Tuổi mầm non là thời kỳ quan trọng nhất để phát triển ngôn ngữ. Khi
trẻ lên 3 tuổi là giai đoạn mà vốn từ được phát triển một cách nhanh
chóng. ("Thỏ thẻ như trẻ lên 3"). Sau đó, ngôn ngữ của trẻ bắt đầu hoàn
thiện dần về chất lượng. Ngôn ngữ của trẻ được biểu hiện trước hết ở lời
nói. Lời nói mạch lạc, một mặt, phản ánh chất lượng phát triển ngôn ngữ
của trẻ, được thể hiện rõ nhất ở lứa tuổi mẫu giáo lớn; mặt khác, còn thể
hiện sự phát triển của tư duy. Lời nói mạch lạc không những phản ánh sự
phát triển về phương diện ngôn ngữ, mà còn cả về phương diện tư duy.
Tư duy càng rõ ràng, tường minh, thì ngôn ngữ càng mạch lạc. Tuy
nhiên, để cung cấp hình ảnh, sự kiện, cũng như vốn từ ngữ làm nguyên
liệu cho quá trình tư duy, cần phải có tác động của các nhận thức khác
trong quá trình phát triển tâm-sinh lý của trẻ, cũng như các tác động
khách quan của quá trình nuôi dạy, giáo dục trẻ em. Nói về quá trình tâm
lý, thì trí nhớ có vai trò đặc biệt, ảnh hưởng trực tiếp tới ngôn ngữ, và
theo đó tới khả năng diễn đạt mạch lạc qua lời nói. Như vậy, trí nhớ là
một trong những quá trình tâm lý làm nên chất lượng trong lời nói mạch
lạc của trẻ. Để góp phần làm rõ sự ảnh hưởng của trí nhớ đến khả năng
diễn đạt mạch lạc ở trẻ mẫu giáo lớn, chúng tôi chọn nghiên cứu trường
hợp một trường mầm non tại Hà Nội.
9 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 08/03/2022 | Lượt xem: 360 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của trí nhớ đến khả năng diễn đạt mạch lạc ở trẻ Mẫu giáo lớn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẢNH HƯỞNG CỦA TRÍ NHỚ ĐẾN KHẢ NĂNG
DIỄN ĐẠT MẠCH LẠC Ở TRẺ MẪU GIÁO LỚN
( Nghiên cứu trường hợp trẻ Trường Mầm non Nghĩa Đô - Cầu Giấy - Hà Nội)
NGUYỄN THỊ HẢI THIỆN*
1. Đặt vấn đề
Tuổi mầm non là thời kỳ quan trọng nhất để phát triển ngôn ngữ. Khi
trẻ lên 3 tuổi là giai đoạn mà vốn từ được phát triển một cách nhanh
chóng. ("Thỏ thẻ như trẻ lên 3"). Sau đó, ngôn ngữ của trẻ bắt đầu hoàn
thiện dần về chất lượng. Ngôn ngữ của trẻ được biểu hiện trước hết ở lời
nói. Lời nói mạch lạc, một mặt, phản ánh chất lượng phát triển ngôn ngữ
của trẻ, được thể hiện rõ nhất ở lứa tuổi mẫu giáo lớn; mặt khác, còn thể
hiện sự phát triển của tư duy. Lời nói mạch lạc không những phản ánh sự
phát triển về phương diện ngôn ngữ, mà còn cả về phương diện tư duy.
Tư duy càng rõ ràng, tường minh, thì ngôn ngữ càng mạch lạc. Tuy
nhiên, để cung cấp hình ảnh, sự kiện, cũng như vốn từ ngữlàm nguyên
liệu cho quá trình tư duy, cần phải có tác động của các nhận thức khác
trong quá trình phát triển tâm-sinh lý của trẻ, cũng như các tác động
khách quan của quá trình nuôi dạy, giáo dục trẻ em. Nói về quá trình tâm
lý, thì trí nhớ có vai trò đặc biệt, ảnh hưởng trực tiếp tới ngôn ngữ, và
theo đó tới khả năng diễn đạt mạch lạc qua lời nói. Như vậy, trí nhớ là
một trong những quá trình tâm lý làm nên chất lượng trong lời nói mạch
lạc của trẻ. Để góp phần làm rõ sự ảnh hưởng của trí nhớ đến khả năng
diễn đạt mạch lạc ở trẻ mẫu giáo lớn, chúng tôi chọn nghiên cứu trường
hợp một trường mầm non tại Hà Nội.
2. Khách thể và phương pháp nghiên cứu
2.1. Khách thể nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành trên 30 trẻ
mẫu giáo lớn thuộc Trường Mầm non Nghĩa Đô - Cầu Giấy - Hà Nội (số
khách thể tối thiểu cho phép trong quá trình chọn mẫu nghiên cứu).
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến của một số chuyên gia
Ngôn ngữ học để làm cơ sở nghiên cứu về biểu hiện của khả năng diễn
đạt mạch lạc. Trên cơ sở đó, xây dựng một số bài tập đánh giá khả năng
này của trẻ mẫu giáo lớn.
* Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Ảnh hưởng của trí nhớ
47
2.2.2. Phương pháp quan sát: Tham dự một số giờ học của hai lớp
mẫu giáo lớn. Trong đó, tập trung quan sát tiến trình dạy và học của cô
giáo và học trò, ghi chép kết quả cụ thể về khả năng nhớ và diễn đạt
mạch lạc của trẻ; đồng thời kết hợp quan sát thái độ, hành vi, sự tích cực
của trẻ khi tham gia các giờ học này.
2.3. Các tiêu chí đánh giá
2.3.1. Tiêu chí đánh giá trí nhớ
STT Tiêu chí Điểm
1 Khối lượng ghi nhớ
Nhớ được từ 3 từ trở lên 10
Nhớ được 2 từ 5
Nhớ được 1 từ 0
2
Khả năng tái hiện
thông tin
Ngay lập tức khi giáo viên phát lệnh
hỏi, tái hiện được 3 từ trở lên
10
Ngay lập tức khi giáo viên phát
lệnh hỏi, tái hiện được dưới 3 từ
5
Cần thời gian suy nghĩ, hồi tưởng
lại, tái hiện lại, tái hiện được 3 từ
trở lên
8
Cần thời gian suy nghĩ, hồi tưởng
lại, tái hiện được dưới 3 từ
0
3
Hoàn cảnh vận dụng
từ nhớ được
Hợp lý 10
Không hợp lý 0
4 Độ bền của trí nhớ
Cuối giờ nhớ được 2 từ trở lên 10
Cuối giờ nhớ được dưới 2 từ 5
Không nhớ từ 0
- Số điểm tối đa trẻ có thể đạt được: 40 điểm
- Xếp loại: + Từ 30 - 40 điểm: trí nhớ tốt
+ Từ 20 - 30 điểm: trí nhớ khá
+ Từ 10 - 20 điểm: trí nhớ trung bình
+ Dưới 10 điểm: trí nhớ kém
- Bài tập đo trí nhớ: là một bài tập gồm 6 dãy từ, mỗi dãy từ là một chủ
đề nhất định:
+ Hoa mai, hoa đào, hoa huệ, hoa hồng, hoa cúc, hoa đồng tiền
+ Lăng Bác, chùa Một Cột, bảo tàng dân tộc, quảng trường
+ Nhà sàn, ao cá, vườn ăn quả, thảm cỏ
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2011
48
+ Thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, cố đô Huế
+ Nắng, mưa, sương, gió
+ Mặt trời, đám mây, cồng vồng, bốc hơi nước
- Cách thức tiến hành: Giáo viên đặt câu hỏi: “Các con hãy nghe và
nhớ xem cô nhắc đến những cụm từ nào?”. Sau đó cô giáo gọi trẻ trả lời.
2.3.2. Tiêu chí đánh giá khả năng diễn đạt mạch lạc
Tiêu chí Điểm
Nói đúng ngữ pháp
10 câu đúng trở lên 10
Đúng từ 5 - 10 câu 5
Mỗi câu sai trừ 2 điểm -2
Cấu trúc câu chuyện
Kể chuyện có phần mở đầu 2
Kể chuyện có phần diễn biến 6
Kể chuyện có phần kết thúc 2
Nội dung
Đầy đủ 6
Rõ ràng 2
Có chủ đề 2
Sử dụng các phép liên kết
Phép nối 4
Phép lặp 2
Phép thế 4
Trình bày
Trình bày trôi chảy, rõ ràng,
không ngắt quãng
10
Trình bày rõ ràng, có ngắt
quãng 1 - 3 lần
8
Trình bày ngắt quãng hoặc lặp
lại 4 -7 lần
5
Trình bày ngắt quãng 7 lần trở
lên
0
Sắc thái biểu cảm
Biểu cảm rõ 10
Biểu cảm không rõ 5
Không biểu cảm 0
- Số điểm tối đa trẻ có thể đạt được: 60 điểm.
- Xếp loại: + Từ 45 - 60 điểm: diễn đạt mạch lạc tốt
+ Từ 30 - 35 điểm: diễn đạt mạch lạc khá
+ Từ 25 - 30 điểm: diễn đạt mạch lạc trung bình
+ Dưới 25 điểm: diễn đạt mạch lạc ở mức yếu
- Bài tập đo: + Kể lại chuyện văn học: Truyện “Quả bầu tiên”.
Ảnh hưởng của trí nhớ
49
+ Kể chuyện theo kinh nghiệm: “Em hãy kể lại những việc
em đã làm ngày hôm qua”.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Kết quả đo trí nhớ
STT Xếp loại trí nhớ Số lượng %
1 Tốt 9 30,00
2 Khá 9 30,00
3 Trung bình 6 20,00
4 Kém 6 20,00
Nhận xét:
Tuổi mẫu giáo là thời kỳ mà hoạt động nhận thức nói chung, trí nhớ nói
riêng mới bắt đầu phát triển. Sự phát triển trí nhớ trong giai đoạn này được
thể hiện chủ yếu về mặt số lượng (khối lượng ghi nhớ), chưa có sự nhảy
vọt về chất lượng. Nói cách khác, trí nhớ của trẻ mới bắt đầu phát triển,
nên chưa hoàn thiện. Trẻ có thể nhớ được khối lượng lớn hình ảnh, từ ngữ,
bài thơ, câu chuyện, nhưng mới chỉ là nhớ một cách máy móc. Do vậy,
trẻ có trí nhớ tốt (30%); trí nhớ khá (30%); trung bình (20%); kém (20%).
Với bài tập có ý nghĩa thước đo này (bài tập mà các từ có liên quan đến
một chủ đề nhất định, đòi hỏi các em phải nhận ra mối liên hệ ), thì nhiều
em chưa nhận ra mối liên hệ của các từ trong dãy từ, mà chỉ ghi nhớ máy
móc, rời rạc, đứt quãng giữa các từ, do đó dẫn đến tái hiện không hết hoặc
không chính xác các dãy từ mà giáo viên đưa ra.
Chất lượng trí nhớ của trẻ có sự khác biệt. Có những trẻ nhớ rất tốt, có
thể nhớ hết 6 cụm từ cô giáo đã nêu (hoa mai, hoa đào, hoa huệ, hoa
hồng, hoa cúc, hoa đồng tiền) và tái hiện lại cả 6 cụm từ ngay sau khi cô
phát lệnh hỏi. Cuổi giờ cô hỏi lại, cháu vẫn nhớ được 4 cụm từ. Bên cạnh
đó, một số trẻ có biểu hiện trí nhớ chưa tốt, đã không nhớ được cụm từ
nào trong 4 cụm từ cô nêu (nhà sàn, ao cá, vườn ăn quả, thảm cỏ). Khi kể
chuyện, các cháu cũng chỉ nhớ được một câu mở đầu: “Ngày xửa, ngày
xưa có một chú bé con nhà nghè, nhưng rất tốt bụng”.
Qua quan sát, chúng tôi nhận thấy những cháu có trí nhớ không tốt
thường có một số biểu hiện như thiếu tập trung chú ý, không tích cực suy
nghĩ khi nghe câu hỏi của cô, dẫn đến việc chỉ tái hiện được những điều
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2011
50
liên quan đến mong muốn của trẻ trong thời điểm hiện tại, chứ chưa có
khả năng tái hiện được những hiểu biết hoặc kinh nghiệm theo yêu cầu
của hoạt động.
3.2. Kết quả đo khả năng diễn đạt mạch lạc của trẻ mẫu giáo lớn
trong kể lại truyện văn học và kể chuyện theo kinh nghiệm
STT
Xếp loại
diễn đạt mạch lạc
Kể lại
truyện văn học
Kể chuyện theo
kinh nghiệm
Số lượng % Số lượng %
1 Tốt 9 30,00 8 26,60
2 Khá 3 10,00 11 36,70
3 Trung bình 0 0 0 0
4 Yếu 18 60,00 11 36,70
Nhận xét:
Nhìn chung, khả năng diễn đạt mạch lạc của trẻ chưa tốt. Trẻ thường
chỉ kể được 1 - 3 câu, mặc dù đã có sự gợi ý của giáo viên. Khi kể
chuyện, trẻ còn dùng từ ngữ chưa chuẩn xác.
Ví dụ: - Hôm qua con chùi (lau dọn) nhà cửa cho bà con ạ!
- Con dùng cái que (cây lau nhà, chổi lau nhà) để lau nhà ạ!
So sánh giữa kể truyện văn học và kể chuyện theo kinh nghiệm, thì trẻ
kể truyện văn học không mạch lạc bằng khi kể chuyện theo kinh nghiệm,
thể hiện theo tỷ lệ trẻ diễn đạt yếu khi kể truyện văn học là 60% so với
36,7% theo kinh nghiện. Sở dĩ như vậy là vì kể lại truyện văn học đòi hỏi
trẻ cần tái hiện nội dung, hình thức cũng như sắc thái biểu cảm mà cô
giáo đã thể hiện trước đó. Điều này khiến trẻ gặp khó khăn khi phải cố
gắng để nhớ đúng trình tự câu chuyện, cũng như những chi tiết khác về
hình thức kể chuyện. Do vậy, khi kể lại, trẻ thường ấp úng, nhát gừng,
nói lặp, hoặc bỏ quên một số chi tiết. Đặc biệt, những trẻ thiếu tập trung
chú ý khi nghe cô kể chuyện lại càng gặp nhiều khó khăn khi phải kể lại
câu chuyện đó.
Khi kể chuyện theo kinh nghiệm, trẻ được tự do diễn đạt những hiểu
biết đã có của mình. Khi đó, việc diễn đạt mạch lạc hay không chủ yếu
phụ thuộc vào những kinh nghiệm mà các em có được có rõ ràng không.
Ảnh hưởng của trí nhớ
51
Do vậy, tỉ lệ trẻ diễn đạt mạch lạc ở mức độ “tốt”, “khá” cao hơn hẳn so
với kể truyện văn học.
Qua quan sát cho thấy, những trẻ có trí nhớ tốt, thì khả năng kể
chuyện và diễn đạt mạch lạc thường tốt hơn những trẻ khác. Ví dụ, cháu
Chi linh có thể nhớ hết cả 6 cụm từ cô đưa ra và cũng có thể kể lại trọn
vẹn một câu chuyện theo một lôgic tương đối chặt chẽ.
3.3. Ảnh hưởng của trí nhớ đến khả năng diễn đạt mạch lạc của trẻ
trong kể lại truyện văn học
Áp dụng công thức tính hệ số tương quan, chúng tôi thu được kết quả sau:
- Độ lệch chuẩn của trí nhớ: Sx =
n
XX i
2
=
30
4310
= 11,99
- Độ lệch chuẩn của khả năng diễn đạt mạch lạc:
SY =
n
YYi
2
=
30
31,345
= 18,58
- Hệ số tương quan giữa trí nhớ và khả năng diễn đạt mạch lạc trong
kể lại truyện văn học:
r =
yX SS
YXYX
.
..
=
58,18.99,11
17,58387,653
= 0,317
Nhận xét: Với r = 0,317 cho thấy đây là tương quan thuận. Nói cách
khác, trí nhớ ảnh hưởng thuận lợi đến khả năng diễn đạt mạch lạc của trẻ
khi kể lại truyện văn học.
3.4. Ảnh hưởng của trí nhớ đến khả năng diễn đạt mạch lạc của trẻ
trong kể chuyện theo kinh nghiệm
Áp dụng công thức tính hệ số tương quan, chúng tôi thu được kết quả sau:
- Độ lệch chuẩn của trí nhớ: Sx =
n
XX i
2
=
30
4310
= 11,99
- Độ lệch chuẩn của khả năng diễn đạt mạch lạc trong kể chuyện theo
kinh nghiệm:
SY =
n
YYi
2
=
30
3,9064
= 17,38
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2011
52
- Hệ số tương quan giữa trí nhớ và khả năng diễn đạt mạch lạc trong
kể chuyện theo kinh nghiệm:
r =
yX SS
YXYX
.
..
=
38,17.99,11
7,60257,678
= 0,364
Nhận xét: Với r = 0,364 cho thấy đây là tương quan thuận, khá chặt
chẽ. Điều đó chứng tỏ rằng, khi kể chuyện theo kinh nghiệm, trí nhớ của
trẻ càng tốt, thì diễn đạt càng mạch lạc và ngược lại. Đồng thời, khi được
phỏng vấn, trẻ có trí nhớ tốt, có khả năng diễn đạt lời nói một cách linh
hoạt, gãy gọn hơn.
Trí nhớ giúp trẻ tích lũy được vốn kinh nghiệm nhất định về hiện thực
khách quan để khi cần thiết chúng sẽ huy động nó. Khi một đứa trẻ có trí
nhớ tốt sẽ lưu giữ lại được rất nhiều hình ảnh trong đầu óc mình, trong
hoàn cảnh cần thiết, vốn tri thức kinh nghiệm đó sẽ được bộc lộ ra.
Ví dụ: Khi em Thanh Lâm được hỏi: “Tối qua con làm gì?”, em đã kể
lại được rất nhiều công việc em đã làm một cách lôgic:
- Thanh Lâm: Con thưa cô, tối qua con nhặt rau giúp bố con ạ!
- Cô giáo: A, con nhặt rau giúp bố à? Thế nhà con ai nấu cơm?
- Thanh Lâm: Con thưa cô, bố con nấu ạ!
- Cô giáo: Bố con thật là chu đáo, bố con nấu những món gì?
- Thanh Lâm: Con thưa cô, bố con nấu món rau rền luộc, trứng ốp la ạ.
- Cô giáo: Rau rền có nước màu gì, con có nhớ không?
- Thanh Lâm: Con thưa cô, rau rền có nước màu hồng ạ!
Bên cạnh đó, những trẻ có trí nhớ không tốt, thường là rất “bí” từ khi
diễn đạt. Có nhiều em đứng dậy không trả lời được; khi được cô gợi ý,
thì luôn nói là: “Con thưa cô, con đang suy nghĩ ạ!”. Câu trả lời mang
nhiều hình thức "chống chế" hơn là tích cực suy nghĩ để trả lời câu hỏi
của cô giáo.
Qua quan sát và phỏng vấn sâu, chúng tôi nhận thấy, những trẻ tích
cực trong giao tiếp ở nhà cũng như ở trường, thích nói chuyện với các cô
và các bạn, được khuyến khích nói và được khen ngợi mỗi khi nói đúng
thường tỏ ra tự tin hơn với những điều mình nói. Sự tự tin này tiếp tục
kích thích trẻ mạnh dạn nói lên những suy nghĩ trong đầu mình, tạo ra sự
mạch lạc và tính chất biểu cảm của lời nói.
Ảnh hưởng của trí nhớ
53
4. Kết luận và kiến nghị
Qua nghiên cứu trường hợp trẻ mẫu giáo lớn Trường Mầm non Nghĩa
Đô - Cầu Giấy - Hà Nội, cho phép chúng tôi đi đến kết luận là: Trí nhớ
và khả năng diễn đạt mạch lạc của trẻ có mối liên hệ trực tiếp theo hướng
tương quan tỷ lệ thuận. Trí nhớ càng tốt, thì càng giúp trẻ diễn đạt mạch
lạc trong kể lại truyện văn học hay kể chuyện theo kinh nghiệm và sự
hiểu biết của mình, cũng như trong giao tiếp hàng ngày nói chung;
Ngược lại, trẻ nào có trí nhớ yếu hơn, thì gặp khó khăn hơn trong quá
trình trên. Hơn nữa, mức độ ảnh hưởng của trí nhớ đến khả năng diễn đạt
mạch lạc của trẻ ở mỗi loại hình kể chuyện như đã nêu ở trên là khác
nhau. Trong đó, trí nhớ kể chuyện theo kinh nghiệm là tốt hơn, rõ rệt
hơn so với trí nhớ kể lại truyện văn học.
Từ khảo sát trên, cho ta thấy, việc giáo dục và rèn luyện để tăng
cường trí nhớ cho trẻ em là một quá trình thường xuyên và theo những
phương pháp khoa học. Tăng cường và phát triển trí nhớ là tăng cường
và phát triển khả năng tư duy của trẻ nhỏ. Đây cũng đồng thời là một
nhiệm vụ thiết yếu trong quá trình giáo dục và đào tạo con người.
Nghiên cứu nhỏ của chúng tôi có thể cung cấp phần nào cơ sở thực tế
để giáo viên Trường Mầm non Nghĩa Đô - Cầu Giấy - Hà Nội nói riêng,
các Trường Mầm non nói chung và các bậc cha mẹ có thể tham khảo để
định hướng và tìm tòi những phương pháp bồi dưỡng, giáo dục trí nhớ
cho trẻ được biểu hiện ở khả năng diễn đạt mạch lạc trong lời nói của trẻ
em. Chúng tôi mong muốn gợi ý một số điều cụ thể sau đây:
- Cần gương mẫu trong diễn đạt khi tiếp xúc với trẻ, có ý thức giáo
dục trẻ nói mạch lạc ngay từ nhỏ (bản thân người lớn không nói ngọng,
nói lắp, không nói nhát gừng, khó hiểu; đồng thời có ý thức tập luyện
cho trẻ diễn đạt gãy gọn từ mức độ đơn giản đến phức tạp hơn).
- Đặt nhiều câu hỏi mang tính kích thích, gợi mở để phát triển tư duy
của trẻ. Giáo viên tự xây dựng và thực hiện thường xuyên những bài
luyện tập trí nhớ cho trẻ từ đơn giản, gần gũi, gây được hứng thú đối với
trẻ khi học đến các hình thức khó, phức tạp hơn.
- Động viên, khuyến khích trẻ diễn đạt ý muốn, cảm xúc của mình.
Hướng dẫn trẻ bằng cách diễn đạt mẫu đúng với yêu cầu của cách diễn
đạt mạch lạc mỗi khi trẻ gặp khó khăn nào đó về từ ngữ hay sự kiện.
Khen ngợi kịp thời khi trẻ nỗ lực diễn đạt và diễn đạt thành công.
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2011
54
- Tổ chức cho trẻ tham gia các hoạt động ngoài trời, hoạt động ngoại
khoá một cách thích hợp để trẻ tích cực hoạt động và được giao lưu
nhiều với các cô, các bạn và mọi người xung quanh. Qua đó, tích luỹ
được nhiều hơn vốn từ ngữ, hình ảnh, vốn sống thực tế, làm giàu trí nhớ
và cung cấp nguyên liệu cho tư duy, tạo điều kiện để trẻ diễn đạt tốt hơn
các ý nghĩ của mình.
- Có tổng kết, đánh giả hiệu quả của việc xây dựng và thực hiện những
bài luyện tập trí nhớ cho trẻ để từng bước xây dựng những phương pháp
chuẩn hoặc giáo án bổ ích, thiết thực trong quá trình giáo dục rèn luyện
tăng cường trí nhớ và khả năng tư duy của trẻ em ./.
__________________
Tài liệu tham khảo
1. Diệp Quang Ban (1998), Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, Nxb.Giáo dục, Hà Nội.
2. Nguyễn Xuân Khoa (1997), Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo, Nxb.Đại
học Quốc gia Hà Nội.
3. Đinh Hồng Thái (2008), Phương pháp phát triển lời nói trẻ em, Nxb.Đại học Sư phạm.
4. Nguyễn Ánh Tuyết (chủ biên) (2001), Phương pháp nghiên cứu trẻ em, Nxb.Đại học Quốc
gia Hà Nội.
5. Nguyễn Ánh Tuyết (chủ biên) (2009), Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non, Nxb.Giáo dục.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32458_108815_1_pb_983_2012743.pdf