Ta tiếp tục kẻ đường chéo vuông góc BC và kéo dài đường này cho gặp mặt tranh tại
điểm C1. (S)
- Khi đưa ra phối cảnh những đường xuất phát từ C và D là những đường chiếu mặt, tất
yếu phải gặp nhau tại điểm chính (P). Đường xuất phát từ C1 là đường đâm xiên 45
0
so với
mặt tranh phải đi vào điểm cự ly (S)
- Khoảng cách từ điểm chính đến điểm cự ly PD=PO. Ta có những giao điểm tạo lên
góc B và góc C của hình vuông. Từ B và C kẻ đường dàn sang phải sang trái để có
những giao điểm tạo nên góc A và góc D của hình vuông (S)
- Như vậy, ta vẽ xong hình vuông ABCD trong phối cảnh. (S)
Vẽ phối cảnh chính diện hình vuông nằm lệch 1 bên
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
58
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
5.1.2 Vẽ phối cảnh góc
- Đây là trường hợp phối cảnh góc, tức là cạnh chân của vật không song song với đáy
tranh.
- Giả thiết trên đồ thức mặt bằng, ta có hình vuông ABCD đặt theo góc độ bất kỳ với
mặt tranh, tức là không có cạnh nào song song với mặt tranh.
- Trên đồ thức mặt bằng, từ các góc của hình vuông, ta kẻ những đường thẳng góc với
mặt tranh tại các điểm A , B , C , D , và cũng từ các góc của hình vuông, ta kẻ những
đường ngang cắt đường thẳng đứng chạy qua góc D, tạo nên điểm, B1, A1, D1, C1. Các đoạn
này chuyển sang mặt tranh để tạo ra các đường chéo góc 450 với mặt tranh. Rồi cũng đoạn
này, ta đặt vào đáy tranh trong hình phối cảnh.
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
59
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
- Khi đưa ra phối cảnh, những đường xuất phát từ A , C , B , D là những đường chiếu
mặt tất yếu phải quy tụ vào điểm chính.
- Những đường xuất phát cừ C1, D1, A1, B1 là những đường chéo góc 45
0
với mặt tranh
sẽ quy tụ lại điểm cự ly (D). Những đường của hai hướng này cắt nhau sẽ tạo nên các
giao điểm, từ những giao diện này, kẻ những đường dàn mặt sang trái là tìm được đầy
đủ các góc của hình vuông trên các đường chiếu mặt. Nối các góc với nhau, ta đã vẽ
xong hình vuông ABCD trong phối cảnh.
- Trong trường hợp giữ nguyên khoảng cách điểm cự ly để phóng to hình vuông ABCD
n lần, ta chỉ việc kéo dài PA , PC , PB , PD với khổ giấy cho phép (xn, yn) rồi lấy số
đo C1, D1, A1, B1 đặt vào đáy tranh lớn Xn, Yn theo chiều từ phải sang trái sao cho D
trùng với D n rồi nối các điểm C1, D1, A1, B1 với P. Từ các giao điểm này kẻ những
đường dàn mặt sang trái là tìm được các điểm của hình vuông trên các đường chiếu
mặt.
5.2. Vẽ phối cảnh khối lập phƣơng
- Khi quan sát một hình lập phương, ta chỉ nhìn thấy từ một đến ba mặt của nó. Khi đưa
vào phối cảnh, có thể chọn một trong hai dạng sau đây:
- Phối cảnh chính diện: mặt chính của nó song song với mặt tranh và không biến dạng.
- Phối cảnh góc: các mặt của hình không song song với mặt tranh và đều biến dạng.
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
60
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
5.2.1 Vẽ phối cảnh chính diện
a. Nhìn thấy một mặt
Trong trường hợp này điểm chính nằm vào khoảng giữa mặt chính của hộp. Ta cứ
việc dựng phối cảnh theo những phương pháp đã học, sau đó bỏ mặt chính của
hình đi thì sẽ được một hình lập phương rỗng gồm 5 mặt ở phía trong lòng nó.
Giống như trường hợp ta nhìn vào tủ kính hay một căn phòng.
b. Nhìn thấy hai mặt
c. Nhìn thấy ba mặt
Tầm mắt cao hơn hoặc thấp hơn và điểm chính lệch về một phía
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
61
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
5.2.2. Vẽ phối cảnh góc
Trình tự tiến hành: Dựng đồ thức mặt bằng. Coi như phối cảnh đáy của hình lập
phương đã vẽ xong (như phần vẽ phối cảnh hình vuông)
* Vấn đề còn lại là xác định chiều cao của hình lập phƣơng
- Dựng đường vuông góc SS bất kỳ ở đáy tranh xy có kích thước bằng cạnh hình
vuông tại đồ thức mặt bằng, nối S và S với P, ta được SP và S P là hai đường thẳng
song song đi vào chiều sâu và tụ lại ở điểm chính.
- Ta chỉ việc từ các điểm ABCD dóng ngang cắt SP tại A1, B1, C1, D1 rồi từ đó dựng
các đường thẳng đứng sẽ cắt S P tại A B C D .
- Từ các điểm B C D E dóng ngang về phía hình vuông đáy. Rồi từ các điểm ABCD
của đáy dựng các đường thẳng đứng sẽ cắt và cho ta các điểm đáy trên của hình lập
phương là: A B C D .
* Vẽ phối cảnh hình lập phƣơng phóng to n lần
- Coi như phối cảnh đáy của hình lập phương đã vẽ xong.
- Vấn đề còn lại là xác định chiều cao của nó.
- Ta chỉ việc kéo dài PS cắt đáy tranh lớn tại Sn, kéo dài PS . Rồi từ các điểm của hình
vuông An, Bn, Dn dóng ngang, cắt SnP tại C, D, A, B. Phần còn lại tiếp tục tiến hành
như phần vẽ phối cảnh hình lập phương nhỏ.
5.3. Vẽ phối cảnh hình tròn
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
62
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
Thông thường, khi vẽ hình tròn, người ta dùng một dụng cụ gọi là com pa. Nhưng
trong phối cảnh, khi hình tròn được đặt trên mặt phẳng không song song với mặt tranh,
sẽ phải biến dạng thành hình elip nên không thể dựa vào com pa, mà phải dựa vào hình
vuông ngoại tiếp chứa hình tròn đó. Phương pháp phổ biến để vẽ phối cảnh là phương
pháp 8 điểm.
5.3.1. Phương pháp 8 điểm
Nhìn vào hình vẽ ta thấy rõ 8 điểm tiếp xúc của hình tròn với hình vuông ngoại tiếp
là: 4 tiếp điểm với 4 cạnh và 4 điểm cắt hai đường chéo. Nếu xác định được 8 điểm
đó trên một hình vuông, ta có thể dùng tay để vẽ một hình tròn không cần com pa.
- Áp dụng vào phối cảnh thức cũng như vậy, chỉ khác là hình vuông thường đã biến
thành hình vuông phối cảnh và hình tròn cũng không còn là hình tròn thường mà có
dạng elip với tâm không ở chính giữa.
- Điểm O ta xác định nó bằng cách nối OE, lấy O làm tâm quay nửa cung tròn có
bán kính OE sẽ cắt CD tại O .
- Rồi từ O hai bên điểm O, ta kẻ đường song song với hai cạnh bên của hình vuông
lớn ABCD. Những giao điểm với các đường chéo góc cho ta các điểm 5, 6, 7, 8.
5.3.2. Vẽ phối cảnh hình tròn
- Sau khi xác định 8 điểm trong hình vuông để xây dựng hình tròn, ta có thể vẽ phối
cảnh hình tròn trong những trường hợp khác nhau.
a. Hình tròn trên mặt phẳng nằm, dưới hặoc trên tầm mắt, điểm chính có thể chính
giữa hay sang bên.
- Đây là trường hợp của miệng giếng, miệng chai lọ, miệng cốc
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
63
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
- Hình tròn càng gần tầm mắt, bề mặt càng hẹp lại. Nếu trùng với đường tầm mắt,
nó sẽ suy biến thành một đường thẳng.
- Những hình tròn trên và dưới có cùng kích thước sẽ được nối với nhau bằng
những đường thẳng đứng, sẽ trở thành những mặt đáy của một hình trụ.
b. Hình tròn đặt trên mặt thẳng đứng, dưới hoặc trên tầm mắt.
- Đây là trường hợp những bánh xe đang lăn trên đường. Qua hình vẽ ta thấy:
- Hình tròn càng gần điểm chính, bề mặt lại càng mỏng lại. Nếu điểm chính đặt
chính giữa, nó sẽ suy biến thành một đường thẳng.
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
64
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
c. Vẽ cửa sổ trên một bức tường: Đây là trường hợp hình tròn đặt trên mặt phẳng
đứng. (giống như bánh xe đang lăn trên đường)
d. Vẽ những cửa tò vò trong một hành lang đi vào chiều sâu theo hướng đâm dọc.
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
65
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
5.4 Vẽ phối cảnh bóng ngả
- Tất cả những vật thể đặt dưới ánh sáng mặt trời hya ánh sáng đèn (hoặc nến) đều phải
chịu ảnh hưởng của ánh sáng.
- Ánh sáng chiếu vào một vật thể, tạo cho mọi vật thể hai loại bóng là: bóng chính và
bóng ngả.
* Bóng chính: là bóng nằm trên những bề mặt của vật thể không trực tiếp với ánh sáng
(phần tối)
* Bóng ngả: là bóng của vật thể hắt xuống mặt đất, mặt bàn hoặc hát sang vật thể khác.
- Cũng như bóng nước, bóng ngả có những hình thái cụ thể phản ánh cấu trúc và
hình dáng của vật thể.
* Vị trí của nguồn sáng
- Hướng đi của tia sáng tỏa ra, chiếu thẳng vào các bề mặt và các cạnh của vật thể
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
66
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
- Khi vẽ phối cảnh bóng ngả, ta cần chú ý vào nguồn sáng để xác định hình thái của
bóng ngả.
* Nguồn sáng có hai loại:
- Ánh sáng tự nhiên của mặt trời
- Ánh sáng nhân tạo của đèn điện, đèn dầu hay nến.
5.4.1. Vẽ bóng ngả nguồn sáng tự nhiên (mặt trời)
a. Những tia sáng mặt trời chiếu theo mặt phẳng song hành với mặt tranh (các tia
chiếu song song với mặt tranh)
Trong trường hợp này, mặt trời (tức nguồn sáng) có thể bên phải hoặc bên trái ta, làm
cho bóng ngả của vật thể hắt sang bên trái hoặc bên phải.
b. Mặt trời ở trước mắt ta, bên kai tột cùng mặt tranh, bên kia vật thể (trường hợp
trái sáng).
- Trong trường hợp này, mặt trời ở trước mặt ta, làm cho bóng ngả của vật thể bị hắt
về phía ta. Vật thể bị tối gần hết, thường gọi là trái sáng (nghịch quang).
- Cần chú ý: lúc này, các tia sáng mặt trời không song song mà trở thành đồng quy
vào một điểm tụ là nguồn sáng S tức mặt trời. Để điểm S thực chất là điểm tụ trên
tầm mắt của các tia sáng.
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
67
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
c. Mặt trời ở sau lưng ta, phía trước mặt tranh
Trong trường hợp này, mặt trời ở sau lưng ta, vật thể được chiếu sáng và bóng ngả
hắt về phía trước.
5.4.2. Vẽ bóng ngả nguồn sáng nhân tạo
- Ánh sáng đền hay nến tỏa bốn phía trên vật thể, trong mặt tranh.
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
68
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
- Trong trường hợp này, nguồn sáng (tức ngọn đèn hay ngọn nến) ở phía trên vật
thể, bóng ngả hắt ra xung quanh.
- Cần chú ý: Trong trườnghợp này, điểm chiếu của nguồn sáng trên mặt bằng tức là
S không nằm ở đường tầm mắt như những trường hợp trên, mà là điểm chân của
cây đèn hay ngọn nến tại mặt đáy của vật thể.
- Vẽ bóng ngả một đế gỗ đáy vuông và một khối hình chóp dưới ánh sáng nến
- Vẽ bóng ngả một cái bàn dưới ánh sáng nến
5.5 Vẽ phối cảnh bóng nƣớc
- Khi vẽ phối cảnh bóng nước cần lưu ý: bóng nước phản ánh hình dáng đảo ngược của
vật thể, nhưng cũng phải tuân theo luật phối cảnh.
- Muốn xác định chiều cao và hình dáng của bóng nước một vật thể nào đó, ta cần nắm
vững phương pháp vẽ phối cảnh bóng nước.
Phương pháp
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
69
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
- Cũng như những vấn đề trước, phương pháp vẽ phối cảnh bóng nước phải đi dần từ
trường hợp đơn giản đến phức tạp
- Vẽ bóng nước cột AB đứng sát mặt nước
- Trong trường hợp này, mặt đất và mặt nước ngang nhau (coi như bị ngập lụt,
không nhìn thất bờ đất)
- Cột AB có điểm chân là B, là điểm chân trên mặt đất, đồng thời là điểm chân
trên mặt nước.
- Bóng nước của cột AB rõ ràng là BA bằng AB (BA – AB).
- Vẽ bóng nước cột AB đứng sát mép bờ đất
- Trong trường hợp này, mặt đất nhìn thấy bờ (coi như nước đã rút).
- Cột AB có điểm chân là B, nhưng là điểm chân trên mặt đất. Còn điểm chân
trên mặt nước lúc này là B . Điểm B vừa là điểm chân của cột AB trên mặt nước,
và cũng là điểm chân của bờ đất trên mặt nước.
- Bóng nước của cột AB trong trường hợp này là B A bằng AB (B A = AB ).
- Vẽ bóng nước cột AB đứng trên bờ đất, nhưng thụt vào trong
- Trong trường hợp này, việc tìm điểm chân của cột trên mặt nước là B có phức
tạp hơn.
- Cách tìm như sau:
- Từ điểm B (tức là điểm chân của cột trên mặt đất) ta kẻ đường thẳng trên mặt
đất thẳng góc (theo phối cảnh) với cạnh bờ đất, theo hướng hình bình hành hoặc
theo hướng đi vào chiều sâu, rồi tiếp tục kẻ đường thẳng đứng theo bề dày của bờ
đất và kẻ đường trên mặt nước trả lại cột AB kéo dài ở điểm B . Điểm B chính
là điểm chân của cột AB trên mặt nước.
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
70
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
- Cũng như trường hợp trên, bóng nước của cột AB là B A bằng AB (B A =
AB )
*Áp dụng :
Với phương pháp cơ bản trên đây ta có thể vẽ những trường hợp phức tạp hơn
- Vẽ bóng nước cột AB đặt trên một thềm gạch có bậc thang xuống nước
- Vẽ bóng nước một căn nhà có cột điện và cây bên bờ nước (theo phối cảnh chính
diện).
5.6 Vẽ ngƣời gần và xa trong phối cảnh
* Phương pháp:
- Đối với tất cả các trường hợp, phương pháp vẫn là phải dựa vào điểm tụ bất kỳ ở
đường tầm mắt.
- Giả thiết trong tranh có một nhân vật gần nhất có độ cao là AA đứng ở vị trí A, coi
như làm chuẩn để tìm ra độ cao của các nhân vật khác, cũng cao bằng AA , nhưng
đứng ở các vị trí khác nhau trong chiều sâu của không gian.
- Ta chọn điểm tụ bất kỳ (F) ở đường tầm mắt.
- Kẻ AF và A F (ta được AF và A F là 2 đường thẳng song song đi vào chiều sâu của
không gian)
- Ta dựa trên 2 đường này để xác định chiều cao của các nhân vật ở các vị trí khác
nhau trong không gian.
* Áp dụng
- Từ phương pháp cơ bản trên đây, ta có thể vận dụng vào những trường hợp cụ thể,
từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
Bài giảng Nguyên lý thị giác – Ngành Truyền thông Đa phương tiện
71
Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện – Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông
5.6.1. Vẽ những người cao bằng nhau cùng đứng trên mặt bằng, tại những vị trí khác
nhau
Ta có thể vẽ theo hai trường hợp
- Đường tầm mắt cao hơn đầu người
- Đường tầm mắt thấp hơn đầu người
Ta có thể thấy:
- Nếu đỉnh đầu người thứ nhất thấphơn đường tầm mắt thì đỉnh đầu của tất cả những
người khác cũng phải thấp hơn đường tầm mắt. Nếu cá biệt có người cao hơn đường tầm
mắt thì người này phải đứng trên mô đất hay trên bục cao
- Nếu đỉnh đầu người thứ nhất cao hơn đường tầm mắt thì đỉnh đầu của tất cả
những người khác cũng phải cao hơn đường tầm mắt. Nếu cá biệt có người nào
thấp hơn đường tầm mắt thì người này phải ngồi xuống hoặc đứng dưới hố
5.6.2. Vẽ những người cao thấp khác nhau cùng đứng trên mặt bằng, tại những vị
trí khác nhau
- Giả thiết trong tranh có 3 nhân vật cao thấp khác nhau là nam với độ cao AA ,
nữ với độ cao BB và trẻ em với độ cao CC .
- Trước hết, ta phải đặt 3 nhân vật đứng cạnh nhau, rồi bằng phương pháp điểm tụ
bất kỳ, ta tạo ra 3 hình tam giác lồng vào nhau, có chung một đỉnh là ĐTBK và
đáy là độ cao của các nhân vật tức là AA , BB , CC .
- Dựa vào 3 hình tam giác này, ta có thể tìm được độ cao của các nhân vật tại
những vị trí quy định trong phối cảnh.
5.6.3. Vẽ những người cao bằng nhau, đứng ở những vị trí cao thấp khác nhau, hoặc
đang lên dốc, xuống dốc.
- Trường hợp này, vẫn phải dựa vào phương pháp cơ bản là điểm tụ bất kỳ.
- Nếu là trường hợp những người đứng ở các vị trí cao thấp khác nhau thì chuyển
nhân vạt trên cao xuống thấp (nếu là nhân vật gần nhất) và tìm ra độ cao của
những nhân vật ở dưới thấp.
- Nếu là trường hợp những người lên dốc, xuống dốc thì phải dựa vào điểm tụ
trên tầm mắt, và lấy nhân vật gần nhất làm chuẩn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_giang_nguyen_ly_thi_giac_p2_4089.pdf