Bài giảng Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ X

Qua tìm hiểu về Vương quốc Phù Nam, người viết mạnh dạn rút ra một số kết luận sau đây: Một là, Vương quốc Phù Nam tồn tại hơn 6 thế kỉ, trải 3 đời, 19 vua có thể coi là một quốc gia phát triển lâu bền, có thể so sánh nó với độ dài của mọi triều đại phong kiến tập quyền ở Đông Nam Á. Hai là, trong suốt thời kì tồn tại, có hai giai đoạn tôn người Ấn Độ làm vua. Điều này không phải là thể hiện sự yếu ớt của Vương quốc Phù Nam mà nó xuất phát từ nhu cầu thực tế (người Ấn Độ thành thạo trong việc quản lí chính quyền, am hiểu nguồn và đường buôn bán Đông – Tây). Nó không những không làm gián đoạn sự phát triển và truyền thống của Phù Nam mà còn tăng tính độc đáo và linh hoạt của vương quyền – một nét độc đáo không từng thấy ở Đông Nam Á. Ba là, Phù Nam đã xây dựng được một hệ thống kênh đào hợp lí, gắn với nhu cầu sản xuất, giao thông và buôn bán đường biển, đã phản ảnh rõ rệt tác dụng điều hành bộ máy quản lí nhà nước của giai cấp thống trị. Thêm nữa, vua Phù Nam có thể viết 3000 câu chữ Hồ (chữ Ấn Độ), cho khắc 4 tấm bia đá chữ Phạn (sankrit), hàng chục tượng thần, tượng Phật bằng gỗ, đá cũng khẳng định thêm sự tài giỏi của giai cấp lãnh đạo mà đứng đầu là nhà vua.

doc71 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 5416 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ X, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hềm cao miền Nam, trải qua quá trình sinh sống họ tiến xuống gần biển, gặp người Biển – Nam Đảo. Quốc gia mới lập theo thói quen được gọi bằng tên tộc người bản địa (Người vùng núi) nên có tên là Phù Nam. Có lẽ họ chính là những chủ nhân của nền văn hoá Đồng Nai thời đại đồ đá, đồng. Bộ lạc thứ hai là Nam Đảo đến sau, sống chủ yếu ở ven biển. Trên miền Tây sông Hậu, họ kết hợp các yếu tố núi và biển, cùng nhau xây dựng quốc gia mới, bổ xung cho nhau sức mạnh và sở trường trên núi và trên biển: người Môn Cổ có khả năng chinh chiến và tổ chức xã hội, còn người Nam Đảo có khả năng khai thác hải sản và buôn bán với nước ngoài. Cư dân của văn hoá Óc Eo: Trước đây, người ta thường nhầm lẫn chủ nhân của nền văn hoá này là tổ tiên của người Khmer. Nhưng những phát hiện khảo cổ học ở Gò Cây Tung (An Giang), Gò Cao Su (Long An), Giồng Cá Vồ (Cần Giờ – TP Hồ Chí Minh)…đặc biệt là bôn có mỏ, rìu tứ giác và gốm văn in là đặc trưng cho vùng bán đảo Mã Lai và Giava là những nơi người nói tiếng Nam Đảo cư trú. Hơn nữa, sự phân tích các sọ cổ và xương người cổ ở những di tích văn hoá Óc Eo, các nhà nghiên cứu đều thống nhất, đây thuộc giống người Inđônêxia. Do vậy, có thể khẳng định rằng chủ nhân của nền văn hoá Óc Eo phần lớn là người thuộc nhóm Nam Đảo. Tóm lại, qua xem xét mối quan hệ giữa Vương quốc Phù Nam và nền văn hoá Óc Eo cho thấy: Văn hoá Óc Eo thực chất là văn hoá sơ sử và sơ kì của lịch sử Vương quốc Phù Nam. Nó là một bộ phận quan trọng góp tạo nên những thành tựu văn hoá đặc sắc của Vương quốc Phù Nam. Vậy cội nguồn của Vương quốc Phù Nam là nền văn hoá nào ? GS. Hà Văn Tấn trong khi nghiên cứu về văn hoá Óc Eo và Vương quốc Phù Nam có cho rằng: có một hay những con đường tiến lên văn hoá Óc Eo từ di chỉ thời đại sắt ở Nam Bộ. Điều đó có nghĩa là có thể tìm thấy được cội nguồn văn hoá Óc Eo từ bản địa. Nền văn hoá bản địa ở Nam Bộ mà tác giả nói đến ở đây có lẽ là nền văn hoá Đồng Nai (tồn tại cách ngày nay 7.000 năm). GS. Trần Quốc Vượng khi trình bày về văn hoá Đồng Nai trong cuốn "Cơ sở văn hoá Việt Nam" có đưa ra ý kiến cho rằng: Văn hoá Đồng Nai khi phát triển đến giai đoạn cuối thì kim khí đã chiếm vị trí quan trọng và giữ vai trò chủ đạo trong đời sống kinh tế, trên cơ sở đó tạo ra những tiền đề vững chắc cho sự ra đời của một nhà nước vào đầu công nguyên. Tiếp nối ý kiến này, GS. Lương Ninh trong cuốn "Vương quốc Phù Nam, Lịch sử và văn hoá" khi trình bày về nền văn hoá Đồng Nai, tác giả có đưa ra những căn cứ khảo cổ học cho rằng nền văn hoá Đồng Nai có nhiều khả năng có mối liên hệ với văn hoá Óc Eo: Gần địa điểm núi Ba Thê, nơi có di chỉ Óc Eo, chỉ cách khoảng 70 km đường chim bay, có tìm thấy những di chỉ có niên đại từ khoảng thế kỉ 6 – 7 TCN đến khoảng thế kỉ VII – VIII đầu công nguyên. Phải chăng đây là những dấu ấn phát triển của nền văn hoá Đồng Nai ? Từ những căn cứ trên, có thể tạm đi đến khẳng định cội nguồn của Vương quốc Phù Nam là nền văn hoá Đồng Nai – một nền văn hoá thuộc thời đại kim khí ở Nam Bộ. Sự ra đời của Vương quốc Phù Nam 2.1. Tiền đề về kinh tế và văn hoá Căn cứ vào những ý kiến đã trình bày trên, người viết cho rằng: Văn hoá Đồng Nai chính là nền văn hoá tạo những tiền đề về kinh tế và văn hoá cho sự ra đời của Vương quốc Phù Nam. Văn hoá Đồng Nai tồn tại cách ngày nay khoảng 7.000 năm, thuộc thời đại kim khí (đồng thau và sắt sớm). Văn hoá Đồng Nai là sự tích hợp của nhiều tiểu vùng văn hoá khác nhau, bao gồm 5 tiểu vùng: Ở vùng đồi đá phiến và badan đất đỏ thuộc Đồng Nai có những di tích (cư trú, mộ táng, xưởng) diện tích lớn, tầng văn hoá dày. Đây là vùng phát sinh và quần tụ quan trọng, liên tục nhất của văn hoá Đồng Nai, với những di tích Cầu Sắt, Suối Chồn, Phú Hoà, Hàng Gòn. Ở vùng đồi đá phiến và bazan đất đỏ dải cao nguyên Sông Bé có loại hình di tích đặc trưng là công trình đất đắp hình tròn với hai vòng thành và hào sâu ở Lộc Ninh – Bình Long. Vùng liên kết đồi bazan - đá phiến – phù sa cổ dọc hệ thống sông Bé, sông Đồng Nai, nơi tập trung dày đặc các di tích, di chỉ, mộ táng, xưởng thủ công đơn hay đa ngành, tiêu biểu nhất là Suối Linh, Bình Đa, Dốc Chùa. Vùng phù sa đất sám thuộc hệ thống sông Vàm Cỏ với những di chỉ, di chỉ kèm mộ đất như An Sơn, Gò Rạch Rừng, Đinh Ông, Rạch Núi. Vùng đồng bằng phù sa mới miền châu thổ hạ lưu sông Đồng Nai, Vàm Cỏ và những đầm lầy không và nhiễm mặn cận biển tiểu cùng kinh tế – văn hoá, mới tạo thành từ đầu thiên niên kỉ I trước công nguyên như Cái Vạn, Bưng Bạc, Bưng Thơm, Giống Phệt, Giồng Cá Vồ… Có thể nói, văn hoá Đồng Nai là bước mở đầu cho truyền thống văn hoá tại chỗ ở Nam Bộ với bản sắc riêng và sức sống mãnh liệt. Thông qua các di chỉ khảo cổ được tìm thấy có thể chỉ ra vài nét đặc trưng về kinh tế và văn hoá của nó: Về kinh tế, cư dân Đồng Nai trồng lúa trên cạn, không dùng sức kéo của trâu bò, trồng rau đậu, cây có quả, củ bằng phương pháp phát - đốt, đặc thù của nông nghiệp nương rẫy, chăn nuôi, săn bắn, hái lượm, đánh bắt tôm cá. Công cụ sử dụng của cư dân Đồng Nai ban đầu chủ yếu là đá. Kĩ thuật chế tác đá ở vùng này đã đạt đến trình độ tinh xảo. Kinh tế thủ công nghiệp vùng này rất phát triển, đặc biệt là nghề làm gốm. Nghề gốm đã xuất hiện và tồn tại trong suốt quá trình lịch sử của văn hoá Đồng Nai. Họ chỉ chế tạo và sử dụng đồ đun nấu, ăn uống đơn giản về dáng vẻ, mộc mạc và trang trí không cầu kì, song gốm được nung ở nhiệt độ cao bằng kĩ thuật bàn xoay. Về văn hoá, cư dân Đồng Nai có đời sống tinh thần khá phong phú. Điều này được thể hiện qua một loạt các hiện vật về nghệ thuật. Tín ngưỡng đặc sắc nhất là sưu tập thẻ đeo bằng đá cuội, mài dẹt hình gần ôvan hoặc chữ nhật và bán cầu có lỗ thủng tròn hay tạo núm ở đầu, tượng lợn, rùa bằng sa thạch, tượng chó săn mồi bằng đồng…Ngoài ra, người ta cũng phát hiện thấy nhiều đồ trang sức như vòng, các vật dùng để đeo…Đặc biệt, các nhà khảo cổ học còn tìm thấy nhiều thanh và mảnh của một loại đàn đá. Những điều đó chứng tỏ đời sống tinh thần của cư dân Đồng Nai đã khá phát triển. 2.2. Ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ và sự ra đời của Vương quốc Phù Nam Theo thư tịch và bi ký, lúc bấy giờ ở vùng đất Nam Bộ Việt Nam sang đến Biển Hồ (tức Campuchia) có 7 liên minh bộ tộc của cư dân bản địa và một số thị tộc, bộ lạc sống lẻ tẻ ở miền núi. Đứng đầu liên minh bộ tộc là một nữ chúa mà các sách sử Trung Quốc đều gọi là Liễu Diệp. Khoảng thế kỉ thứ I, người Ấn Độ mà sử Trung Quốc gọi là Hỗn Điền đem quân đội theo đường biển tấn công vào Vương quốc của Liễu Diệp, lấy Liễu Diệp làm vợ, thay vợ làm vua đất này. Dần dần, Hỗn Điền chinh phục các thị tộc và bộ lạc khác, lập ra nước Phù Nam. Các thư tịch cổ của Trung Quốc có chép lại sự kiện này. Tấn thư kể sớm nhất về sự kiện này: "Vua nước đó (Phù Nam) vốn là người con gái, tên là Liễu Diệp. Thời đó, có người nước ngoài là Hỗn Hội thờ tiên thần, nằm mộng thấy thần ban cho cây cung, và dạy là phải đi thuyền lớn ra biển. Sáng ngày, Hỗn Hội đến đền thờ thần, được cây cung, rồi theo thuyền lênh đênh ra biển tới ấp ngoài của nước Phù Nam. Liễu Diệp đưa người ra chống lại. Hỗn Điền giương cung bắn, Liễu Diệp sợ hãi xin hàng. Hỗn Hội bèn lấy làm vợ và chiếm cứ đất nước". Nam Tề thư chép lại có khác chút ít: "Người ngoài cõi tên là Hỗn Điền đến miếu thờ thần, nhặt được cây cung dưới gốc cây…Hỗn Điền lấy Liễu Diệp làm vợ…cai trị nước đó, con cháu truyền cho nhau". Lương thư có chép lại nhưng chi tiết hơn, hợp lí hơn: "Liễu Diệp tuổi trẻ, khoẻ mạnh như con trai…Người của Liễu Diệp đông, thấy thuyền đến thì muốn bắt giữ. Hỗn Điền giương cung bắn, tên xuyên qua bên mạn thuyền, đến theo những kẻ hầu. Liễu Diệp sợ hãi xin hàng. Hỗn Điền lấy Liễu Diệp làm vợ rồi cai trị nước Phù Nam" Theo: Lương Ninh, Vương quốc Phù Nam, Lịch sử và văn hoá, Viện VH & NXB VHTT, Hà Nội, 2005, tr 31 – 32 . Như vậy, thư tịch cổ tuy chép có khác nhau về tên nhưng về cơ bản là thống nhất sự ra đời của Vương quốc Phù Nam như trên đã trình bày. Hỗn Điền cai trị nước Phù Nam, ông không bằng lòng khi thấy lối trang phục của vợ nên đã lấy vải xếp lại và tròng từ cổ xuống để che thân cho vợ. Ngoài việc dạy phụ nữ mặc y phục, ông còn đem pháp luật, chữ viết và tôn giáo Ấn Độ truyền vào Phù Nam. Như vậy, từ ngay trong sự ra đời của Vương quốc Phù Nam đã có sự ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ. Sau này trong quá trình phát triển, văn hoá Phù Nam tiếp tục tiếp nhận những yếu tố văn hoá của Ấn Độ, khiến cho nền văn hoá của quốc gia này mang đậm phong cách văn hoá Ấn. Tuy nhiên, dù có quan trọng đến đâu thì cũng phải khẳng định rằng văn hoá của Phù Nam vẫn là văn hoá bản địa, văn hoá Ấn chỉ tiếp thêm sức mạnh vào sự phát triển tự thân của nền văn hoá của Vương quốc này mà thôi. * Tên gọi Phù Nam Phù Nam là cách phát âm theo giọng bạch thoại của Trung Quốc trong thư tịch cổ Trung Hoa "Fou – nan". Nó xuất phát từ ngôn ngữ Khmer cổ là Vnam Bnam, Bnơm, Pnông có nghĩa là núi đồi. Đây là tiếng của các cư dân miền núi tự gọi mình. Nhiều nhà khoa học đoán định rằng, họ chính là chủ nhân của nền văn hoá Đồng Nai. Do đó, Phù Nam chính là cách phiên âm tên tộc người của bộ lạc Môn Cổ gọi họ là Người miền núi. Vương tước của Phù Nam gọi vua là Sailaraja (tiếng Phạn) hay Kurung Bnam có nghĩa là "Vua núi". * Kinh đô của Vương quốc Phù Nam: Theo L. Malleret – người đầu tiên tiến hành khai quật Óc Eo thì khẳng định rằng: Óc Eo là cảng còn đô thì ở địa điểm trên thềm cao phía Tây An Giang, nay gọi là Angco Bôray chuyển âm từ tên cổ Nagarapura (nghĩa là Quốc đô), nay là tỉnh K, rivông và tỉnh Takeo (Campuchia) giáp với tỉnh An Giang (Việt Nam), nơi có dấu vết đền, tháp, thành và nhất là nơi có tượng và gốm hoàn toàn thuộc loại gốm Óc Eo. Một tấm bia tìm được ở Vương quốc Phù Nam thì cho rằng: Tên kinh đô là Vyadhapura (Vyadha: Người đi săn; Pura: Thành phố / Kinh đô). Có nghĩa Kinh đô của Vương quốc Phù Nam là Thành phố của người đi săn Theo: Lương Ninh (cb): Lịch sử Việt Nam giản yếu, NXB CTQG, Hà Nội, 2005, tr 96 . Lý giải về điều này, các nhà nghiên cứu đã căn cứ vào các thư tịch cổ Trung Quốc và những Thư tịch cổ chép "Vua đặt kinh đô ở Đặc Mục" lại ghi "vua thích đi săn, mọi người cưỡi voi đi săn nhiều tháng, nhiều ngày". Người ta bắt đầu đi tìm nghĩa của tên Đặc Mục là gì? Năm 1944, một học giả bản sứ đã giải đáp Đặc mục (dalmak) nghĩa là chiếc thòng lọng; ông coi đây là dụng cụ bắt voi, là từ nguyên của Đặc Mục, ngữ nghĩa của Vyadha. Từ sự lí giải này càng khẳng định kinh đô của Vương quốc Phù Nam là Vyadhapura có nghĩa là Thành phố của người đi săn. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là giả thuyết, hơn nữa, nơi đây không tìm thấy dấu vết của kinh và thành gì cả. Trong nhiều giáo trình của các tác giả miền Nam Việt Nam viết về Phù Nam cũng đều cho rằng Kinh đô của Vương quốc Phù Nam Vyâdhapura (nghĩa là Kinh đô của người đi săn). Vậy thực chất kinh đô của Phù Nam nằm ở đâu và tên là gì ? Tác giả Lương Ninh trong cuốn "Vương quốc Phù Nam – Lịch sử và văn hoá" đã khẳng định: Chính tên gọi kinh đô của Phù Nam đã Khmer hoá, tưởng là một từ Khmer nhưng thực ra là chuyển âm từ tiếng Phạn, gọi từ thời Phù Nam, Nagara Pura nghĩa là Đô thành quốc gia Theo: Lương Ninh, Vương quốc Phù Nam, Lịch sử và văn hoá, Viện VH & NXB VHTT, Hà Nội, 2005, tr 56 . * Quá trình phát triển của Vương quốc Phù Nam Vương quốc Phù Nam ra đời đầu thế kỉ I sau công nguyên, tồn tại đến đầu thế kỉ VII, chia làm 3 giai đoạn chính: Thời kì sơ kì: đầu thế kỉ I – đầu thế kỉ III Thời kì phát triển: đầu thế kỉ III – nửa đầu thế kỉ VI Thời kì suy vong: nửa đầu thế kỉ VI – nửa đầu thế kỉ VII * Thời kì sơ kì: đầu thế kỉ I - đầu thế kỉ III Đây là giai đoạn lập nước. Liễu Diệp kết hôn cùng Hỗn Điền sinh 7 con trai, phân cho làm vua 7 ấp, rồi Hỗn Bàn Huống cũng làm vua lập kế li gián 7 ấp, "nhân đó cử binh đi đánh chiếm, rồi cho con cháu phân chia cai trị các ấp, hiệu là tiểu vương". Qua đó, có thể thấy thời kì này Vương quốc Phù Nam còn tồn tại phân tán, gồm nhiều tiểu quốc. Trong giai đoạn có vua cai trị vương quốc. Đây là giai đoạn khắc phục tình trạng phân tán quyền lực, ổn định và phát triển. Đây cũng là giai đoạn định tên nước và kinh đô. * Thời kì phát triển: đầu thế kỉ III – nửa đầu thế kỉ VI Đây là thời kì thịnh đạt của Vương quốc Phù Nam. Do đó, một mặt, Phù Nam sử dụng sức mạnh quân sự cũng như vị trí địa lý thuận lợi để xâm lược một số nước lãng giềng; mặt khác, mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng, đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ. 2.1. Phù Nam cũng dùng quân đội để chinh phục các nước Lương thư có chép lại: Trong 10 đời vua đầu của Phù Nam, đến đời vua thứ 5 là Phạm Sư Man (225 – 230) đã mạnh, Phù Nam đem quân chinh phạt các nước lân bang, bắt phải thần phục “đóng tàu to vượt biển lớn, chinh phục hơn 10 nước” ở phía Tây, gần Ấn Độ. Nước đầu tiên mà Phù Nam chinh phục là Chân Lạp. Chân Lạp là bộ lạc Môn Cổ, sinh sống ở hạ lưu Sê Mun và trung lưu sông Mê Kông.Trong quá trình sinh sống, họ tự lập thành quốc gia, gọi theo tên vua là Bhavapura, mà người Trung Hoa gọi tên là Chân Lạp. Tuy nhiên, Phù Nam quan tâm nhiều hơn đến các nước ở vùng biển phía Tây, vì các nước này có vị trí chiến lược quan trọng. Thứ nhất, nước Đốn Tốn (cửa ngõ phía Tây của Phù Nam). Sách Lương thư tả "cách Phù Nam hơn 3000 lí về phía Nam, ở trên biển cao lởm chởm, đất rộng không quá 1000 lí…hình vòng cung, chạy dài ra biển hơn nghìn lí", "thành cách biển 10 lí (khoảng 20 km), có 5 vua, thần thuộc Phù Nam" Theo: Lương Ninh, Vương quốc Phù Nam, Lịch sử và văn hoá, Viện VH & NXB VHTT, Hà Nội, 2005, tr 63 . Như thế, chắc rằng Đốn Tốn nằm trên hạ lưu sông Chao Praya và phần phía Bắc bán đảo Malaya, đại để từ Chanthabun vòng qua Pra Pathom và Pongtuk xuống phía Nam, đến Chumpon và eo Kra. Đây là nơi chắn ngang đường biển từ Ấn Độ tới biển Đông, nơi họp chợ thế giới. Do là nơi quan trọng như vậy nên Phù Nam đã sớm nắm quyền chi phối, cai quản. Thứ hai là nước Xích Thổ, "Do đất ở kinh đô màu đỏ mà nước gọi là Xích Thổ; nước giáp Ba La Thích ở phía Đông, Bà La Sa ở phía Tây, Kha La Đán ở phái Nam và biển lớn ở phía Bắc, đất rộng vài nghìn lí…" "Thường Tuấn giong buồm đi trong hai tuần…thả neo (nghỉ) ở đảo đối diện Lâm ấp, rồi đi tiếp về phương Nam, đến gần núi sư tử thì thấy những hòn núi (đứng) thành chuỗi dài. Hai ba ngày sau, họ bắt đầu nhìn thấy dãy núi ở nước Lang Nha Tu; họ men theo phía Nam đến đảo Kê Lung (Lồng Gà) thuộc nước Xích Thổ…hơn một tháng sau thì vào kinh đô…" Theo: Lương Ninh, Vương quốc Phù Nam, Lịch sử và văn hoá, Viện VH & NXB VHTT, Hà Nội, 2005, tr 76 . Với những ghi chép trên, rõ ràng là Xích Thổ không thể nằm trong đất liền được. Ngày nay, người ta biết khá chắc rằng các nước này nằm gọn trên đảo Malaya, gồm cả vùng Chao Praya được gọi là Xích Thổ và Đốn Tốn. Đây là những nước nằm án ngữ trên đường buôn bán Đông – Tây, do đó, Phù Nam đã chinh phục và chiếm lấy. Lý giải về việc Phù Nam có thể chinh phục và buộc nhiều nước thần phục mình, các nhà nghiên cứu cho rằng: Một là, do quân đội Phù Nam mạnh; Hai là, do vị trí chiến lược quan trọng của Phù Nam và ưu thế về kinh tế của Phù Nam so với các nước láng giềng bấy giờ. Trong hai nguyên nhân này, có lẽ nguyên nhân thứ hai là quan trọng hơn. Sau khi chiếm được các nước trên đây, lãnh thổ của Phù Nam được mở rộng, Phù Nam có điều kiện phát triển mậu dịch hàng hải, sớm trở thành một trong những trung tâm buôn bán lớn ở Đông Nam Á thời cổ đại. 2.2. Quan hệ bang giao, hoà hảo với các nước láng giềng khác Mối quan hệ Phù Nam – Lâm Ấp (Chămpa) Trong một tờ biểu vua Phù Nam dâng nhà Tiền Tống (năm 484) có nói: "Lâm Ấp và Phù Nam vốn cương giới liền nhau, thân thiện…". Sự thực đúng như tờ biểu này nói. Nơi giáp ranh hẳn là vùng sông Đồng Nai - nơi in đậm dấu tích văn hoá Đồng Nai và văn hoá cổ Phù Nam gắn với Phù Nam; liền kề vùng Phan Thiết – Bình Thuận, nơi phát hiện được những mảnh gốm Chăm, gốm Trung Hoa, thời Lục Triều và Tuỳ (thế kỉ V – VI), một số tượng đồng nhỏ, trong đó có hai pho tượng Phật đứng, nhỏ, có thể nằm trong nhóm tượng Phù Nam (thế kỉ IV – V). Như vậy, hai vùng đất liền kề, chắc chắn có quan hệ giao lưu kinh tế, văn hoá "thân thiện", nhưng Đồng Nai đã nằm trong sự phát triển của Phù Nam và Bình Thuận cũng đã nằm trong sự phát triển của Chămpa, gắn kết với Vương quốc Chămpa từ thời vua Bhavavarman, thế kỉ IV. 2.2.2.Quan hệ với Trung Quốc và Ấn Độ Trong mối quan hệ với Trung Quốc, Phù Nam vừa thần phục và triều cống; vừa có quan hệ thương mại, giao lưu buôn bán và đặc biệt là giao lưu văn hoá. Năm 243, dưới thời Tam quốc, Phạm Chiên đã phái sứ bộ qua triều đình nhà Đông Ngô…khoảng năm 245 – 250, dưới thời Tôn Quyền, triều đình nhà Đông Ngô lại phái Khang Thái và Chu Ứng đi sứ Phù Nam Theo: Phan An, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường, Võ Sĩ Khải, Lịch sử Việt Nam (từ đầu đến 938), tập 2, NXB, Trẻ, TPHCM, tr 283 - 284 . Năm 535 – 545, triều đình nhà Lương cử một phái bộ đến Phù Nam xin nhà vua cho sưu tầm kinh Phật và thỉnh cầu các cao tăng qua giảng dạy Phật pháp ở Trung Quốc. Nhân việc này, vua Phù Nam cũng phái hoà thượng Ấn Độ là Paramarth (Gunaratra) đang hành đạo ở Phù Nam mang theo 240 bộ kinh sách đến triều đình Trung Hoa. Đối với Ấn Độ, mối quan hệ chủ yếu với Phù Nam là giao lưu văn hóa. Phù Nam liệt truỵên của Khang Thái viết: "Khi xưa, dưới triều Phạm Chiên có một người nước Đàm Dương tên là Gia Tường Lê từ Ấn Độ, đi từng chặng đường đã đến mua bàn ở Phù Nam. Người ấy kể với vua Phạm Chiên về những tập quán, vẻ huy hoàng và sự trù phú của Ấn Độ. Phạm Chiên phái tô vật sang sứ Ấn Độ…Quốc vương (Ấn Độ- TG chú) cho người đưa phái bộ đi thăm thú trong nước, và khi họ ra về, ông đã gửi tặng vua Phù Nam bốn con ngựa của xứ Nguyệt Chi…" Năm 357, Trúc Chiêu Đàn chiếm ngôi của Phù Nam. Đây là giai đoạn loạn lạc vì theo Tấn thư, năm 357, "Trúc Chiêu Đàn tự xưng làm vua". Tuy nhiên, thời kì này cũng đánh dấu bước chuyển quan trọng của Vương quốc Phù Nam. Những chinh phục của vương triều Gupta đã thúc đẩy đợt thiên di của người Ấn Độ về các vùng đất phía Đông Vịnh Bengan, các vùng hải đảo, nội địa Đông Nam Á. Những người này du nhập tiếng Phạn vào Chămpa, Borneo và Giava. Cũng trong bối cảnh đó, Phù Nam lại tiếp thu thêm đợt ảnh hưởng trực tiếp của văn hoá Ấn Độ. 2.3. Thời kì suy vong: nửa đầu thế kỉ VI – nửa đầu thế kỉ VII Nam Tề thư có chép: dường như thế kỉ V, trong triều đình Phù Nam bắt đầu nảy sinh sự tranh chấp mâu thuẫn hoàng gia. Đầu thế kỉ VI, mậu dịch hàng hải quốc tế có thể đi vòng bán đảo Malaysia đến thẳng eo biển Sunda (Giava) thì thuận tiện hơn là phải quá cảnh qua eo đất T- rang ở giữa bán đảo Malaysia. Vai trò trung tâm thương mại của Phù Nam bị giảm sút nghiêm trọng, việc sản xuất, buôn bán ngày càng khó khăn hơn. Đây là nguyên nhân quan trọng dẫn tới sự suy yếu của Vương quốc Phù Nam vào thời gian ngay sau đó. Năm 514, vua Jayavacman I mất, con ông lên kế vị hiệu là Rudravaman (người đã giết Thái tử Gunavarman chiếm ngôi). Năm 550, một người thuộc phe Thái tử Gunavarman chiếm kinh đô và lên làm vua. Nhân cơ hội này, từ Chân lạp, Bhavavarman (cháu của Rudravaman cưới công chúa Chân Lạp và trở thành vua nước này) đã tiến đánh và chiếm kinh đô. Vua Phù Nam phải chạy xuống phía Nam, lập triều đình tại Na Phất Na (Naravaragara). Tuy vậy, triều đình Phù Nam vẫn còn chống giữ đến năm 627 mới bị tiêu diệt hoàn toàn. Trong khoảng thời gian này, họ có gửi sứ thần sang Trung Hoa cầu cứu đánh Chân Lạp nhưng bị khước từ. Sử nhà Đường có chép: Đến đầu đời Trinh Quán nhà Đường (627 – 649): "Chân Lạp đã chinh phục nước Phù Nam và chiếm lấy đất đai" Ở những nơi mà họ chiếm được, người Chân Lạp có ý định áp đặt chính quyền của họ và văn hoá Chân Lạp như lập đền thờ thần, dựng bia chữ Khmer. Song chính quyền Chân Lạp cũng không ổn định. Mâu thuẫn trong triều dẫn đến sự tách dời thành hai quốc gia là Lục Chân Lạp và Thuỷ Chân Lạp (731 – 787). Người Giava đã voà cướp phá đất Thuỷ Chân lạp, tức vùng châu thổ cho đến trung lưu sông Mê Kông. Họ chiếm đóng vùng đất này (787 – 802) sau khi bắt về Giava một số nhân vật quan trọng trong hoàng gia Chân lạp. Đến năm 800, nhân cơ hội thuận tiện, một hoàng thân Chân Lạp trốn về được, tập hợp lực lượng, khôI phục lại chủ quyền, rồi tự lập làm vua, lấy hiệu là Giayavâcmn II (802 – 850). Chân Lạp vẫn ở trong tình trạng tản quyền kéo dài đến thế kỉ X, khi Ragiendravácman II làm vua (944 – 968) mới thực hiện được việc thống nhất dòng họ, thâu tóm đất cũ của Thuỷ Chân Lạp và Lục Chân Lạp. . 2.2 Tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội Phù Nam từ thế kỉ II đến thế kỉ VI. 1. Chính trị (Chế độ nhà nước là chế độ phong kiến. Vương quyền được kết hợp chặt chẽ với thần quyền, tôn giáo được sử dụng như một công cụ hữu hiệu của giai cấp thống trị.) Tổ chức bộ máy nhà nước Vương quốc Phù Nam được tổ chức theo chế độ quân chủ, đứng đầu là vua. Vua tự xưng là Hoàng đế vũ trụ (Parvatabhupâla). Vua Phù Nam không chỉ cai quản lãnh thổ của mình mà cai quản cả lãnh thổ đã xâm chiếm được. Tuy nhiên, đây không phải là một nhà nước có tổ chức thống nhất mà chỉ là tập hợp của các tiểu quốc, trong đó mỗi tiểu quốc vẫn giữ nguyên tổ chức, tên gọi và cả truyền thống của mình (trường hợp của Chân Lạp). Các tiểu quốc chỉ là những nước chư hầu, cai trị bởi tiểu vương và phải nộp cống phẩm cho quốc vương Phù Nam. Nhà vua mặc áo dài có thắt lưng vàng, đeo chuỗi ngọc, đội mũ cao, thường thì màu trắng gồm nhiều lớp, đeo kiếm vàng. Triều đình họp ngay trên lầu. Dưới triều Phạm Tầm "sáng và trưa, vua cho quần thần bệ kiến ba bốn lần. Dân chúng trong nước dâng lên vua những tặng phẩm như chuối, mía, rùa, chim muông" Theo: Phan An, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường, Võ Sĩ Khải, Lịch sử Việt Nam (từ đầu đến 938), tập 2, NXB, Trẻ, TPHCM, tr 295 . Nhà vua cũng sử dụng nô lệ để hầu hạ. Tổ chức bộ máy nhà nước của Phù Nam giống như chế độ phân tán quyền lực của vua ở Tây Âu. Do đó, có thể giúp chúng ta đi đến nhận xét là tính chất chuyên chế ở đây không cao. Quân đội: Quân đội Phù Nam rất giỏi về chinh chiến, khí giới thông dụng gồm có: kiếm, lao, cung, nỏ và khiên. Pháp luật: Ở đây, vương quyền được kết hợp chặt chẽ với thần quyền. Đạo Bàlamôn được sử dụng làm công cụ hữu hiệu hoá uy quyền của nhà vua. Thư tịch cổ có chép lại: "Trong nước không có nhà tù. Phạm nhân thoạt tiên phải nhịn ăn 3 ngày, sau đó phải cầm trong tay một lưỡi rìu hay một xích sắt được nung đỏ và bước đi 7 bước. Hoặc người ta thả vào nồi nước sôi những chiếc vòg vàng hay những quả trứng gà và phạm nhân phải dùng ta nhúng vào để lấy ra. Nếu có tội thì tay sẽ bị bỏng, nếu vô tội thì bàn tay không sao cả. Hoặc người ta nuôi cá sấu trong những hào thành hay những thú dữ khác trong một khoảng được vây kín. Phạm nhân bị ném vào hầm thú dữ hay hào cá sấu. Nếu không bị mãnh thú ăn thịt thì đương sự được xem là vô tội và sau ba ngày thì được phóng thích…Hoặc người ta dìm phạm nhân xuống nước, người vô tội không bị chìm, kẻ có tội thì bị chìm sâu" Nam Tề thư và Lương thư - Theo: Phan An, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường, Võ Sĩ Khải, Lịch sử Việt Nam (từ đầu đến 938), tập 2, NXB, Trẻ, TPHCM, tr 294 . Một cách điều tra kẻ phạm tội được ghi lại như sau: "Khi trong nhà một người Phù Nam bị mất cắp, người ta lấy một hũ cơm, mang đến khấn thần linh chỉ tên ăn trộm. Hũ cơm được đặt dưới chân tượng thần. Sáng hôm sau, chủ nhà lấy hũ cơm đó về và gọi các gia nhân ra, chia cơm ấy cho họ ăn. Nếu là kẻ gian thì miệng chảy máu, không nuốt được cơm, trái lại, người vô tội sẽ ăn được cơm ngay. Lối tra án này được áp dụng ở Nhật Nam và cả những vùng biên cảnh" Thái Bình ngự lãm, chương Ngoại quốc truyện - Theo: Phan An, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường, Võ Sĩ Khải, Lịch sử Việt Nam (từ đầu đến 938), tập 2, NXB, Trẻ, TPHCM, tr 294 . Như vậy, có thể nói những tư tưởng công bằng và luật trên đây còn rất thô sơ. Tuy có chịu ảnh hưởng của luật pháp Ấn Độ (mang tính chất tôn giáo) nhưng chưa thành hệ thống pháp lí, so với cách phán xử của Ấn Độ vào cùng thời đại đó Vào đầu thế kỉ thứ V dưới Vương triều Gupta, theo những ghi chép của nhà sư Pháp Hiển, một người Trung Hoa đã từng viếng thăm ấn Độ từ năm 399 – 414: "Nhà vua trị quốc mà không dùng án tử hình. Chỉ những phạm nhân hình sự mới bị kết án, nặng nhẹ tuỳ theo trường hợp. Thậm chí đối với những hành động tái phạm nhiều lần tội phản nghịch, tội nhân cũng chỉ bị chặt bàn tay phải" . 2. Kinh tế (Kinh tế: Hoạt động kinh tế chính là nông nghiệp trồng lúa nước kết hợp với thủ công nghiệp và ngoại thương. Nhiều ngành nghề khá phát triển, như: luyện kim, nấu thủy tinh, chế tác ngọc, gốm màu, gạch, kim hoàn, xây dựng, tạc tượng, nghề cá, trồng lúa nước (lúa sạ), đóng tàu lớn, dệt vải, thêu thùa, làm muối, làm giấy (bằng bông gòn)...) 2.1. Nông nghiệp Vương quốc Phù Nam nằm trên vùng khí hậu nhiệt đới ẩm, đất đai vốn là đầm lầy nên rất màu mỡ, lại nằm trên lưu vực của các con sông lớn (trung và hạ lưu sông Mê Kông). Đó là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp. Phù Nam kí cho biết: "Cư dân Phù Nam làm ruộng theo lối cổ, gieo giống một năm gặt hái luôn 3 năm". Kết quả của những cuộc khảo sát và khai quật khảo cổ học đã minh hoạ khá rõ nét những chi tiết về đời sống kinh tế của người Phù Nam được chép lại trong các sử liệu của Trung Hoa. Tác giả Nguyễn Xuân Hiển khi trình bày về "Nghề trồng lúa cổ ở Óc Eo trong "Văn hoá Óc Eo và các văn hoá cổ ở đồng bằng sông Cửu Long" có xác nhận: "Bằng chứng khảo cổ học càng khẳng định truyền thống và tính đa dạng của hoạt động trồng lúa. Những di chỉ khảo cổ học ở miền Đông đồng bằng Nam bộ như Lộc Chánh, An Sơn (Đức Hoà, Long An), Rạch Núi (Cần Giuộc, Long An)…Bình Tả (Đức Hoà, Long An) và miền Tây đồng bằng như Nền Chùa (Kiên Giang), Đồng Tháp…cho những chứng cứ không thể rõ ràng hơn về hoạt động trồng lúa vào những niên đại khá sớm – thuộc thời đại đồng thau " Theo: Phan An, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường, Võ Sĩ Khải, Lịch sử Việt Nam (từ đầu đến 938), tập 2, NXB, Trẻ, TPHCM, tr 296 . Các nhà nông học đã chứng minh có một loại lúa nổi, dạng hạt thon thuộc loại lúa của cư dân ở Nền Chùa “lúa nổi được trồng ở thượng châu thổ, nơi ngập nước sâu nhiều tháng trong năm. Các giống lúa nổi có khả năng chịu đựng được tình trạng ngập sâu, tăng trưởng rất nhanh..ít phải chăm bón nhưng năng suất thấp” Theo: Lương Ninh, Vương quốc Phù Nam, Lịch sử và văn hoá, Viện VH & NXB VHTT, Hà Nội, 2005, tr 126 . Tuy năng suất thấp nhưng diện tích lớn, nên không thiếu lương thực. Mặt khác, những di chỉ khảo cổ học thuộc văn hoá Óc Eo ở đồng bằng Nam Bộ phần lớn được phân bố ở các tụ điểm, các đầu mối, những tuyến giao thông đường thuỷ được nối liền với nhau bằng những kênh đào tạo thành hệ thống thuỷ lợi rộng lớn. Đặc biệt là con kênh đào dài khoảng 80 km chạy thẳng từ Angkor Borei (gần Châu Đốc), theo hướng Đông Nam chạy đến ranh giới tỉnh Kiên Giang, nối liền hơn một chục di chỉ khảo cổ. Từ đó có thể thấy, "…"Nông nghiệp trồng lúa cổ Óc Eo thuộc dạng trồng lúa đầm lầy, đã sử dụng kênh rạch để hỗ trợ cho cây lúa". Mạng lưới kênh đào này cũng cho thấy tầm quan trọng của các công trình thuỷ lợi trong hoạt động nông nghiệp ở Phù Nam và sự phát triển của nông nghiệp ở Vương quốc này. Như vậy, chúng ta có thể đoán định được rằng: nền nông nghiệp của cư dân cổ Phù Nam có nhiều điểm giống với nghề nông trồng lúa nước ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay. Bên cạnh nông nghiệp, một bộ phận dân cư ở đây cũng sống bằng nghề săn bắn, hái lượm và đánh cá…Tuy nhiên, bộ phận này rất ít chủ yếu là bộ tộc Môn Cổ còn chủ yếu vẫn sống bằng nông nghiệp trồng lúa nước. 2.2. Thủ công nghiệp Thủ công nghiệp đã phát triển tới một trình độ cao. Thư tịch cổ Trung Hoa có ghi lại: "Họ thích điêu khắc và dùng đục chạm trổ rất khéo". Tề thư cũng viết: "Người Phù Nam đúc nhẫn và vòng bạc bằng vàng, chén đĩa bằng bạc". Qua nghiên cứu sự phát triển của thủ công nghiệp ở Phù Nam dễ dàng nhận thấy hai đặc điểm nổi bật: Thứ nhất, sự phong phú và đa dạng của các nghề thủ công. Qua các hiện vật tìm được ở di chỉ văn hoá Óc Eo có thể thấy sự đa dạng của các ngành nghề ở đây: nghề mộc (di vật cột nhà và sàn nhà, lan can, giá đèn bằng gỗ), nghề đá (đá xây dựng, dụng cụ bằng đá như bàn nghiền, cối, chày), nghề tạc tượng (đá và gỗ), nghề làm gạch và vật liệu trang trí (đất nung), nghề xây dựng (đền đài, mộ táng), nghề đóng thuyền (theo sử liệu và di vật thuyền), nghề gốm (công cụ chế tác như bàn xoa, bàn dập hoa văn, trục bàn xoay, giá nung gốm, những dụng cụ bằng gốm nhiều loại, nhiều cỡ), nghề luyện kim gồm các chuyên nghề chế tác đồ đồng (thoi, lá, dây đồng và các loại sản phẩm như tượng thần, tượng người, tượng thú, giá đèn, chuông nhạc, đồ trang sức, đồ trang trí, đồ đựng) nghề chế tác sắt (quặng sắt, khuôn luyện sắt, xích đục), nghề chế tác thiếc (tượng người, tượng thú, bùa đeo, đồ trang sức, đồng tiền), nghề kim hoàn (đá thử quý kim, búa, dùi, rất nhiều đồ trang sức bằng vàng, bạc, đá quý, thuỷ tinh…) Thứ hai, sự phát triển ở trình độ cao của một số nghề thủ công. Trong số các nghề thủ công ở đây, phát triển nhất phải kể đến là nghề làm gốm. Theo kết quả khảo cứu của nhà khảo cổ học người Pháp L. Malleret thì có thể xây dựng tiêu chí gốm của Phù Nam như sau: - Xương gốm có hai loại: mịn, có màu xám trắng và thô; có mầu xám thẫm hoặc gần đen. Loại mịn mỏng hơn khoảng 5 mm. Loại thô dày hơn, khoảng 10 mm. Cả hai loại đều có độ nung khá cao. - Áo gốm có hai màu chính: vàng nhạt và vàng thẫm, ngả hồng, riêng màu xám dùng cho xương gốm xám thẫm và đen. Hầu như gốm Phù Nam đều có một lớp áo dày dặn, không có gốm mộc. - Hoa văn trên gốm Phù Nam đặc biệt phong phú L. Malleret đưa ra 11 bảng gồm 101 mẫu hoa văn, nhưng lịa có thể thu về 5 mẫu chính phổ biến: Đường răng lược kép vẽ hình uốn lượn đều đặn. Đường nửa tròn xoáy nối nhau. Văn xương là cây. Xen kẽ đường uốn lượn, đường gãy khúc với dải băng song song ở trên dưới. Văn sóng nước gây ấn tượng phổ biến nổi bật trong văn gốm Phù Nam. Hình vật gốm mới thực sự tạo nên đặc trưng riêng của gốm Phù Nam: Người ta đã làm đủ các đồ dùng đáp ứng nhu cầu đời sống hàng ngày như bình, vò, ấm, tô, đĩa, chai và bàn bếp gắn đầu rau với nhiều chi tiết đặc biệt như: Ấm tương đối lớn, 2 – 5 lít, đựng nước đi cả ngày. Ấm có nắp đậy hình đĩa để ngửa, đỡ bật rơi khi thuyền chòng chành. Nắp ấm không có núm cầm, vì để ngửa mà có lỗ trũng để móc ngón tay khi cần mở. Ấm có vòi cao, đỡ tràn nước ra ngoài. Đầu vòi gắn một vàng đĩa nhỏ, dẹt, làm kiểu cách cho đẹp hay để phải rót mà không thể ngậm miệng để tu mà nhiều tác giả gọi là có nhẫn. Nhiều gốm đã bị vỡ nhưng vẫn còn những cái nắp hình đĩa có lỗ trũng, cái vòi có nhẫn và cái u đầu rau của bếp, nhỏ, đặc sắc, chắc, già lửa, ít bị vỡ, làm thành đặc trưng độc đáo, rất riêng biệt, dễ nhận biết của gốm Phù Nam. Rất nhiều viên chì, lưới, cùng với những chân nến hay bình hương bằng đất nung, kiểu rất đặc sắc, dường như phản ánh cuộc sống trên sông nước. Những nét đặc sắc đó cho thấy có một kĩ nghệ gốm, một nền văn hoá gốm Phù Nam, phân biệt rõ rệt với gốm của các vùng, các sứ láng giềng, và hẳn không chỉ độc đáo mà còn ở trình độ phát triển cao hơn. Gốm của các vùng khác còn xa mới gần được trình độ sản xuất gốm như Phù Nam. Có được sự phát triển cao như vậy là do người Phù Nam đã kế thừa được thành tựu của làm gốm của cư dân nền văn hóa Đồng Nai; mặt khác, nó xuất phát từ đặc trưng của Vương quốc Phù Nam chủ yếu gồm sông, biển. Do đó, đồ gốm ở đây không những phải đáp ứng nhu cầu đời sống hàng ngày của nhân dân mà còn phải phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng này thì mới sử dụng có hiệu quả được. Nghề luyện kim bản địa cũng đạt trình độ khá cao. Các nghề luyện sắt, đồng, thiếc đều phát triển với những thoi đồng, thoi thiếc, tượng người, tượng vật, giá đèn, chuông, nhạc cụ, đồ trang sức, đồ trang trí, con dấu, tiền… Theo Lương thư, "họ đúc được các hình tượng thần bằng đồng 2 mặt 4 tay, hình mặt thì 8 tay, mỗi tay cầm một thứ đồ vật như một đứa trẻ, một con chim, một con thú 4 chân, hoặc hình mặt trời, mặt trăng". Nghề kim hoàn ở Phù Nam cũng rất phát triển. Sử chép: Dân Phù Nam thích chạm trổ trên vàng lá. Họ đúc chén đĩa bằng bạc, nhẫn vòng tay bằng vàng; mặt nhẫn, hạt chuỗi bằng kim cương, đá quý, thuỷ tinh… Người Phù Nam thường dùng vàng, bạc, châu ngọc làm đồ cống nạp và nộp thuế. Bên cạnh đó, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy khá nhiều mảnh lá vàng ở các ngôi đền. Đó là những lá vàng mỏng, hình tròn, vuông hay hình chữ nhật, trên đó chạm khắc hình các thần chim, trâu, ốc, hao sen, voi, hươu, ngựa, rùa, rắn, cá, bánh xe…Các hình chạm nhiều khi thô, vụng không phải được tạo nên từ những bàn tay khéo léo, nhưng cũng có những mảnh được làm công phu, theo phương pháp gò, dập, nổi. 2.3. Thương nghiệp Thương nghiệp ở Vương quốc Phù Nam đặc biệt phát triển. Thậm chí, trong cư dân của Phù Nam còn có một bộ phận chuyên làm nghề buôn bán. Nguyên nhân là do Phù Nam có vị trí địa lí rất thuận lợi, nằm ở vị trí trung gian trên con đường hàng hải Ấn Độ – Trung Quốc. Tề thư cho biết: "Người Phù Nam khôn quỷ mưu lược, nhưng tốt bụng và thật thà, họ chuyên nghề buôn bán". "Hàng hoá buôn bán thường ngày là vàng, bạc, lụa, hàng". Dựa trên các di chỉ khảo cổ học tìm được, các nhà khoa học cho rằng: Óc Eo chính là một trung tâm thương mại phát triển bậc nhất và quan trọng nhất của Vương quốc Phù Nam. Tại đây, họ đã tìm được rất nhiều tiền của Phù Nam ở Óc Eo, Nam Thái Lan, và Hmawza (Myanmar). Ngoài ra, các nhà khảo cổ học còn tìm được ở Kiên Giang và An Giang các đồng tiền mang dấu ấn Địa Trung Hải. Sự xuất hiện của những đồng tiền này ở cương vực Phù Nam phản ánh trình độ phát triển cao của mậu dịch quốc tế của Phù Nam và vị trí quốc tế của Phù Nam trong thời kì này. Dựa vào những căn cứ trên đây, người ta đoán định rằng, Phù Nam không chỉ mở rộng quan hệ buôn bán với các nước láng giềng lân cận mà còn mở rộng buôn bán sang tận vùng Địa Trung Hải, Trung Á. Phù Nam được biết đến trong lịch sử như một cường quốc thương nghiệp từ giữa thế kỉ III đến đầu thế kỉ thứ VI. Tóm lại, có thể thấy, nền kinh tế của Phù Nam trước đây là một nền kinh tế đan xen hài hoà giữa các ngành kinh tế. Một mặt, họ có thể “dùng vàng, bạc, châu ngọc, hương liệu làm đồ cống và nạp thuế” của một nền kinh tế thương mại; mặt khác, vẫn theo nghề trồng trọt và thủ công nghiệp để đảm bảo lương thực và đồ dùng hàng ngày. Nền kinh tế của Phù Nam mang tính chất của một nền kinh tế hàng hoá. 3. Xã hội và đời sống vật chất (Xã hội đã có sự phân hóa giàu nghèo thành các tầng lớp quý tộc, bình dân và nô tì) Trong các tài liệu khảo cổ học đều cho thấy Phù Nam là một xã hội giàu có. Tuy nhiên, giàu đến mức nào, tất cả đều giàu hay có người giàu, người nghèo thì chưa có những cứ liệu rõ ràng. Những ngôi mộ và các đồ tuỳ táng chôn theo cũng không cho phép ta đoán định được vì người Phù Nam chủ yếu sử dụng điểu táng và hoả táng. Tuy nhiên, trên phạm vi toàn xã hội, có thể thấy có một lớp người ăn mặc sang trọng, có nhiều mảnh vàng cúng đền, sống gắn với nền kinh tế cảng thị, với những đường buôn bán ven biển, mà “con trai nhà quyền quý cắt gấm vóc, làm tấm khăn quấn quanh người, con gái thì làm tấm áo chui đầu” và một lớp “người nghèo thì dùng vải thô để che thân”, làm nông nghiệp, đánh bắt tôm cá, nhưng không thiếu đất, chỉ trồng lúa nổi, gắn bó với rừng núi để săn bắn, thu hoạch lâm sản, duy trì nếp sống nông thôn cổ truyền. Những điều đó cho phép ta đoán định trong xã hội Phù Nam có sự phân hoá giàu nghèo, tuy vậy, sự phân hoá này dường như không sâu sắc, mà phần lớn được quy định bởi tính chất nghề nghiệp của họ mà thôi. Người dân Phù Nam sống thành những cộng đồng dân cư đông đú trên diện tích cư trú từ 2 – 5 km2 hay hơn nữa như ở Óc Eo, Cạnh Đền, Gò Tháp, Gò Hàng, Gò Binh Tả, Bảy Núi… Theo Lương thư: "Nơi dân chúng ở không có đào giếng. Mấy chục gia đình dùng chung hồ chứa nước". (- Ăn ở: Lương thực chính là lúa gạo. Ở nhà sàn, mái lợp bằng lá thốt nốt. Louis Malleret khi đã tiến hành khai quật ở Óc Eo đã nhận xét rằng: phần lớn kiến trúc ở đây được lợp mái bằng ngói, một kiểu khác hẳn ở Angkor. ) Qua những đồ đựng tìm được trong văn hoá Óc Eo, có thể thấy hình ảnh về những đồ dùng bếp núc hàng ngày và lương thực chính là lúa gạo. Về trang phục, theo Thái Khang: "Người Phù Nam sống khoả thân, đi chân không và xăm mình". Nhưng Tề thư lại cho biết: "Con trai nhà phú hộ cắt hàng làm chăn để mặc. Người nghèo mặc bằng vải". Tuy nhiên, qua những hình tượng tìm được trong các di tích thuộc văn hoá Óc Eo cho thấy đàn ông đóng khố, đàn bà mặc váy. Trên các tượng có vẽ loại váy có nhiều đường gấp nếp, được buộc lại bằng một thắt lưng mỏng. áo của phụ nữ là một tấm vải hình chữ nhật, với lỗ xẻ ở trung tâm để trong đầu qua. Trước đó, Thái Khang có xác nhận: "Đàn bà Phù Nam mặc một cái chăn trùm từ cổ xuống chân và xỏ lỗ tai để đeo bông tòn teng". Vua quan Phù Nam "mặc triều phục bằng vải cát bối màu đỏ da cam, có dây đai lưng buông thả đến chân. Trên đầu đội mũ có đính bông vàng. Thường phục thì có màu trắng và gồm nhiều lớp". Về cư trú, Tề thư viết: "Người Phù Nam đốn cây để cất nhà ở. Nhà vua ngự trong cung có lầu nên xây bằng đá. Xung quanh nhà dân chúng có hàng rào gỗ…Dân chúng ở trong những nhà sàn cao trên mặt nước, xung quanh có vòng thành bằng đất, cạnh những hồ chứa đầy cá sấu…Các thị trấn của Phù Nam thường được xây dựng trên mặt hồ, gồm những căn nhà sàn phủ lá tre". Tại Óc Eo, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy vết tích các dinh thự, nhà cửa. Phương tiện đi lại, người Phù Nam thường dùng voi làm phương tiện di chuyển và đi săn. Họ đi lại chủ yếu bằng thuyền. Ngoài ra, họ cũng biết sử dụng ngựa trong đi lại. Theo Tề thư: "Người Phù Nam đóng được những chiếc thuyền có bề dài từ 8 đến 9 trượng (mỗi trượng bằng 10 chân) và bề ngang từ 6 đến 7 chân. Mũi thuyền và lái đều có hình đầu và đuôi cá". 4. Văn hoá 4.1. Chữ viết Người Phù Nam sớm mượn chữ cổ Ấn Độ, chữ Brahmi, chữ Sankrit. Tấn thư có ghi lại: “Họ có nhiều sách và những thư viện…Chữ viết của họ giống chữ của người Hồ (ở Trung Á)…Vua cũng đọc được những bài văn viết của Ấn Độ, mỗi bài dài khoảng 3000 chữ” Theo: Lương Ninh (cb), Lịch sử Việt Nam giản yếu, NXB CTQG, Hà Nội, 2005, tr 99 . Đây là chữ viết của giới quý tộc, tăng lữ cung đình. Tuy nhiên, qua thời gian truyền bá, một số chữ đã trở thành đối tượng quen thuộc với người bình dân. Điều này được khẳng định qua các bia tìm được. Chính người Phù Nam đã dùng chữ Phạn để khắc lời chú trên đồ trang sức như nhẫn, mặt dây chuyền, bia. Người ta còn tìm thấy 4 tấm bia chữ Phạn dạng cổ thuộc thế kỉ V. Chữ Phạn xuất hiện ở Phù Nam vào thời kì hình thành nền văn minh đô thị và sự ra đời của nhà nước. Điều này đã chứng tỏ đây là một đất nước có trình độ văn hoá cao. 4.2. Tín ngưỡng tôn giáo (Đời sống vật chất, tinh thần khá phong phú: - Cư dân có tập quán ở trần, xăm mình, xoã tóc, đi chân đất - Đặc điểm hình thể và cách ăn mặc của cư dân Phù Nam có những nét giống với các dân tộc bản địa ở miền cao nguyên Đông Dương Phong tục, tập quán: - Về tín ngưỡng chủ yếu là đạo Ba-la-môn và đạo Phật. - Chữ viết là loại chữ Phạn (sanskrit) có nguồn gốc từ bộ chữ cái của người Pallava, ở Ấn Độ.. - Tang lễ: người chết được chôn cất theo cách: hỏa táng. Theo Tấn thư thì tang lễ và hôn lễ của Phù Nam gần giống với Lâm Ấp (tức Chămpa). - Hôn nhân theo chế độ mẫu hệ, nhà gái cưới gả chồng. Nghệ thuật: Kiến trúc khá phát triển .) Trước khi chịu ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ, người Phù Nam theo tín ngưỡng bái vật giáo với truyền thống thờ đá (nhiều tác giả cho đó là sự tồn tại của truyền thống cự thạch). Tục thờ sinh thực khí bằng đất nung, bằng cuội tự nhiên và những hình tượng thảo mộc, cầm thú trên các hiện vật tìm thấy có thể đã có biểu tượng lâu đời trước khi có biểu tượng Siva. Khi người Ấn Độ vào, tôn giáo là lĩnh vực văn hoá bị chịu ảnh hưởng đầu tiên, vì người Ấn Độ đến thường truyền bá tôn giáo của mình để có thêm một cộng đồng đồng đạo, để có sự cảm thông gần gũi ở đất nước xa lạ. Người Phù Nam chịu ảnh hưởng cả đạo Bàlamôn và đạo Phật. Lương thư chép: “Phong tục (Phù Nam) thờ thiên thần, đúc tượng bằng đồng 2 mặt 4 tay, 4 mặt 8 tay…”. Nhà sư Nghĩa Tĩnh khi đến Phù Nam khoảng 671 – 695 cũng viết: “Người xứ ấy thờ nhiều thiên thần nhưng Phật pháp cũng thịnh hành”. Qua các hiện vật tìm được như tượng thần Brahma, Visnu, Siva, các ngẫu tượng Linga, Yoni, các linh vật như Nandin, Garuda, Naga…cho thấy đạo Bàlamôn rất phát triển ở đây. Theo Lương thư trong khoảng thời gian năm 497 – 482, ở Quảng Đông đã cho biết có tu viện Vaisali, ở đây có một pho tượng lớn bằng đã được chở từ Phù Nam đến để thờ. Năm 484, nhà sư Ấn Độ tên là Na Già Tiên (Nagasena) được vua Phù Nam phái đi sứ Trung Quốc mang theo nhiều tặng vật, trong đó có một Nagaraja (tượng Phật ngồi trên đài rắn thần) bằng vàng và một pho tượng bằng gỗ đàn hương trắng. Năm 503, nhà sư Mandaia lại được Phù Nam sử đi xứ Trung Quốc, mang “cống” cho Trung Quốc một pho tượng Phật bằng san hô. Những năm 503 – 506, các nhà sư gốc Phù Nam tên là Sanghapala và Mandrasena đã sang Trung Quốc để dịch Kinh. Năm 519, vua Phù Nam lại sử sứ sang cống vua Trung Quốc một pho tượng bằng gỗ dàn hương Ấn Độ. Khoảng năm 535 – 545, một phái bộ Trung Quốc được cử yết kiến vua Phù Nam xin được sưu tập kinh Phật, được đón về Trung Quốc các cao tăng và xin nhận một thánh tích là sợi tóc Phật. Sau đó, nhà sư Ấn Độ Paramatha đã tập hợp mang sang Trung Quốc 240 pho sách Kinh. Đạo Phật ở đây khác với nhiều nơi khác: Một là, tượng Phật được thờ đặt chung với tượng thần Bàlamôn; Hai là, cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa đều có mặt ở đây. Qua những dẫn chứng trên, có thể thấy, Phật giáo đã khá thịnh hành ở Phù Nam, thậm chí nó có sức lan toả tới nhiều quốc gia trong vùng. Theo các thư tịch cổ, Phù Nam đã trở thành một trung tâm Phật giáo quan trọng nhất ở Đông Nam Á và Đông Á, đến mức đạo Phật từ đây ảnh hưởng tới cả Nam Trung Quốc. Phật giáo ở Phù Nam cũng có những nét đặc trưng tiêu biểu, khác hẳn với Phật giáo nguyên thuỷ. 4.3. Kiến trúc, điêu khắc 4.3.1.Kiến trúc Trong cuộc khai quật di chỉ óc Eo, L. Malleret cho biết: Đây là một quần thể đô thị rộng lớn gồm các khu nhà sàn bị cắt ngang dọc bởi một mạng lưới kênh đào là hệ thống thuỷ nông trải dài trên 200 km. Các thành phố được nối với nhau bằng biển cả, bằng những con kênh đủ rộng để tiếp nhận được những chiếc tàu đi biển. Trong cuộc khai quật này cũng đã phát hiện được 3 thành thị ở miền Tây sông Hậu: Ba Thê (Óc Eo) thuộc xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang; Nền Chùa (Ta Keo) ở Rạch Giá, Kiên Giang; Nền Vua ở huyện Hồng Dân, Cà Mau, còn có tên là Trăm Phố, nhiều người cho rằng đây có thể là Thành phố Mặt trời (Adityapura) như trong thư tịch cổ có nhắc đến. Cả ba thành thị này đều có mặt bằng rộng, mỗi chiều dài khoảng 1000 m. Tại đây đã tìm thấy vết tích của các dinh thự, nhà cửa được thiết kế theo hai cách: ở những nơi đất cao thì xây bằng gạch và đá; ở những miền đầm lầy thì làm nhà sàn bằng gỗ, lợp lá dừa nước, xung quanh vòng thành bằng đất. Cùng với việc xây dựng thành thị là việc xây dựng đền miếu. Tuy nhiên cho đến nay không còn một cái nào tồn tại. Các nhà khoa học cũng không tìm thấy đầy đủ bình đồ và quy mô của các đền miếu đó, nhưng dấu vết nền của các kiến trúc thì có thể thấy được, đặc biệt là trụ giới (sima – cột mốc của các đền, chùa) của đền. Trên nền của nó có móng gạch chia thành ô lớn, hình vuông và hình chữ nhật. Nhiều nhà khoa học cho rằng có lẽ đây là nền móng của những công trình kiến trúc tôn giáo khá lớn, song người ta chưa đoán định được hình dáng của kiến trúc như thế nào. Các công trình này chủ yếu sử dụng nguyên liệu bằng đá. Điều này khá phù hợp với điều kiện tự nhiên ở vùng này. Qua nhiều thế kỉ, đền đã sụp đổ và đất đá đã phủ lên nhưng trụ giới của đền thì vẫn còn đó. Người ta đã tìm thấy những mô đất trong đó có chứa những đựng những lòng trụ huyệt nhỏ, xếp gạch hay chèn đất đá, dưới đáy xếp đặt một hay một số vật, thường là mảnh vàng. Qua nghiên cứu thì đây không phải là những đồ tuỳ táng chôn theo người chết mà đây là những trụ giới của các đền, chùa. Mảnh lá vàng là vật cùng của các tín chủ và thí chủ khác nhau. Đáng chú ý là trên các mảnh lá nhỏ và mòng này người ta dùng vật nhọn khắc hình thù khác nhau như: hình thần, chim thần Garuda, trâu, ốc, hoa sen, voi, hươu hay ngựa, rùa, rắn, cá, pháp luân xa…nhiều hình không rõ là gì. Nét chạm vụng, vội, xấu… Đây cũng là một nét đặc sắc văn hoá vì hiếm có nơi nào trên thế giới có hình thức chôn theo và chôn nhiều mảnh vàng như thể trong đáy sima đền (Năm 1997 có phát hiện tại đền cổ Cát Tiên (Lâm Đồng) những mảnh lá vàng tương tự như ở đồng bằng sông Cửu Long). Kiến trúc nhà ở cũng được thiết kế để phù hợp với điều kiện tự nhiên nơi đây. Họ thường làm nhà sàn nếu nguyên liệu bằng gỗ hoặc nhà ở bình thường với nguyên liệu bằng gạch và đá. Kiến trúc ở Phù Nam tuy không có những công trình kiến trúc lớn, vĩ đại, đạt trình độ thẩm mỹ cao nhưng kiến trúc nhà ở cùng như đền, chùa ở Phù Nam được thiết kế thích ứng với điều kiện tự nhiên (Nguyên liệu, cách bố trí, sắp xếp). 4.3.2. Điêu khắc Nét đặc sắc nhất và cũng là nét văn hoá tiêu biểu nhất của văn hoá Phù Nam là các pho tượng Phật. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện và lưu giữ được hơn 50 pho tượng Phật, trong đó có 17 pho tượng bằng đá, 26 pho tượng bằng gỗ, 7 pho tượng bằng đồng, trong đó có 32 pho tượng “Phật đứng” (Buddhapad). Các pho tượng này được xác định niên đại là thế kỉ V. Ngoài ra, các nhà khoa học cũng phát hiện và thu thập được vài chục pho tượng thần Hinđu giáo bằng đồng cỡ nhỏ, chỉ cao hơn 10 cm, nhiều khả năng đây là tượng của Phù Nam. Ngoài ra còn một số pho tượng lớn hơn bằng đá, chưa rõ xuất sứ. Tuy nhiên, đẹp hơn cả, đã xác định phong cách và niên đại, tiêu biểu cho nghệ thuật tượng Phật giáo của Phù Nam phải kể đến các pho tượng Phật đứng (Buddhapad). Tượng Phật ở Phù Nam nói chung lại có nét riêng: vẻ thanh tú, dịu dàng và cân đối trên toàn thân, có sự tinh tế của thân áo, của tay phải lập thế Varamudra, tay trái kéo một chút vạt áo nhô ra, song song với thân người, tránh chi tiết tay hơi quá dài, cái đầu hơi to như tượng Phật ở một số nơi khác. Tuy bàn chân phô ra hơi nhỏ nhưng gót chân lại lớn, hơi thô, dính liền nhau, và liền với bệ đứng, hình toà sen gần vuông. Có lẽ đây là mấy chi tiết bắt buộc của kĩ thuật để tạo thế đứng vững của tượng. Tượng Phật cũng đã tạo ra được nét đặc trưng riêng biệt và độc đáo của văn hoá Phù Nam. Những dấu tích văn hoá kể trên cho thấy cư dân Phù Nam không chỉ là những người mở cửa biển giao lưu văn hoá mà còn buôn bán rộng rãi với nước ngoài, mà hơn nữa còn thích nghi rất cao với đời sống trên kênh lạch biển. Chiếc bếp, cái ấm, cái chai và những viên chì lưới hẳn là cũng thích hợp với cảnh sống bang bềnh của con người. Điều kiện sống và sản xuất đòi hỏi con người cần thích nghi với vùng kênh lạch biển. Người ta cùng đã quen dần như thế, sáng tạo và phát triển trình độ sống và văn hoá của mình. Những dãy cọc gỗ nhà sàn và dấu tích nền móng đền tháp rải rác khắp miền Tây sông Hậu cho thấy họ đã lập chợ trên sông, lập phố xá dọc kênh. KẾT LUẬN VỀ PHÙ NAM Qua tìm hiểu về Vương quốc Phù Nam, người viết mạnh dạn rút ra một số kết luận sau đây: Một là, Vương quốc Phù Nam tồn tại hơn 6 thế kỉ, trải 3 đời, 19 vua có thể coi là một quốc gia phát triển lâu bền, có thể so sánh nó với độ dài của mọi triều đại phong kiến tập quyền ở Đông Nam Á. Hai là, trong suốt thời kì tồn tại, có hai giai đoạn tôn người Ấn Độ làm vua. Điều này không phải là thể hiện sự yếu ớt của Vương quốc Phù Nam mà nó xuất phát từ nhu cầu thực tế (người Ấn Độ thành thạo trong việc quản lí chính quyền, am hiểu nguồn và đường buôn bán Đông – Tây). Nó không những không làm gián đoạn sự phát triển và truyền thống của Phù Nam mà còn tăng tính độc đáo và linh hoạt của vương quyền – một nét độc đáo không từng thấy ở Đông Nam Á. Ba là, Phù Nam đã xây dựng được một hệ thống kênh đào hợp lí, gắn với nhu cầu sản xuất, giao thông và buôn bán đường biển, đã phản ảnh rõ rệt tác dụng điều hành bộ máy quản lí nhà nước của giai cấp thống trị. Thêm nữa, vua Phù Nam có thể viết 3000 câu chữ Hồ (chữ Ấn Độ), cho khắc 4 tấm bia đá chữ Phạn (sankrit), hàng chục tượng thần, tượng Phật bằng gỗ, đá…cũng khẳng định thêm sự tài giỏi của giai cấp lãnh đạo mà đứng đầu là nhà vua. Bốn là, Phù Nam với vai trò là đầu mối buôn bán Đông Tây, nó giữ vững sự ổn định trong các quan hệ quốc tế, xứng đáng là một “trung tâm liên thế giới” như lời nhận xét của một học giả Nhật Bản. Với những thành tựu đã đạt được nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: Phù Nam đã vượt qua trình độ sơ sử để trở thành một vương quốc phát triển cao nhất Đông Nam Á về mọi mặt trong thiên niên kỉ I. Nhiều học giả nước ngoài (Mỹ, Singapore…) đã không ngần ngại dùng từ Đế quốc Phù Nam để gọi quốc gia này. Nhưng giáo sư Lương Ninh đã gọi bằng một cụm từ khiêm tốn hơn là Cường quốc Phù Nam. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Phù Nam là tiền thân của nước Campuchia ngày nay, hoặc là giai đoạn đầu của lịch sử Campuchia. Đây là quan điểm của các học giả Châu Âu, chủ yếu là ở trường Viễn Đông Bác Cổ từ nửa đầu thế kỉ XX. Theo Thư tịch cổ Trung Quốc thì Phù Nam và Chân Lạp là hai tiểu quốc riêng biệt cùng tồn tại ở những thế kỉ đầu công nguyên. Hai nước nằm ở hai vị trí khác nhau tuy có nhiều mặt có quan hệ với nhau. Tuỳ thư quyển 82, tờ 3 có chép: “Chân Lạp ở phía Tây Nam nước Lâm ấp nguyên trước là thuộc quốc gia Phù Nam. Họ vua Chân Lạp là Tchali, tên riêng là Tchơtosơna. Tổ tiên đã dần dần làm cho nước trở nên hùng cường. Tchơtosơna chiếm được Phù Nam và bắt thần phục”. Tân Đường thư quyển 222 tờ 2 có đoạn ghi về Phù Nam: “Nước Phù Nam ở cách quận Nhật Nam 7.000 lí về phía Nam, đất thấp cũng như Hoàn Vương, có thói quen lập những thành phố bọc tường. Vua đóng đô ở thành Đặc Mục, thành ấy bị Chân Lạp đánh bất ngờ và phải dời đến thành phố Naphatna ở phía Nam” Phạm Đức Thành: Lịch sử Campuchia, NXB VHTT, Hà Nội, 1995, tr 54 – 55 . Hai tài liệu trên cho phép chúng ta xác định được: Vị trí của Phù Nam nằm ở phía Nam đất Nam Trung Bộ ngày nay. Còn Chân lạp ở phía Tây Lâm Ấp tức là vùng Hạ Lào và có thể bao gồm cả phần đất đai của Đông Bắc Campuchia ngày nay nữa. Chân Lạp bị phụ thuộc vào Phù Nam. Chân Lạp dần mạnh và thôn tính hoàn toàn Phù Nam vào nửa đầu thế kỉ VII. Như vậy, rõ ràng không thể coi Phù Nam là tiền thân của nước Campuchia mà Phù Nam chỉ là một quốc gia riêng biệt từ nửa đầu thế kỉ VII trở về trước. Thực hành: - Vận dụng kiến thức vào thực hiện chương trình Lịch sử THCS (2 tiết) - Ôn tập và kiểm tra (2 tiết)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài giảng Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ X.doc