Nghiên cứu cơ sở lý luận về việc áp dụng pháp luật (ADPL) trong hoạt động giải
quyết án hình sự của TAND dưới góc độ lý luận Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật. Làm rõ
những đặc trưng riêng của hoạt động giải quyết án hình sự và các tiêu chí để đánh giá chất lượng
ADPL trong hoạt động xét xử án hình sự của TAND hiện nay. Phân tích thực trạng ADPL hình
sự của TAND ở tỉnh Thanh Hóa trong thời gian 05 năm (từ 2006 đến 2010), làm rõ các nguyên
nhân dẫn đến việc các bản án, quyết định còn oan, sai, bị hủy, cải sửa lớn do lỗi chủ quan, không
đúng pháp luật. Đề xuất các quan điểm và giải pháp cơ bản bảo đảm chất lượng ADPL trong
hoạt động giải quyết án hình sự của TAND góp phần thực hiện có hiệu quả công cuộc cải cách tư
pháp, nâng cao uy tín của nền tư pháp nước nhà trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân và vì dân.
22 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 10/03/2022 | Lượt xem: 336 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân (Qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lịch sử Nhà nước và pháp luật,
luận văn bao gồm những nội dung lý luận và thực tiễn có liên quan đến vấn đề ADPL hình sự của TAND. Để
giải quyết một vụ án hình sự có thể phải áp dụng nhiều loại văn bản pháp luật có liên quan, như: Bộ luật dân
sự, luật thi hành án dân sự, Pháp lệnh về án phí và lệ phí Tòa án nhưng chủ yếu là pháp luật hình sự. Vì vậy
luận văn tập trung nghiên cứu ADPL hình sự của TAND qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa.
Nghiên cứu toàn bộ hoạt động ADPL hình sự của TAND ở tỉnh Thanh Hóa từ năm 2006 đến năm
2010, gồm: Hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp huyện thuộc tỉnh và của TAND
tỉnh; Hoạt động xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự; hoạt động giám đốc thẩm các vụ án hình sự; hoạt
động ADPL hình sự của Tòa án trong thi hành án hình sự, nhằm phát hiện những tồn tại, hạn chế cũng
như những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động ADPL hình sự của Tòa án, từ đó đưa ra các giải pháp khắc
phục nguyên nhân, phát huy những thành tựu, đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu của hoạt động
ADPL hình sự của TAND địa phương, đồng thời đề xuất các giải pháp để bảo đảm cho ADPL hình sự
của TAND đúng pháp luật, phù hợp với tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền.
Luận văn nghiên cứu những vấn đề chung của quy trình ADPL trong hoạt động giải quyết án hình sự từ
việc nghiên cứu vụ án đến việc chọn quy phạm pháp luật, ban hành bản án và ra các quyết định thi hành
bản án hình sự.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật; tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp quyền; đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Đặc biệt là các quan điểm chỉ đạo cải cách tư
pháp, theo tinh thần nghị quyết 48NQ/TW; 49NQ/TW của Bộ chính trị về vấn đề cải cách tổ chức và hoạt
động của TAND và các cơ quan tư pháp trong giai đoạn hiện nay, nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu của lộ
trình cải cách tư pháp.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể đó là: Phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử và
lôgic, phương pháp thống kê, trong đó chú trọng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về ADPL trong hoạt động xét xử nói chung
và ADPL trong hoạt động giải quyết án hình sự của TAND qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa nói riêng, luận
văn đề xuất một số phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm góp phần nâng cao chất lượng giải quyết các
vụ án hình sự của TAND đáp ứng nhu cầu công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ lý luận về ADPL, làm sáng tỏ các đặc điểm của
ADPL hình sự của TAND trong việc giải quyết các vụ án hình sự.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn có ý nghĩa thực tiễn đối với việc nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn
cho thẩm phán, thư ký Tòa án, những người trực tiếp làm công tác giải quyết án hình sự tại các TAND,
góp phần nâng cao chất lượng giải quyết án hình sự của TAND. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, học tập trong các trường Đại học ngành luật.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa.
Chương 3: Các quan điểm và giải pháp cơ bản về bảo đảm chất lượng áp dụng pháp luật hình sự của
Tòa án nhân dân.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật
1.1.1. Áp dụng pháp luật trong hệ thống các hình thức thực hiện pháp luật
ADPL hình sự có tầm quan trọng đặc biệt, vừa có những đặc điểm chung như các dạng ADPL khác,
vừa có những đặc điểm riêng của mình.Do vậy, trước khi nghiên cứu về ADPL hình sự, chúng ta cần
phân tích về ADPL trong hệ thống các hình thức thực hiện pháp luật nói chung.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thống các quy tắc xử sự thể hiện ý chí, lợi ích của nhân dân lao
động, do nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận), có tính bắt buộc chung, được nhà nước đảm bảo thực hiện trên
cơ sở kết hợp giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế; thu hút sự tham gia tích cực của toàn xã hội vào hoạt động
xây dựng và thực hiện pháp luật, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Pháp luật chỉ có ý nghĩa thực sự khi các quy định pháp luật được thực hiện trên thực tế. Chỉ khi pháp
luật được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc, triệt để, sâu rộng trong đời sống xã hội thì mới đảm bảo được
quyền lợi chính đáng của công dân, vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, duy trì được trật tự xã hội, thúc
đẩy xã hội phát triển.
Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi
vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Căn cứ vào tính chất
của các hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý đã phân chia thực hiện pháp luật thành những
hình thức cụ thể như: Tuân thủ pháp luật; thi hành pháp luật; sử dụng pháp luật; và ADPL.
ADPL là một trong bốn hình thức thực hiện pháp luật cơ bản, có tính chất đặc biệt.
ADPL là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền
hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự
mình căn cứ vào các quy định của pháp luật ra các quyết định ADPL vào trong những trường hợp cụ thể
của đời sống xã hội.
1.1.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật
Thứ nhất, ADPL là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực Nhà nước.
Thứ hai, ADPL là hoạt động phải tuân theo thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định.
Thứ ba, hoạt động ADPL là hoạt động điều chỉnh có tính chất cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã
hội nhất định.
Thứ tư, ADPL là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, các giai đoạn áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân
1.2.1. Khái niệm áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân
ADPL hình sự của TAND trước hết là một hoạt động ADPL, nên nó có đầy đủ những đặc điểm
chung của hoạt động ADPL nói chung, đồng thời có tính đặc thù riêng của hoạt động ADPL hình sự do Tòa
án áp dụng. Đó là những quy phạm pháp luật có những chế tài mạnh nhất, ảnh hưởng trực tiếp đến tính
mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, quyền sở hữu tài sản của con người, việc duy trì trật tự công cộng và
chỉ duy nhất Tòa án có quyền áp dụng.
Áp dụng Bộ luật hình sự (BLHS) là ADPL nội dung, áp dụng BLTTHS là ADPL hình thức của hoạt
động giải quyết án hình sự. Hoạt động tố tụng hình sự chứa đựng cả áp dụng quy phạm pháp luật nội dung
và quy phạm pháp luật hình thức với mục đích bảo đảm áp dụng BLHS chính xác. Hoạt động đó bao gồm
những bước đi theo trình tự tố tụng chặt chẽ, là tiền đề quan trọng để quyết định chính xác trách nhiệm hình
sự nhằm bảo đảm nguyên tắc khách quan, công bằng, tạo ảnh hưởng tích cực trong việc trừng trị kết hợp
giáo dục, cải tạo người phạm tội thành công dân có ích cho xã hội, góp phần đấu tranh phòng chống tội
phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
ADPL hình sự của Tòa án là một hình thức ADPL do Tòa án tiến hành, áp dụng quy phạm pháp luật
tố tụng hình sự và quy phạm pháp luật hình sự để giải quyết các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền và thực
hiện một số nhiệm vụ trong giai đoạn thi hành án hình sự.
1.2.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân
Thứ nhất, ADPL hình sự của Tòa án là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước, do Tòa án tiến
hành được thực hiện bởi người có thẩm quyền mà chủ yếu là hội đồng xét xử.
Thứ hai, ADPL hình sự của Tòa án chủ yếu được tiến hành tại phiên tòa công khai.
Thứ ba, ADPL hình sự của Tòa án phải tuân thủ chặt chẽ về trình tự thủ tục do BLTTHS quy định.
Thứ tư, ADPL hình sự của Tòa án là quá trình cá biệt hóa những quy phạm pháp luật hình sự đối với
mỗi bị cáo.
Qua phân tích những đặc điểm của việc ADPL hình sự của TAND, có thể hiểu:
ADPL hình sự của TAND là những hoạt động nhân danh nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước của
Tòa án, chủ yếu là thông qua hội đồng xét xử tiến hành trực tiếp tại phiên tòa theo quy định của BLTTHS
và BLHS để xác định tội danh và hình phạt cụ thể đối với những người bị VKSND truy tố, kết quả thường
được thể hiện bằng những bản án hình sự.
1.2.3. Các giai đoạn áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân
1.2.3.1 Giai đoạn xét xử sơ thẩm
Đây là giai đoạn quan trọng nhất trong việc ADPL hình sự của TAND. Bằng những hoạt động tố tụng
tại phiên tòa, Hội đồng xét xử sơ thẩm tiến hành định tội và lượng hình cho mỗi bị cáo, kết quả thường
được thể hiện là bản án hình sự sơ thẩm.
1.2.3.2. Áp dụng pháp luật trong giai đoạn xét xử phúc thẩm
Xét xử phúc thẩm là việc Tòa cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm chưa
có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Bản án phúc thẩm có thể y án sơ thẩm hoặc thay đổi một
phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm, có hiệu lực ngay sau khi tuyên án.
1.2.3.3. Áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án trong giai đoạn thi hành bản án hình sự.
Theo quy định tại phần thứ năm của BLTTHS năm 2003, Điều 20 Luật Thi hành án hình sự năm
2010 và các văn bản hướng dẫn thì Tòa án còn có vai trò đặc biệt quan trọng trong giai đoạn thi hành án
hình sự.
1.2.3.4. Áp dụng pháp luật của Tòa án trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án hình sự
Giám đốc thẩm đối với các bản án đã có hiệu lực pháp luật là việc phát hiện có vi phạm pháp luật
nghiêm trọng về xử lý nội dung vụ án hoặc vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng cần phải kháng nghị
hủy bản án để xét xử lại.
ADPL hình sự của Tòa án trong giai đoạn tái thẩm: Thủ tục tái thẩm được áp dụng đối với bản án
hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có
thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án
hoặc quyết định đó.
1.3. Vai trò áp dụng pháp luật hình sự của tòa án nhân dân
- Trước hết ADPL hình sự của Tòa án có vai trò bảo vệ các quyền con người, quyền công dân trước
nguy cơ xâm hại của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các chủ thể khác.
- Bằng những bản án nghiêm minh, Tòa án đã góp phần vào việc duy trì trật tự xã hội, đảm bảo an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thực hiện các nhiệm vụ cụ thể tại Điều 1 BLHS 1999.
- ADPL hình sự của Tòa án có vai trò to lớn trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật thực định nói
chung và pháp luật hình sự nói riêng.
- ADPL hình sự của Tòa án có vai trò quan trọng trong việc nâng cao ý thức pháp đối với nhân dân
- ADPL của TAND có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính sách của Nhà nước và đường
lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
1.4. Các tiêu chí đánh giá chất lƣợng áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân
1.4.1. Xét xử thấu tình đạt lý
Xét xử thấu tình đạt lý là mong muốn lớn nhất của xã hội đối với việc xét xử của Tòa án nói chung,
đặc biệt là xét xử hình sự.
Vì vậy xét xử kịp thời, đúng người đúng tội, đúng pháp luật (cả pháp luật nội dung và tố tụng) là tiêu
chí đầu tiên và quan trọng nhất của việc ADPL hình sự của Tòa án.
Không chỉ đúng pháp luật mà bản án của Tòa án phải mang tính thuyết phục cao.
1.4.2. Việc áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án phải thực sự dân chủ, minh bạch, bảo vệ các
quyền lợi chính đáng hợp pháp của công dân.
Quyền con người luôn luôn được pháp luật hình sự đặc biệt coi trọng trong tất cả các giai đoạn tố
tụng.
1.4.3. Việc áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án phải góp phần nâng cao ý thức pháp luật của
người dân
ADPL hình sự của Tòa án phải góp phần khuyến khích hành vi hướng thiện, hợp pháp, phòng chống
tội phạm và các vi phạm pháp luật khác.
1.4.4. Việc áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án phải góp phần tích cực vào việc thực hiện
đường lối chính sách của Đảng và nhà nước.
Kết luận chƣơng 1
Chương 1 luận văn đã nghiên cứu lý luận chung về ADPL, khái niệm, đặc điểm, các giai đoạn ADPL
hình sự của Tòa án. Ngoài đặc điểm chung của ADPL thì ADPL hình sự của Tòa án còn có những đặc
trưng riêng. Đó là hoạt động ADPL hình sự của Tòa án được tiến hành chủ yếu tại phiên tòa, do Hội đồng
xét xử nhân danh quyền lực nhà nước, trực tiếp tiến hành theo quy định của BLTTHS nhằm xác định tội
danh và áp dụng hình phạt đối với bị cáo có tội theo quy định của BLHS.
Qua đó làm rõ vai trò và các tiêu chí đánh giá chất lượng ADPL hình sự của Tòa án. Kết quả hoạt
động ADPL hình sự của Tòa án chủ yếu là các bản án hình sự. Bản án hình sự của Tòa án phải thấu tình
đạt lý, nghĩa là đúng người đúng tội đúng pháp luật và có sức thuyết phục cao. Bảo đảm tính công khai, dân
chủ, khách quan, minh bạch của hoạt động xét xử, bảo vệ được các quyền lợi chính đáng hợp pháp của những
người tham gia tố tụng, góp phần tích cực vào việc thực hiện đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước trong
mỗi giai đoạn cách mạng. Chất lượng của bản án hình sự là thước đo chất lượng hoạt động ADPL hình sự của
Tòa án, luôn là mối quan tâm lớn của xã hội, đặc biệt là trong giai đoạn thực hiện cải cách tư pháp hiện
nay, nhằm thực hiện tốt nhất công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền của nước ta.
Chương 2
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN QUA THỰC TIỄN TỈNH
THANH HÓA
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh thanh hóa; cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân
ở tỉnh Thanh Hóa - những yếu tố ảnh hƣởng đến hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của tòa án
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Thanh Hóa - ảnh hưởng đến hoạt động áp dụng
pháp luật hình sự của Tòa án
Thanh Hóa là một tỉnh nằm ở cực Bắc miền Trung, có diện tích: 1.112.033 ha; dân số gần 04 triệu
người, với 7 dân tộc anh em sinh sống, được chia thành 27 đơn vị hành chính cấp huyện. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế chưa bền vững, tình trạng thiếu đói giáp hạt vẫn xảy ra ở miền núi. Tình trạng buôn bán,
vận chuyển ma túy còn diễn biến phức tạp; số người nghiện hút ma túy có xu hướng tăng. Hoạt động tội
phạm sử dụng vũ khí nóng tiếp tục tái diễn; Tai nạn giao thông còn xảy ra nhiều. Công tác cải cách hành
chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí chưa đáp ứng yêu cầu.
Các điều kiện, yếu tố trên ảnh hưởng không nhỏ đến việc ADPL hình sự của ngành Tòa án ở tỉnh
Thanh Hóa.
2.1.2. Tình hình tội phạm ở tỉnh Thanh Hóa
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, tình hình tội phạm có chiều hướng gia tăng, hàng năm trên địa
bàn tỉnh xảy ra khoảng 1300 vụ án hình sự.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hóa
Hệ thống tổ chức của TAND ở Thanh Hóa gồm: TAND tỉnh có 05 chuyên trách, 03 phòng việc và 27
TAND cấp huyện. Đến hết năm 2010, có 353 biên chế, trong đó 287 người có trình độ đại học chiếm 81,3%.
474 Hội thẩm là những người có uy tín trong nhân dân, đại diện cho nhân dân trực tiếp tham gia xét xử.
2.2. Kết quả áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hóa
2.2.1. Áp dụng pháp luật trong xét xử án hình sự sơ thẩm
Từ năm 2006 đến 2010, tỷ lệ giải quyết án hình sự hàng năm đều đạt tỷ lệ từ 92 đến 99 % các vụ án
đã thụ lý, là phần việc chính trong hoạt động ADPL hình sự của Tòa án. Chủ yếu thông qua phiên Tòa xét
xử hình sự sơ thẩm, Hội đồng xét xử đánh giá chứng cứ, xác định tội danh và áp dụng hình phạt cụ thể
đối với mỗi bị cáo.
2.2.2. Áp dụng pháp luật trong xét xử án hình sự phúc thẩm
Trong 05 năm từ 2006 đến 2010 TAND tỉnh Thanh Hóa đã giải quyết theo trình tự phúc thẩm đối với
951 vụ án hình sự của tòa án cấp huyện. Trong đó chủ yếu là y án sơ thẩm, chỉ thay đổi hình phạt đối với
33 bị cáo do có tình tiết mới tại cấp phúc thẩm (do bị cáo tích cực khắc phục hậu quả) và hủy án 14 vụ án
(chiếm 1,47%).
TANDTC xét xử phúc thẩm các bản án do TAND tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm bị kháng cáo,
kháng nghị, từ năm 2006 đến năm 2010 là 340 vụ, trong đó giảm hình phạt cho 37 bị cáo, tăng hình phạt
đối với 02 bị cáo, hủy án 05 vụ, thay đổi tội danh đối với 02 bị cáo.
2.2.3. Áp dụng pháp luật trong giai đoạn thi hành án hình sự
Từ năm 2006 đến năm 2010 TAND tỉnh Thanh Hóa:
- Đã ra quyết định thi hành án đối với 1866 người bị kết án, bằng 100% các bản án đã có hiệu lực
pháp luật.
- Quyết định tạm đình chỉ chấp hành án đối với 819 người bị kết án bị bệnh nặng (chủ yếu bị
HIV/AIDS) cần được điều trị.
- Quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù cho 25550 người bị kết án đã tích cực lao động cải
tạo, đang chấp hành hình phạt tù tại các trại giam đóng trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, đúng theo quy định
của pháp luật.
2.2.4. Áp dụng pháp luật trong giám đốc thẩm, tái thẩm
Từ 2006 đến 2010 TAND ở tỉnh Thanh Hóa không có vụ án nào bị kháng nghị theo trình tự tái thẩm;
quyết định giám đốc thẩm đối với 27 vụ án hình sự của TAND cấp huyện, trong đó 21 vụ đã bị hủy án theo
trình tự giám đốc thẩm.
Từ năm 2006 đến 2010 TANDTC đã hủy theo trình tự giám đốc của TAND tỉnh Thanh Hóa 03 vụ án
hình sự, hủy cả bản án sơ thẩm của Tòa án cấp huyện và án phúc thẩm của TAND tỉnh Thanh Hóa 02 vụ,
hủy án sơ thẩm của TAND tỉnh Thanh Hóa và án hình sự phúc thẩm của Tòa phúc thẩm TANDTC 01 vụ.
2.3. Những hạn chế trong áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hóa
2.3.1. Những hạn chế
Qua nghiên cứu toàn bộ hoạt động ADPL hình sự của TAND ở tỉnh Thanh Hóa trong 05 năm từ 2006
đến năm 2010, hầu hết các vụ án xét xử đều đúng người đúng tội, đúng pháp luật. Bên cạnh những thành
tích đáng được nghi nhận thì vẫn còn những vụ án bị hủy, cải sửa lớn do sai lầm trong việc đánh giá
chứng cứ, đánh giá vai trò đồng phạm, xác định tội danh, áp dụng hình phạt, vi phạm nghiêm trọng thủ
tục tố tụng.
2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Nghiên cứu thực tiễn ADPL hình sự của TAND ở tỉnh Thanh Hóa từ năm 2006 đến năm 2010 (05
năm), 43 vụ án hình sự bị hủy để điều tra hoặc xét xử lại, 02 vụ án bị Tòa án cấp trên thay đổi về tội danh,
02 vụ án xử oan người không có tội, 01 vụ bỏ lọt tội phạm, luận văn rút ra một số nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến những sai lầm trong việc ADPL hình sự của Tòa án như sau:
Thứ nhất: Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực xét xử của một số thẩm phán và hội thẩm nhân
dân còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác xét xử.
Thứ hai: Cơ quan điều tra điều tra không đầy đủ các tình tiết của vụ án hoặc các cơ quan giám định
không giám định chính xác, dẫn đến rất khó khăn cho Hội đồng xét xử trong việc xác định tội danh cũng
như các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ của bị cáo, có nhiều tình tiết không thể xác định tại phiên tòa.
Thứ ba: Các cơ quan tiến hành tố tụng còn thiếu cương quyết trong việc đấu tranh phòng chống tội
phạm, có thể do nể nang, ngại va chạm, bị ảnh hưởng của người có chức vụ, quyền hạn hoặc do tác động
tiêu cực nên các cơ quan tiến hành tố tụng đã bỏ lọt người phạm tội hoặc bỏ bớt các tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự của người phạm tội; áp dụng hình phạt nhẹ không tương xứng với hành vi phạm tội
của bị cáo, nhất là các vụ án xâm phạm trật tự công cộng, không có bị hại cụ thể.
Thứ tư: Chế độ đãi ngộ và tuyển chọn, sử dụng thẩm phán còn nhiều bất cập. Cơ sở vật chất, trang
thiết bị phục vụ xét xử còn nhiều thiếu thốn.
Thứ năm: Hệ thống pháp luật là cơ sở pháp lý cho hoạt động ADPL của Tòa án chưa hoàn thiện, là
nguyên nhân khách quan hạn chế chất lượng ADPL của Tòa án.
Thứ sáu: Công tác giám sát hoạt động xét xử của Tòa án chưa hiệu quả.
Kết luận chƣơng 2
Tòa án ở tỉnh Thanh Hóa đã thực hiện nghiêm túc các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp. Giải
quyết tốt các tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội, tích cực đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ các
quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của công dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội
tại địa phương. Tuy nhiên bên cạnh những thành tích đã đạt được, vẫn còn một số vụ án còn có sai lầm về
đánh giá chứng cứ, quyết định tội danh, quyết định hình phạt và áp dụng các thủ tục tố tụng hình sự.
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN
VỀ BẢO ĐẢM CHẤT LƢỢNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
3.1. Các quan điểm cơ bản về về nâng cao chất lƣợng áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án
nhân dân
- Bảo đảm chất lượng hoạt động ADPL hình sự của TAND để đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, của dân do dân và vì dân.
- Bảo đảm chất lượng hoạt động ADPL hình sự của TAND để đáp ứng yêu cầu xây dựng cải cách tư
pháp, bảo vệ các quyền con người, hội nhập quốc tế.
- Xuất phát từ yêu cầu đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, vì sự ổn định và phát triển bền
vững của đất nước.
3.2. Các giải pháp bảo đảm chất lƣợng áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân
Bảo đảm chất lượng ADPL hình sự của TAND cần phải tiến hành nhiều giải pháp đồng bộ, các giải
pháp này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo thành cơ chế vận hành thúc đẩy hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong hoạt động ADPL hình sự. Các giải pháp bảo đảm
chất lượng ADPL hình sự của TAND bao gồm:
3.2.1. Các giải pháp chung
- Hoàn thiện pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự.
Đây là giải pháp có ý nghĩa quan trọng nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng ADPL được thống nhất và chính xác. Hiện nay BLHS và BLTTHS dù được sửa đổi,
bổ sung nhiều lần nhưng một số quy định vẫn còn những bất cập, không phù hợp, gây khó khăn cho các chủ
thể ADPL và không đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ các quyền lợi ích
chính đáng hợp pháp của công dân.
+ Tranh tụng tại phiên tòa cần phải được đưa lên thành một nguyên tắc trong BLTTHS.
+ Bảo đảm sự bình đẳng giữa Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa với luật sư bào chữa cho
bị cáo, bị cáo.
+ Quy định cụ thể trách nhiệm chứng minh tội phạm.
+ Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đối với Tòa án cần phải loại bỏ.
- Cần sớm thành lập hệ thống cơ quan điều tra độc lập theo nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị
về cải cách tư pháp.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của Tòa án
3.2.2. Các giải pháp cụ thể
- Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ, nâng cao ý thức chính trị, đạo đức nghề nghiệp, trình độ năng
lực chuyên môn của thẩm phán.
Để bảo đảm chất lượng của hoạt động ADPL hình sự của Tòa án, việc đổi mới công tác tổ chức cán bộ có ý
nghĩa hết sức quan trọng. Bởi suy cho cùng công tác cán bộ là yếu tố con người - chủ thể trực tiếp ADPL.
Chủ thể chủ yếu và trực tiếp ADPL hình sự của TAND là Hội đồng xét xử. Hội đồng xét xử sơ thẩm là 01
thẩm phán và 02 hội thẩm hoặc 02 thẩm phán và 03 hội thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm là 03 thẩm phán. Dù
là xử sơ thẩm hay phúc thẩm thì thẩm phán đều là chủ tọa phiên tòa, trực tiếp xét xử và điều hành phiên tòa, có
vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm chất lượng ADPL hình sự của Tòa án.
+ Trình độ năng lực của thẩm phán là yếu tố trực tiếp quyết định đến chất lượng ADPL hình sự của
Tòa án. Vì vậy cần phải tập trung xây dựng đội ngũ thẩm phán xét xử án hình sự có chuyên môn hóa cao,
là những chuyên gia giỏi cả về lý luận và thực tiễn (có thể chuyên môn hóa theo nhóm tội danh của
BLHS). Quá trình tuyển chọn này phải được sàng lọc và chứng minh từ thực tế xét xử, từ chất lượng các
bản án hình sự đã xét xử, được sự đánh giá cao của đồng nghiệp, cấp trên và kể cả cơ quan tố tụng khác,
luật sư, hội thẩm..., kịp thời phát hiện những công chức, thẩm phán có năng khiếu, năng lực sở trường về
xét xử án hình sự để giúp đỡ, bồi dưỡng, đào tạo chuyên sâu họ xét xử án hình sự.
Tổ chức phân tích, đánh giá, rút kinh nghiệm kịp thời đối với những vụ án bị hủy, cải sửa lớn do lỗi chủ
quan của Hội đồng xét xử. Tìm ra nguyên nhân dẫn đến bị hủy án để không vướng phải những lỗi ấy ở
các vụ án tiếp theo.
Nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học cho đội ngũ thẩm phán. Có chính
sách khuyến khích thẩm phán tích cực học tập để nâng cao trình độ của mình, đáp ứng với nhiệm vụ được
giao. Kịp thời cập nhật các văn bản pháp luật chuyên ngành, văn bản pháp luật liên quan lên website của
ngành để thẩm phán, công chức thuận lợi tra cứu, cập nhật văn bản mới. Thường xuyên tổ chức tập huấn,
hội thảo các chuyên đề về luật hình sự, luật tố tụng hình sự, kỹ năng nghiệp vụ xét xử án hình sự. Tổ chức
các phiên tòa mẫu, yêu cầu các thẩm phán khác dự và đóng góp ý kiến.
Sớm hoàn thiện các quy định về tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm phán phán. Ngoài tiêu chuẩn theo quy
định hiện hành cần phải kết hợp với đánh giá hiệu quả công tác, năng lực thực tiễn. Trước khi bổ nhiệm
hoặc tái nhiệm cần tổ chức thi tuyển nghiệp vụ xét xử hoặc 05 năm 01 lần tổ chức thi sát hạch với toàn
thể đội ngũ thẩm phán để sàng lọc những thẩm phán trình độ chuyên môn nghiệp vụ kém. Việc thi tuyển
hoặc thi sát hạch phải hết sức khách quan, công bằng, thông qua việc xử lý các tình huống cụ thể mà quá
trình xét xử đòi hỏi người thẩm phán phải giải quyết.
Việc tạo nguồn thẩm phán nên nghiên cứu theo hướng mở, không chỉ là thư ký, công chức Tòa án.
TANDTC nên tổ chức thi tuyển đào tạo chức danh thẩm phán đối với những người có bằng tốt nghiệp
Đại học luật trở lên, có nguyện vọng làm thẩm phán. Sau thời gian đào tạo xét xử chuyên sâu một lĩnh
vực, sát hạch nghiêm túc, khách quan, công bằng (công khai các bài thi của người trúng tuyển lên mạng
internet để nhiều chủ thể có thể giám sát). Nếu họ vượt qua được thì tuyển dụng họ vào làm thư ký Tòa án
các cấp và là nguồn bổ nhiệm thẩm phán. Điều này sẽ nâng cao chất lượng nguồn bổ nhiệm thẩm phán,
tạo điều kiện cho những người có năng lực và tâm huyết với nghề thẩm phán có cơ hội được làm thẩm
phán, mặt khác giảm được gánh nặng ngân sách của nhà nước cho việc đào tạo nghiệp vụ xét xử cũng
như những tiêu cực trong việc xét duyệt cử đi học lớp nghiệp vụ xét xử.
+ Đãi ngộ thỏa đáng và sử dụng hợp lý đội ngũ thẩm phán. Lao động của thẩm phán là lao động đặc thù,
chịu nhiều áp lực, đòi hỏi phải có trí tuệ, bản lĩnh, chuyên môn nghiệp vụ cao. Cần phải có mức lương tương
xứng với lao động đặc thù của thẩm phán. Chỉ khi mức lương của thẩm phán đáp ứng được nhu cầu cuộc sống
của bản thân và gia đình thì họ mới yên tâm công tác, đầu tư thời gian nghiên cứu pháp luật, nghiên cứu hồ sơ
vụ án, hạn chế bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tiêu cực, vô tư, khách quan trong việc ADPL.
Thực hiện chế độ khen thưởng bằng vật chất tương xứng với hiệu quả công tác, chất lượng, số lượng
các vụ án đã xét xử hàng năm. Xây dựng các danh hiệu, như thẩm phán nhân dân, thẩm phán ưu túđể
xã hội tôn vinh những thẩm phán mẫu mực.
Phân công nhiệm vụ phù hợp với trình độ và năng lực thực tế của từng thẩm phán. Việc sắp xếp, bố
trí, phân công nhiệm vụ đối với thẩm phán phải căn cứ vào trình độ chuyên môn, kinh nghiệm xét xử, sở
trường công tác của mỗi thẩm phán. Đồng thời có cơ chế tạo áp lực để thẩm phán phải luôn cố gắng hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao, thay thế những thẩm phán không đáp ứng được yêu cầu như: Xử oan người
vô tội, xử sai tội danh, bỏ lọt tội phạmKỷ luật nghiêm những thẩm phán thiếu tinh thần trách nhiệm
phục vụ nhân dân, dọa nạt, vòi vĩnh, đòi hối lộ
Việc luân chuyển thẩm phán chỉ nên đặt ra đối với thẩm phán là nguồn bổ nhiệm chánh án Tòa án, vì
chánh án là người lãnh đạo cơ quan Tòa án, chịu trách nhiệm phân công tổ chức hoạt động xét xử của Tòa án,
đòi hỏi phải có năng lực chuyên môn vượt trội, toàn diện và kinh nghiệm quản lý, điều hành hoạt động xét xử
các loại án thuộc thẩm quyền của Tòa án, như: Hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính.
+ Đẩy mạnh giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức đối với thẩm phán và công chức Tòa án.
Phát động toàn thể thẩm phán, công chức Tòa án tích cực học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh,
thực hiện tốt lời Bác Hồ dạy: "Phụng công thủ pháp, chí công vô tư".
Không chỉ có đủ năng lực trình độ mà mỗi Thẩm phán cần phải tự ý thức được rằng: Quyền lực Nhà
nước là của nhân dân, nhân dân trao cho mình là để phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân. Không được sử
dụng tùy tiện quyền lực ấy hoặc để tư lợi cho mình. Người Thẩm phán phải biết vượt qua các cám dỗ, để
tận tụy phục vụ nhân dân, trung thành với Tổ quốc, với chế độ, dũng cảm bảo vệ công lý, công bằng xã
hội, quyền và lợi ích chính đáng hợp pháp của công dân.
- Nâng cao chất lượng hoạt động, chế độ đãi ngộ, trách nhiệm và đảm bảo sự độc lập của Hội thẩm
nhân dân.
Hội thẩm nhân dân là những thành viên của hội đồng xét xử, là những người có uy tín trong nhân dân được
Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra để thay mặt nhân dân trực tiếp tham gia xét xử các vụ án, là chủ thể quan
trọng trong việc ADPL hình sự tại Tòa án, đặc biệt là xét xử sơ thẩm án hình sự thì quyết định của bản án
chính là quyết định của các hội thẩm vì số Hội thẩm tham gia Hội đồng xét xử đông hơn thẩm phán mà lại
biểu quyết theo đa số, thẩm phán ngang quyền với Hội thẩm. Các phán quyết sơ thẩm này không bao giờ có
hiệu lực pháp luật ngay mà phải sau một thời gian nhất định, các chủ thể bị ADPL cảm thấy quyết định là phù
hợp và Viện kiểm sát thấy phán quyết đã đúng pháp luật, họ không có kháng cáo, kháng nghị thì phán quyết
này mới có hiệu lực pháp luật.
Sau khi được bầu làm hội thẩm thì Tòa án cần tổ chức tập huấn nghiệp vụ xét xử, bồi dưỡng kiến
thức pháp lý cho các hội thẩm nhân dân. Vì là đại diện cho nhân dân không chỉ căn cứ vào pháp luật mà
còn căn cứ vào lẽ công bằng, lẽ phải ở đời, dưới góc nhìn của những người dân để phán quyết đối với bị
cáo có tội hay không có tội, tội danh gì và mức hình phạt tương xứng. Vì vậy không thể yêu cầu Hội thẩm
phải có trình độ chuyên môn cao, chuyên nghiệp như thẩm phán. Không chỉ Việt Nam mà hầu hết các
nước trên thế giới, thành viên bồi thẩm đoàn đều là những công dân có uy tín đại diện cho các bộ phận
dân cư trực tiếp tham gia xét xử, không yêu cầu cao về tiêu chuẩn trình độ pháp lý. Tuy nhiên các Hội
thẩm nhân dân cần chủ động tìm hiểu pháp luật, nâng cao trách nhiệm của mình đối với công tác xét xử,
để có đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ Hội thẩm của mình.
Đoàn Hội thẩm nhân dân cần độc lập về tài chính và việc bố trí Hội thẩm tham gia phiên tòa.
Để khuyến khích Hội thẩm nhân dân nâng cao tinh thần trách nhiệm, tích cực nghiên cứu hồ sơ, tham
gia xét xử có hiệu quả cần có chế độ đãi ngộ tương xứng. Kinh phí hoạt động của Đoàn Hội thẩm nhân
dân cần phải độc lập không phụ thuộc vào Tòa án như hiện nay, để đoàn hội thẩm chủ động chi trực tiếp
cho các hội thẩm tham gia nghiên cứu hồ sơ và xét xử. Mặt khác cũng là để tạo điều kiện cho Hội thẩm
nhân dân độc lập khi xét xử, giao việc bố trí Hội thẩm tham gia phiên tòa cho Đoàn Hội thẩm. Đoàn Hội
thẩm cần có quy chế bố trí Hội thẩm lần lượt tham gia phiên tòa, nếu vì lý do không tham gia xét xử được
khi đến lượt phải có văn bản báo cáo và được bố trí tham gia vào lần tiếp theo. Tránh tình trạng Hội thẩm
không theo định hướng của thẩm phán khi nghị án thì ít được mời tham gia xét xử hoặc để tiết kiệm kinh
phí, thời gian Tòa án bố trí cho Hội thẩm nghiên cứu hồ sơ quá ít so với yêu cầu.
- Bảo đảm nguyên tắc khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Nguyên tắc này được đảm bảo dưới các khía cạnh sau:
Thứ nhất: Độc lập với những yếu tố khách quan tác động từ bên ngoài Tòa án.
Thứ hai: Độc lập từ các yếu tố khách quan tác động từ bên trong các mối quan hệ nội bộ của Tòa án.
Độc lập giữa Tòa án cấp dưới với Tòa án cấp trên, độc lập trong nội bộ một Tòa án, giữa thẩm phán chủ
tọa với chánh án, chánh tòa. Cần phải tách bạch giữa quan hệ hành chính với quan hệ tố tụng. Đề cao
trách nhiệm của Hội đồng xét xử đối với phán quyết của mình.
Thứ ba: Độc lập giữa các thành viên trong Hội đồng xét xử, mỗi thành viên độc lập và ngang quyền
với nhau trong việc đánh giá chứng cứ và đưa ra kết luận.
Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là hai nội dung có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chỉ khi nào bảo đảm
cho Thẩm phán và Hội thẩm độc lập, thì họ mới chỉ tuân theo pháp luật và ngược lại. Thẩm phán và Hội thẩm
độc lập mới nâng cao được chất lượng xét xử, nâng cao trách nhiệm cá nhân của các thành viên Hội đồng xét
xử, đúng với tính chất của hoạt động xét xử, bảo đảm khách quan đúng với diễn biến phiên tòa.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan điều tra và công tố cũng như các cơ quan bổ trợ tư
pháp khác.
Trong chiến lược cải cách tư pháp, Tòa án được xác định là trung tâm, xét xử là trọng tâm. Xét xử là
một giai đoạn tố tụng độc lập, nhưng chất lượng xét xử phụ thuộc rất lớn vào chất lượng hoạt động của cơ
quan điều tra, cơ quan công tố và chất lượng hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp.
- Tăng cường và đổi mới công tác giám sát hoạt động ADPL hình sự của Tòa án.
Kịp thời đưa bản án hình sự lên mạng internet tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể giám sát hoạt
động ADPL của Tòa án.
Tăng cường công tác giám sát của cơ quan đại diện, các thành viên trong hệ thống chính trị cũng như mọi
công dân đối với công tác xét xử của Tòa án.
Chú trọng công tác tự kiểm tra của ngành thông qua công tác giám đốc án, kịp thời phát hiện và khắc
phục sai sót của Tòa án cấp dưới.
Kết luận chƣơng 3
Để bảo đảm chất lượng ADPL hình sự cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau. Đó là giải pháp
chung như hoàn thiện pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật có liên quan, tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xét xử của Tòa án. Các giải pháp cụ thể, như Bảo đảm sự độc
lập của Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật; Nâng cao trình độ năng lực chuyên môn,
giáo dục chính trị tư tưởng, chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ thẩm phán; Đổi mới tổ chức, hoạt động của Đoàn
Hội thẩm, nâng cao trách nhiệm và chế độ đãi ngộ với hội thẩm nhân dân; Nâng cao chất lượng hoạt động
của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và các cơ quan tổ chức bổ trợ tư pháp; Đổi mới cơ chế giám sát hoạt động
của Tòa án... Trong đó, giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng có tính chất bao trùm và xuyên suốt.
KẾT LUẬN
ADPL là một trong những hình thức thực hiện pháp luật, do các cá nhân hoặc các cơ quan tổ chức có
thẩm quyền thực hiện. ADPL hình sự của Tòa án cũng là một hình thức thực hiện pháp luật, nên nó có
đặc điểm chung của hoạt động ADPL nhưng nó có những đặc thù riêng đó là chủ yếu được tiến hành
công khai tại phiên tòa và do Hội đồng xét xử áp dụng, tuân thủ nghiêm ngặt các thủ tục tố tụng hình sự.
Đánh giá về hoạt động xét xử của Tòa án, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã nêu: "Việc thực
hiện các thủ tục tố tụng ngày càng tốt hơn, hạn chế được tình trạng truy tố, xét xử oan, sai hay bỏ lọt tội
phạm. Chất lượng điều tra, truy tố, xét xử được nâng lên". Tuy nhiên "Cải cách tư pháp còn chậm, chưa
đồng bộ. Công tác điều tra, truy tố, giam giữ, xét xử trong một số trường hợp còn chưa chính xác, án tồn
đọng, bị hủy, bị cải sửa còn nhiều".
Để đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đòi hỏi của người dân đối với cơ quan tư pháp nói
chung và Tòa án nói riêng, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về tổ
chức và hoạt động xét xử của Tòa án. Cụ thể: Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã
xác định: "Khi xét xử, các Tòa án phải đảm bảo cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân
chủ khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Việc phán quyết phải căn cứ
vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát
viên, của người bào chữa, của bị cáo, nguyên đơn, bị đơn".
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ: "Hoạt động tư pháp mà trọng
tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao" và đề ra yêu cầu: "Đổi mới việc tổ
chức ra phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng
tranh tụng tại phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp".
Vì vậy nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án nói chung xét xử hình sự nói riêng đang là yêu cầu
cấp thiết hiện nay. Qua nghiên cứu thực tế toàn bộ hoạt động ADPL hình sự của TAND ở tỉnh Thanh
Hóa trong 05 năm từ 2006 đến năm 2010 thấy rằng hoạt động ADPL hình sự của Tòa án chủ yếu là do
Hội đồng xét xử áp dụng tại phiên tòa, theo thủ tục tố tụng hình sự, kết quả được thể hiện dưới hình
thức là những bản án. Trong những năm qua hầu hết hoạt động ADPL hình sự của Tòa án tỉnh Thanh
Hóa là đúng quy định của pháp luật, góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, tạo môi trường ổn định, thuận lợi cho kinh tế - xã hội phát triển. Tuy nhiên bên cạnh những
thành tích đạt được vẫn còn tình trạng án oan, sai, bỏ lọt người phạm tội. Nguyên nhân chủ yếu là do
Hội đồng xét xử sai lầm trong việc đánh giá chứng cứ, xác định đồng phạm, không đánh giá khách quan
toàn diện vụ án hoặc không cập nhật kịp thời các văn bản pháp luật mới, vi phạm nghiêm trọng các thủ
tục tố tụng Mặc dù tỷ lệ án bị hủy, cải sửa lớn chiếm tỷ lệ rất nhỏ (dưới 1,5 % tổng số vụ án đã giải
quyết) nhưng ảnh hưởng lớn đến uy tín của Tòa án, niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn ADPL hình sự tại TAND ở tỉnh Thanh Hóa với đề tài "Áp
dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân (qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa)" tôi có một số kiến nghị
như sau:
Thứ nhất: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xét xử của Tòa án; tiếp tục đổi mới tổ
chức, hoạt động của Tòa án và hoàn thiện BLHS, BLTTHS để phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và thực
tiễn ADPL hình sự.
Thứ hai: chủ thể chủ yếu và trực tiếp ADPL hình sự của Tòa án là Hội đồng xét xử. Cần phải nâng cao
trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm cũng như có chế độ đãi ngộ thỏa
đáng, sử dụng hợp lý đối với họ. Đồng thời tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ xét xử.
Thứ ba: Cần có cơ chế bảo đảm cho Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật, đề cao trách nhiệm của Hội đồng xét xử cũng như mỗi thành viên Hội đồng xét xử đối với phán
quyết của mình. Bảo đảm tranh tụng thực sự dân chủ, bình đẳng và kết quả tranh tụng công khai tại phiên
tòa là cơ sở để Hội đồng xét xử quyết định tội danh và hình phạt đối với bị cáo cũng như các vấn đề khác
của vụ án.
Thứ tư: Nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và các cơ quan bổ trợ tư
pháp. Mặc dù là một giai đoạn tố tụng độc lập nhưng chất lượng xét xử án hình sự phụ thuộc rất lớn vào kết
quả điều tra của cơ quan điều tra, truy tố cũng như kết quả của các cơ quan bổ trợ tư pháp. Để nâng cao chất
lượng xét xử án hình sự phải nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan này.
Thứ năm: Đổi mới và tăng cường cơ chế giám sát hoạt động ADPL của Tòa án, theo hướng công khai,
minh bạch hoạt động ADPL của Tòa án, tạo điều kiện thuận lợi để các chủ thể thực hiện quyền giám sát hoạt
động xét xử của Tòa án. Sớm đưa bản án hình sự của Tòa án lên mạng internet (trừ một số vụ án ảnh hưởng đến
an ninh quốc gia, thuần phong mỹ tục của dân tộc). Kịp thời phát hiện và xử lý đối với thẩm phán, Hội thẩm và
công chức khác của Tòa án sai phạm hoặc không đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và
nhân dân giao phó.
Chỉ khi áp dụng đồng bộ các giải pháp này mới bảo đảm được chất lượng hoạt động ADPL hình sự
của Tòa án, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay và xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân do dân
và vì dân.
References.
1. Bộ Tư pháp (1995), Hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Lê Cảm (2006), "Các nguyên tắc cơ bản của cải cách tư pháp trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt Nam, Tòa án nhân dân, (01).
3. Tô Xuân Dân - Nguyễn Thanh Bình (2004), "Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
do, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng", Tạp chí Cộng sản, (4).
4. Nguyễn Tấn Dũng (2003), Bài phát biểu tại hội nghị tổng kết công tác năm 2002 và triển khai công
tác năm 2003 của ngành Kiểm sát nhân dân, ngày 7/01/2003, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6 của Bộ Chính trị về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Kết luận số 79 ngày 28/7 của Bộ Chính trị về đề án đổi mới tổ
chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan điều tra theo nghị quyết 49-NQ/TW ngày
02/6/2005, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương khóa
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Nguyễn Minh Đoan (1997), Hiệu quả pháp luật - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
14. Nguyễn Minh Đoan (2009), "Bàn thêm về cải cách tư pháp ở Việt Nam", Tòa án nhân dân, (14).
15. Phạm Hồng Hải (1999), Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội.
16. Phạm Hồng Hải (1999), "Chuẩn bị xét xử vụ án hình sự - một vài vấn đề lý luận và thực tiễn", Nhà
nước và pháp luật, (6).
17. Phạm Hồng Hải (2003), "Đạo đức nghề nghiệp và hiệu quả của hoạt động tư pháp", Luật học, (2).
18. Phạm Hồng Hải (2003), Mô hình lý luận Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội.
19. Hoàng Văn Hảo (1999), "Xã hội hóa một số hoạt động của cơ quan tư pháp nhìn từ góc độ dân chủ",
Dân chủ và pháp luật, (8).
20. Hoàng Văn Hảo (2003), "Vấn đề dân chủ và các đặc trưng của mô hình tổng thể Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", Nhà nước và pháp luật, (2).
21. Nguyễn Văn Hiện (1999), "Một số vấn đề thực tiễn xét xử và vướng mắc trong việc phân biệt giữa
các tội phạm: "Lừa đảo chiếm đoạt...", "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt...", "Sử dụng trái phép
tài sản xã hội chủ nghĩa" quy định tại các điều 134, 134a, 135, 137, 137a, 157, 158 Bộ luật
hình sự và phân biệt các tội phạm này với các vi phạm pháp luật dân sự, kinh tế", Tòa án nhân
dân, (1).
22. Nguyễn Văn Hiện (2001), "Nâng cao chất lượng soạn thảo bản án hình sự - một yêu cầu cấp bách",
Dân chủ và pháp luật, (4).
23. Nguyễn Văn Hiện (2002), "Tăng cường năng lực xét xử của tòa án cấp huyện - một số vấn đề cấp
bách", Tòa án nhân dân, (1).
24. Phan Chí Hiếu (2011), "Đào tạo các chức danh tư pháp - nhiệm vụ quan trọng để xây dựng đội nhũ
cán bộ tư pháp trong sạch vững mạnh", Dân chủ và pháp luật, (01).
25. Nguyễn Ngọc Hòa (2000), "Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm
1999", Luật học, (2).
26. Nguyễn Mạnh Kháng (2003), "Cải cách tư pháp và vấn đề tranh tụng", Nhà nước và pháp luật, (10).
27. Khoa Luâṭ, Đại học Quốc gia Hà Nội (2006), Giáo trình Lý luận chung Nhà nước và pháp luật , Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
28. Hoàng Thế Liên (2004), "Xây dựng Nhà nước pháp quyền từ lý luận đến thực tiễn", Dân chủ và pháp
luật, (1).
29. Hoàng Thế Liên (2011), "Về hệ thống cơ quan xét xử và vấn đề công tố, Dân chủ và pháp luật, (01).
30. Nguyễn Văn Luyện (2003), "Dư luận xã hội và pháp luật", Nhà nước và pháp luật, (3).
31. C. Mác - Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Nguyễn Văn Mạnh (2002), "Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân",
Báo Nhân Dân, ngày 16/5.
33. Đinh Văn Mậu - Phạm Hồng Thái (1997), Lịch sử các học thuyết chính trị - pháp lý, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh
34. Đinh Văn Mậu - Phạm Hồng Thái (2002), Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Tổng hợp,
Đồng Nai.
35. Hồ Chí Minh (1976), Về đạo đức cách mạng, Nxb Sự thật, Hà Nội.
36. Nguyễn Như Phát (2004), "Một số ý kiến về cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", Nhà
nước và pháp luật, (3).
37. Đặng Quang Phương (2004), "Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh là đòi hỏi tất yếu trong thi hành
pháp luật", Tòa án nhân dân, (7).
38. Hoàng Thị Kim Quế (2004), "Nhận diện nhà nước pháp quyền", Nghiên cứu lập pháp, (4).
39. Đinh Văn Quế (1999), Pháp luật, thực tiễn và án lệ, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
40. Đinh Văn Quế (2011), "Nguyên tắc suy đoán vô tội", Tòa án nhân dân, (12).
41. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
42. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
43. Quốc hội (2001), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội
44. Quốc hội (2002), Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.
45. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
46. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
47. Quốc hội (2010), Luật Thi hành án hình sự, Hà Nội.
48. Nguyễn Duy Quý (2001), "Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân", Báo Nhân Dân, ngày 29/11.
49. Lê Minh Tâm (2002), "Về tư tưởng Nhà nước pháp quyền và khái niệm Nhà nước pháp quyền", Luật
học, (2).
50. Lê Minh Tâm (2003), "Hệ thống cơ quan tư pháp Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay",
Luật học,(1).
51. Chu Hồng Thanh (1990), "Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp luật dân
chủ nhân dân Việt Nam", Nghiên cứu lý luận, (4).
52. Chu Hồng Thanh (2001), "Bảo đảm công bằng xã hội trong tư pháp", Dân chủ và pháp luật, (2).
53. Đỗ Ngọc Thịnh (2003), "Tăng cường công tác đào tạo các chức danh tư pháp trong điều kiện cải cách
tư pháp ở nước ta", Đặc san Nghề Luật, (4).
54. Ngô Ngọc Thủy (1998), "Chính sách pháp luật, chính sách hình sự trong sự nghiệp đổi mới của Nhà
nước ta", Luật học, (5).
55. Phan Hữu Thư (2003), "Đạo đức nghề luật", Đặc san Nghề luật, (3) và (4).
56. Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2006), Báo cảo tổng kết ngành Tòa án năm 2006, Thanh Hóa.
57. Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2007), Báo cảo tổng kết ngành Tòa án năm 2007, Thanh Hóa.
58. Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2008), Báo cảo tổng kết ngành Tòa án năm 2008, Thanh Hóa.
59. Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2009), Báo cảo tổng kết ngành Tòa án năm 2009, Thanh Hóa.
60. Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2010), Báo cảo tổng kết ngành Tòa án năm 2010, Thanh Hóa.
61. Tòa án nhân dân tối cao (2002), Các văn bản pháp luật và hướng dẫn thi hành về tổ chức và hoạt
động của tòa án nhân dân, Hà Nội.
62. Hà Mạnh Trí (2003), "Sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự nhằm đấu tranh có hiệu quả với tội phạm, bảo
vệ tốt hơn quyền tự do dân chủ của công dân", Kiểm sát, (6).
63. Trường Đại học Luật Hà Nội (2003)., Giáo trình Luật hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
64. Nguyễn Văn Tuân (2011), "Đảm bảo sự độc lập của Thẩm phán trong hoạt động xét xử", Dân chủ
pháp luật, (01).
65. Từ điển Luật học (1999), Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
66. Đào Trí Úc (1993), Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
67. Đào Trí Úc (2003), "Cải cách tư pháp: ý nghĩa, mục đích và trọng tâm", Nhà nước và pháp luật, (2).
68. Đào Trí Úc (2003), "Về vị trí, vai trò, đặc trưng và các nguyên tắc của hoạt động tư pháp", Nhà nước
và pháp luật, (7).
69. Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý (2000), "Người thẩm phán nhân dân", Thông tin khoa học pháp
lý, (5).
70. Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý (2001), "Văn hóa tư pháp", Thông tin khoa học pháp lý, (7).
71. Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý (2001), Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
72. Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý (2001), "Các giải pháp chống hình sự hóa các giao dịch dân sự,
kinh tế", Thông tin khoa học pháp lý, (9).
73. Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý (2003), "Chuyên đề đánh giá thực trạng và nhu cầu phát triển
công tác đào tạo pháp luật ở Việt Nam đến năm 2010", Thông tin khoa học pháp lý, (4).
74. Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý (2003), "Một số vấn đề về cải cách tư pháp ở Trung Quốc", Thông
tin khoa học pháp lý, (12).
75. Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (1992), Tìm hiểu về Nhà nước pháp quyền, Nxb Pháp lý, Hà
Nội.
76. Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (1994), Xã hội và pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
77. Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (1995), Những vấn đề lý luận cơ bản về Nhà nước và pháp
luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
78. Viện Thông tin Khoa học xã hội (1992), Thuyết tam quyền phân lập và bộ máy nhà nước tư sản hiện
đại, Hà Nội.
79. Võ Khánh Vinh (1994), Nguyên tắc công bằng trong Luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội.
PHỤ LỤC
BẢNG KẾT QUẢ GIẢI QUYẾT ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
Ở TỈNH THANH HÓA TRONG 05 NĂM TỪ 2006 ĐẾN 2010
Năm Số vụ án
thụ lý
Số vụ án
đã xét xử
Số bị cáo
đã xét xử
Tỷ lệ
giải quyết
2006 1.441 1.294 1.984 90%
2007 1.383 1.359 2.172 98%
2008 1.466 1.466 2.463 97%
2009 1.831 1.723 2.752 94%
2010 1.621 1.583 2.459 97,7%
Nguồn: văn phòng tổng hợp Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 00050001286_8216_2017588.pdf