Ảnh hưởng của proteaza và amilaza trong khẩu phần có mức protein khác nhau đến sinh trưởng của lợn con giai đoạn sau cai sữa - Cù Thị Thúy Nga

The study was carried out on hybrid of four breeds (♂PiDu x ♀ LY), at weaned period (From 21- 56 day olds), it consists of 4 groups: Control (DC), pilot I, II, III (TN I, TNII, TNIII). Piglets of control were fed 20% of protein ration without enzyme and the ration of TNI; TNII, TNIII have a protein levels are 20 %, 19 % and 18% added enzyme protease and amylase. The obtained results showed that, the use of enzyme increase the growth of piglets 3.8% (The body weight of piglets at 56 day olds was 19.67 và 18.95 kg/con, correspoding to group TN I and control (ĐC). For reduced protein rations that added enzyme, the growth of piglets was not diferrent significant (19.67; 19.28 and 18.79kg/head, group TN I, TN II and TN III, corresponding; Pα>0,05). The FCR and feed expensive/kg of body weight gained tendency to increase when reducing protein level in added enzyme ration (1.37; 1.42 and 1.47 kg; group TN I; TN II and TN III corresp. ). But it's the same in compare with unused enzyme and high protein level ration (20%) (1.42; 1.47 and 1.45 kg; corresp. to group TN II, TN III and DC). The use of enzyme protease and amylase in rations for weaned piglets, esspecially for high protein level (19 and 18%) added essencial amino acids will keep growth of piglets, save protein feed and reduce environment polution

pdf6 trang | Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 396 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của proteaza và amilaza trong khẩu phần có mức protein khác nhau đến sinh trưởng của lợn con giai đoạn sau cai sữa - Cù Thị Thúy Nga, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cù Thị Thúy Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 99(11): 177 - 182 177 ẢNH HƯỞNG CỦA PROTEAZA VÀ AMILAZA TRONG KHẨU PHẦN CÓ MỨC PROTEIN KHÁC NHAU ĐẾN SINH TRƯỞNG CỦA LỢN CON GIAI ĐOẠN SAU CAI SỮA Cù Thị Thúy Nga*, Trần Văn Phùng, Trần Tố Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Thí nghiệm được thực hiện trên lợn lai 4 máu ngoại, giai đoạn sau cai sữa (từ 21 đến 56 ngày tuổi), gồm có 4 lô : Đối chứng (ĐC), thí nghiệm I, II, III (TN I, TN II, TN III), lợn của lô ĐC được ăn khẩu phần (KP) có tỷ lệ protein thô là 20 %, không bổ sung enzym, còn KP của lô TN I, TN II, TN III có tỷ lệ protein thô tương ứng là 20 %, 19 % và 18 % có bổ sung enzym proteaza và amilaza. Khối lượng lợn trung bình (kg/con) của 4 lô ở 56 ngày tuổi tương ứng là : 18,95 (ĐC); 19,67 (TN I); 19,28 (TN II) và 18,79 kg/con (TN III). Tiêu tốn thức ăn (TĂ) cho một kg tăng khối lượng (kg) của các lô như sau :1,45 (ĐC); 1,37 (TN I); 1,42 (TN II) và 1,47(TN III). Chi phí TĂ/1 kg tăng khối lượng với quy ước lô ĐC là 100 % thì các lô TN I, TN II, TN III tương ứng là : 97,34 % ; 101,62 % và 106,45 %. Bổ sung proteaza và amilaza vào khẩu phần ăn của lợn con sau cai sữa đã có tác dụng tốt như thúc đẩy sinh trưởng, giảm tiêu tốn thức ăn và chi phí thức ăn cho một kg tăng khối lượng. Từ khóa: Mức protein, amilase, proteaza, enzym, lợn con. ĐẶT VẤN ĐỀ* Việc nghiên cứu tạo ra những chế phẩm sinh học để bổ sung vào khẩu phần thức ăn cho lợn nhằm kích thích sinh trưởng, tăng cường sức đề kháng đồng thời tạo ra được những sản phẩm thịt lợn chất lượng cao thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Trong đó, công nghệ sản xuất enzym từ vi sinh vật đang có vai trò đặc biệt quan trọng. Các enzym thức ăn đang được nghiên cứu và ứng dụng vào sản xuất chăn nuôi nhằm tăng quá trình tiêu hoá, giảm chi phí thức ăn và tăng khối lượng vật nuôi, đồng thời còn cải tạo một số chỉ tiêu sinh lý của cơ thể vật nuôi, tạo sự cân bằng sinh học hệ vi sinh vật ruột (Fuller, 1989). Sinh trưởng của lợn con phụ thuộc rất nhiều vào các chất dinh dưỡng của thức ăn. Tuy nhiên, khi cai sữa, do thay đổi thức ăn lợn con thường bị rối loạn tiêu hoá (khả năng tiêu hóa chưa đáp ứng do nồng độ và hoạt tính các enzym nội sinh thấp), làm giảm khả năng tiêu thụ thức ăn, giảm tốc độ sinh trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn, tăng tỷ lệ chết của lợn con (Cromwell, 2002; Kiarie và cs, 2007). Vì vậy, việc bổ sung enzym tiêu hóa vào khẩu phần thức ăn cho lợn con là cần thiết, góp phần cung cấp thêm enzym, làm tăng hiệu quả quá trình tiêu hóa. Ngoài ra, các khẩu * Tel: 0915 213709, Email: ngalinhtn@gmail.com phần thức ăn cho lợn con thường có tỷ lệ protein cao nhằm đáp ứng đủ nhu cầu về axit amin cho cơ thể, khi đó rất dễ dẫn đến những bất cập như lợn con dễ bị tiêu chảy, tăng ô nhiễm môi trường do lượng nitơ dư thừa Thí nghiệm này nhằm đánh giá hiệu quả việc bổ sung proteaza, amilaza vào thức ăn có mức protein khác nhau đến sinh trưởng của lợn con giai đoạn sau cai sữa. NGUYÊN VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thí nghiệm tiến hành theo phương pháp phân lô so sánh, đảm bảo đồng đều về giống, tính biệt, khối lượng và điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng. Lợn thí nghiệm là lợn lai thương phẩm (♂PiDu x ♀ LY). Số lượng lợn một lần thí nghiệm là 40 con, được chia thành 4 lô mỗi lô 10 con, nhắc lại thí nghiệm ba lần. Lợn của lô Đối chứng (ĐC) được ăn khẩu phần (KP) có tỷ lệ protein thô là 20 %, không bổ sung enzym, lợn của các lô thí nghiệm I (TN I), thí nghiệm II (TN II), thí nghiệm III (TN III) được cho ăn khẩu phần có tỷ lệ protein tương ứng là 20 %, 19 % và 18 % có bổ sung enzym proteaza và amilaza vào thức ăn với mức 2000 UI và 56 UI/kg TĂ. Nguyên liệu thức ăn trước khi đưa vào thí nghiệm được phân tích các thành phần dinh dưỡng như: protein, lipit, axit amin, chất xơ, Cù Thị Thúy Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 99(11): 177 - 182 178 khoáng tại Viện khoa học sự sống - trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. Các công thức thức ăn hỗn hợp được xây dựng dựa trên phần mềm OPTIMIX - Viện nghiên cứu sinh học và thuốc thú y - Cộng hoà Séc. Thức ăn được trộn bằng tay, theo phương pháp "vết dầu loang", đảm bảo trộn thật đều. Khối lượng thức ăn một lần trộn đảm bảo đủ cho ăn 5 - 7 ngày. Sau khi trộn xong thức ăn được bảo quản trong điều kiện tốt nhất để tránh ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh đến chất lượng thức ăn. Lợn được nuôi theo chế độ ăn tự do trong máng ăn tự động. Theo dõi các chỉ tiêu về sinh trưởng của lợn và lượng thức ăn tiêu thụ. Số liệu thu được được xử lý theo phương pháp thống kê sinh vật học, trên phần mềm Statgraph version 4.0 của Cục thống kê USA và Microsoft Excell. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Sinh trưởng tích luỹ của lợn thí nghiệm Kết quả theo dõi về sinh trưởng tích luỹ của lợn thí nghiệm được trình bày ở bảng 1. Kết quả thí nghiệm cho thấy, ở các giai đoạn theo dõi, lợn con được nuôi bằng khẩu phần có bổ sung enzym sinh trưởng nhanh hơn khi nuôi bằng khẩu phần không bổ sung enzym. So sánh giữa lô ĐC và lô TN I (Cùng mức 20% protein), khối lượng lợn con lúc 56 ngày tuổi đạt 18,95 và 19,67 kg/con. Sự chênh lệch giữa lô TN1 và lô ĐC là 3,80%. Đối với các khẩu phần có mức protein khác nhau có bổ sung enzym, sinh trưởng tích luỹ của lợn con có chiều hướng giảm khi giảm mức protein thô trong khẩu phần. Khối lượng lợn con khi kết thúc thí nghiệm (56 ngày tuổi) của lô TN I; II và III đạt 19,67; 19,28 và 18,79 kg/con, tương ứng theo thứ tự các lô. Sự chênh lệch giữa lô TN I và lô TN II là 1,98%; với lô TN III là 4,47%. Khi so sánh khẩu phần có mức protein 19% (TN II) và 18% (TN III) kết hợp bổ sung enzym với khẩu phần mức protein 20% không bổ sung enzym (Lô ĐC), chúng ta thấy khối lượng của lợn con lúc 56 ngày tuổi của lô TN II cao hơn lô ĐC 1,74% (19,28 kg/con so với 18,95 kg/con); của lô TN III thấp hơn 0,84% (18,79 so với 18,95 kg/con). Tuy nhiên sự sai khác về khối lượng giữa các lô không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Kết quả xác định mối tương quan giữa khối lượng lợn con lúc 56 ngày tuổi và mức protein trong thức ăn ăn vào được diễn tả qua phương trình: y = 18,5862+0,0215x ; R2 = 0,095 Ở đây: y là khối lượng lợn con thí nghiệm lúc 56 ngày tuổi(%); x là mức protein trong thức ăn (%) Qua phương trình biểu diễn mối tương quan giữa khối lượng lợn con lúc 56 ngày tuổi và mức độ protein có bổ sung men tiêu hoá, chúng ta thấy tương quan giữa hai đại lượng là tương quan dương, nên khi giảm mức độ protein và bổ sung thêm men tiêu hoá cũng đã làm thay đổi khối lượng lợn con lúc 56 ngày tuổi. Tuy nhiên, do hệ số tương quan rất thấp (R2 = 0,095) cho nên khi giảm tỷ lệ protein của khẩu phần và bổ sung thêm men tiêu hoá proteaza và amilaza trong khẩu phần thì sinh trưởng tích luỹ khác nhau không có ý nghĩa. Bảng 1. Sinh trưởng tích luỹ của lợn thí nghiệm (kg/con) Diễn giải Lô ĐC Lô TN I Lô TN II Lô TN III Bắt đầu TN (21 ngày) 7,33 a ± 0,28 7,35a ± 0,26 7,35a ± 0,24 7,33a ± 0,26 KL 28 ngày tuổi 8,37 ± 0,32 8,54 ± 0,34 8,49 ± 0,30 8,40 ± 0,34 KL 35 ngày tuổi 9,80 ± 0,40 10,10 ±0,48 9,91 ± 0,39 9,71 ± 0,43 KL 42 ngày tuổi 11,70 ± 0,52 12,19 ± 0,49 11,91 ± 0,49 11,78 ± 0,56 KL 49 ngày tuổi 14,38 ± 0,65 14,95 ± 0,67 14,63 ± 0,60 14,23 ± 0,72 KL 56 ngày tuổi 18,95a ± 0,78 19,67a ± 0,81 19,28a ± 0,86 18,79a ± 0,85 So với lô ĐC (%) 100 103,80 101,74 99,16 So với lô TN1 (%) 100 98,02 95,53 a,b,c Trên hàng ngang, các số mang các chữ cái giống nhau thì khác nhau không có ý nghĩa thống kê ở mức P > 0,05. Cù Thị Thúy Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 99(11): 177 - 182 179 Kết quả nghiên cứu trên cho thấy, việc bổ sung enzym có tác động tốt đến quá trình tiêu hóa thức ăn của lợn con, lợn con sinh trưởng nhanh hơn, điều này được thể hiện ngay cả với những khẩu phần giảm và không giảm mức protein. Một số tác giả nghiên cứu về vấn đề này cũng cho kết quả tương tự (Đỗ Văn Quang và cs. 2004; Nguyễn Thị Tiết và cs., 2002; Hồ Trung Thông và cs., 2008). Sinh trưởng tuyệt đối của lợn con thí nghiệm Sinh trưởng tuyệt đối của lợn con thí nghiệm được trình bày qua bảng 2. Kết quả nghiên cứu cho thấy, sinh trưởng tuyệt đối bình quân (g/con/ngày) của cả đợt thí nghiệm của lợn con lô TN I cao hơn lô ĐC 6,02 % (352,0 gam so với 332,0 gam). Khi giảm mức protein xuống 19% (TN II), sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm vẫn cao hơn lô đối chứng 2,67% (340,86 so với 332,0); Tuy nhiên, khi tiếp tục giảm xuống 18%, sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm lại thấp hơn 1,33%. Điều này một lần nữa khẳng định ảnh hưởng của enzym proteaza và amylaza đến tiêu hóa thức ăn của lợn con thí nghiệm; đồng thời cho thấy có thể sử dụng enzyme tiêu hoá trong khẩu phần giảm protein để nâng cao khả năng sinh trưởng của lợn. Kết quả này của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả của Hồ Trung Thông và cs (2008). Tình hình mắc bệnh tiêu chảy của lợn con thí nghiệm Kết quả nghiên cứu cho thấy, khi bổ sung thêm enzym tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy của lợn con có sự khác biệt. Tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy của lợn con lô ĐC (không sử dụng enzym) là 30%, cao hơn so với lô TN I (cùng mức protein nhưng được bổ sung thêm enzym proteazavà amilaza) chỉ có 23,33%. Đối với những khẩu phần giảm mức protein thô và được bổ sung thêm enzym tiêu hoá tỷ lệ lợn con mắc bệnh tiêu chảy giảm rõ rệt (Bình quân cả giai đoạn là 23,33; 12,0 và 10,0% tương ứng với lô TN I, TN II và lô TN III). Nếu xét theo ngày tuổi của lợn con, tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy có diễn biến giảm dần theo sự tăng lên của tuổi. Ở những tuần đầu sau cai sữa, tỷ lệ mắc bệnh cao hơn ở tất cả các lô, ở những tuần tiếp theo đặc biệt giai đoạn 43-56 ngày tuổi, tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy giảm mạnh. Thậm chí ở những lô giảm mức protein trong thức ăn, có bổ sung enzym lợn không bị tiêu chảy. Phần lớn lợn con bị tiêu chảy ở mức độ nhẹ, phân nhão, không thành khuôn. Sau khi sử dụng thuốc điều trị lợn khỏi trong thời gian ngắn. Bảng 2. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm (g/con/ngày) Giai đoạn tuổi Lô ĐC Lô TN I Lô TN II Lô TN III 21-28 ngày 148,57 170,00 162,86 152,86 29-35 ngày 204,29 222,86 202,86 187,14 36-42 ngày 271,43 298,57 285,71 295,71 43-49 ngày 382,86 394,29 388,57 350,00 50-56 ngày 652,86 674,29 664,29 651,43 Bình quân cả giai đoạn 332,00 352,00 340,86 327,57 So với lô ĐC (%) 100 106,02 102,67 98,67 So với lô TN1 (%) 100 96,84 93,06 Bảng 3. Tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy của lợn con trong quá trình thí nghiệm (%) Giai đoạn tuổi Lô ĐC Lô TN I Lô TN II Lô TN III 21-28 ngày 26,67 20,0 10,0 10,0 29-35 ngày 36,66 30,0 30,0 20,0 36-42 ngày 30,0 36,67 20,0 10,0 43-49 ngày 30,0 20,0 0,0 10,0 50-56 ngày 26,67 10,0 0,0 0,0 Bình quân cả giai đoạn 30,0 23,33 12,0 10,0 Cù Thị Thúy Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 99(11): 177 - 182 180 Các nghiên cứu về vấn đề này chưa được công bố nhiều, tuy nhiên vấn đề hạn chế tiêu chảy của lợn con giai đoạn sau cai sữa đã được nhiều tác giả đề cập đến dưới một khía cạnh khác. Trần Quốc Việt và cs. (2007) đã nghiên cứu sử dụng các chế phẩm probiotic vào thức ăn cho lợn con giai đoạn sau cai sữa. Kết quả nghiên cứu của các tác giả này cho thấy lợn con khi được sử dụng probiotic và kháng sinh có tỷ lệ tiêu chảy thấp với sự sai khác có ý nghĩa thống kê ở mức P<0,01. Thí nghiệm của chúng tôi không sử dụng các chế phẩm probiotic và kháng sinh, chỉ sử dụng khẩu phần có mức protein thấp và bổ sung thêm enzym cũng đã hạn chế được tình hình mắc bệnh tiêu chảy của lợn con, tạo tiền đề cho lợn con sinh trưởng tốt với nền thức ăn có mức protein thấp. Tiêu tốn và chi phí thức ăn/ 1 kg tăng khối lượng lợn thí nghiệm Tiêu tốn và chi phí thức ăn/ 1 kg tăng khối lượng lợn thí nghiệm được thể hiện qua bảng 4. Bảng 4. Tiêu tốn và chi phí thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng STT Diễn giải ĐVT Lô ĐC Lô TN I Lô TN II Lô TN III 1. Tổng thức ăn tiêu thụ kg 505,5 506,35 508,22 505,60 2. Tổng khối lượng tăng trong kỳ thí nghiệm kg 348,6 369.6 357,9 343,95 3. TTTA/kg tăng khối lượng kg 1,45 1,37 1,42 1,47 So với lô ĐC % 100 94,32 97,40 101,35 So với lô TN I % 100 103,65 107,30 4. Đơn giá thức ăn đ/kg 8.253 8.503 8.565 8.666 5. Tổng chi phí thức ăn ng.đ 4.171,89 4.305,51 4.352,88 4.381,59 6. Chi phí TA/kg tăng KL đ 11.967,56 11.649,11 12.162,30 12.739,02 So với lô ĐC % 100 97,34 101,62 106,45 So với lô TN1 % 100 104,41 109,36 Kết quả theo dõi về tiêu tốn thức ăn/ kg tăng khối lượng của lợn thí nghiệm cho thấy việc bổ sung enzym tiêu hoá đã làm giảm tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng 5,68% (từ 1,45 xuống 1,37 kg thức ăn/kg tăng khối lượng tương ứng lô ĐC và lô TNI). Đối với các khẩu phần giảm mức protein và bổ sung thêm enzym tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng có xu hướng tăng theo chiều giảm của mức protein (1,37; 1,42 và 1,47 kg thức ăn/kg tăng khối lượng, tương ứng lô TN I, TN II và TN III với mức tăng từ 3,65 – 7,30 %). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với các nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Nghi và cs. (1995); Van de ligt và cs. (2002); Phùng Thăng Long và cs (2004)... Kết quả nghiên cứu của Phùng Thăng Long và cs (2003) cho thấy khi giảm tỷ lệ protein từ 18- 16%, tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng tăng lên 8,76%; khi giảm xuống 14% tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng tăng lên 13,89%. Như vậy, việc giảm mức protein trong thức ăn nhưng cân đối các axit amin thiết yếu và bổ sung thêm enzym tiêu hoá có tác dụng kích thích tiêu hoá, tăng khả năng hấp thu thức ăn, kích thích tính thèm ăn giúp lợn con ăn được nhiều hơn, từ đó ảnh hưởng tích cực đến chỉ tiêu tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng. Tương tự như vậy đối với kết quả theo dõi về chi phí thức ăn/ kg tăng khối lượng của lợn thí nghiệm. Khi giảm mức protein thô trong khẩu phần được cân đối các axit amin thiết yếu lyzin, methionin, threonin và tryptophan kết hợp bổ sung enzym proteaza và amilaza, giá thức ăn tăng dần (8.503; 8565 và 8666 đồng/kg thức ăn, tương ứng lô TN1, TN2 và TN3). Đây là nguyên nhân chính làm cho chi phí thức ăn/kg tăng khối lượng của lợn con tăng lên (từ 11.649,11 – 11.162,3 – 12.739,02 đ/kg; tương ứng lô TN I, TN II và TN III). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương đối đồng thuận với nhiều công trình nghiên cứu khác mà nguyên nhân chính là do giá của các axit amin tổng hợp còn khá cao. Tuy nhiên, các công trình này cũng đã cho rằng, chi phí tăng lên khi sử dụng khẩu phần có cân đối các axit amin bằng các axit amin tổng hợp được bù đắp bởi sự giảm ô nhiễm môi trường. Trong tương lai, khi công nghệ sản xuất các axit amin được cải tiến, giá thành các axit amin này giảm xuống việc sử dụng khẩu phần giảm protein có cân đối axit amin sẽ là hướng Cù Thị Thúy Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 99(11): 177 - 182 181 đi hợp lý để vừa tiết kiệm thức ăn đạm, vừa giảm thiểu ô nhiễm môi trường, vừa đảm bảo sinh trưởng của lợn con giai đoạn này. Mặt khác, khi giảm mức protein trong thức ăn, sẽ làm thay đổi tỷ lệ dinh dưỡng của thức ăn, chắc chắn việc sử dụng enzym sẽ góp phần tích cực trong cải thiện tỷ lệ tiêu hoá, đảm bảo sinh trưởng và giảm chi phí thức ăn. KẾT LUẬN Sử dụng enzym tiêu hoá trong thức ăn làm tăng 3,80% sinh trưởng tích luỹ của lợn con sau cai sữa (Khối lượng lợn con lúc 56 ngày tuổi đạt 19,67 và 18,95 kg/con, tương ứng lô TN I và lô ĐC). Đối với các khẩu phần giảm mức protein được bổ sung enzym, sinh trưởng tích luỹ của lợn con không có sự sai khác có ý nghĩa thống kê (19,67; 19,28 và 18,79kg/con tương ứng lô TN I, TN II và TN III; P >0,05). Tiêu tốn và chi phí thức ăn/kg tăng khối lượng của lợn con có chiều hướng tăng lên khi giảm mức protein của khẩu phần có sử dụng enzyme (1,37; 1,42 và 1,47 kg, tương ứng lô TN I, TN II và TN III), tuy nhiên nếu so với khẩu phần có mức protein cao nhưng không sử dụng enzym thì vẫn tương đương (1,42 và 1,47 so với 1,45 kg TA tương ứng lô TN II, TN III và lô ĐC). Sử dụng enzym tiêu hoá proteaza và amylaza trong thức ăn của lợn con giai đoạn sau cai sữa, đặc biệt đối với thức ăn có mức protein 19 và 18% được cân đối các axit amin sẽ góp phần đảm bảo sinh trưởng của lợn con từ đó tiết kiệm thức ăn đạm và giảm thiểu ô nhiễm môi trường. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Nguyễn Nghi, Lê Thanh Hải và Bùi Ngọc Thảo (1995), “Báo cáo khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của protein khẩu phần và phương thức cho ăn đến năng suất và chất lượng thịt xẻ của heo thịt”, Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm. Viện Khoa học Nông Nghiệp miền Nam. [2]. Đỗ Văn Quang, Nguyễn Văn Hùng (2004), “Nghiên cứu cân bằng dinh dưỡng, áp dụng men sinh học và hỗn hợp axit hữu cơ nhằm tăng hiệu quả sử dụng thức ăn, giảm chât thải ra môi trường trong chăn nuôi lợn”, Tạp chí khoa học công nghệ nông nghiệp và phát triển nông thôn 20 năm đổi mới tháng 8/2004. [3]. Hồ Trung Thông, Đặng Văn Hồng (2008), “Ảnh hưởng của việc bổ sung chế phẩm enzyme chứa protease, amylease và phytase vào khẩu phần đến tỉ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng của lợn F1(Landrace x Yorkshire)”, Tạp chí khoa học công nghệ và phát triển nông thôn- số 3- tháng 3/2008, trang 36-40 [4]. Nguyễn Thị Tiết, Ngô Kế Sương (2002), “So sánh khả năng tiêu hóa của chế phẩm enzym pancreatin (PCC) với chế phẩm enzym DPS trên lợn thịt”, Tạp chí khoa học kỹ thuật chăn nuôi số 3/2002, trang 7-9. [5]. Trần Quốc Việt, Bùi Thị Thu Huyền, Nịnh Thị Len, Nguyễn Thị Nhung, Lê Văn Huyên, Đào Đức Kiên (2007), “Ảnh hưởng của việc bổ sung probiotic vào khẩu phần đến khả năng tiêu hoá thức ăn, tốc độ sinh trưởng, hiệu quả sử dụng thức ăn và tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy của lợn con và lợn thịt ”, Báo cáo khoa học năm 2006, phần thức ăn dinh dưỡng, viện chăn nuôi. [6]. Cromwell, G. L. 2002,Why and how antibiotics are used in swine production Anim, Biotechnol, 13. 7 – 27. [7]. Fuller, R. 1989, Probiotics in man and animals, J. Appl. Bacteriol, 66. 131 – 139. [8]. Kiarie, E., C. M. Nyachoti, B. A. Slominski, and G. Blank, 2007, Growth performance, intestinal microbial populations and serum cholesterol of digestibility in early-weaned pigs fed diets containingflaxseed and carbonhydrase enzyme J. Anim. Sci. 2007. 85: 2982 – 2993. [9]. Van de Ligt C. P. A. , Lindemann M. D. , and Cromwell G. L. (2002). Assessment of chromium tripicolinate supplementation and dietary protein level on growth, carcass, and blood criteria in growing pigs. J. Anim. Sci. 2002. 80:2412–2419. Cù Thị Thúy Nga và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 99(11): 177 - 182 182 SUMMARY INFLUENCE OF PROTEASE AND AMYLASE IN DIFFERENT DIETARY PROTEIN LEVELS ON THE GROWTH OF PIGLETS AFTER WEANING STAGE Cu Thi Thuy Nga*, Tran Van Phung, Tran To College of Agriculture and Forestry - TNU The study was carried out on hybrid of four breeds (♂PiDu x ♀ LY), at weaned period (From 21- 56 day olds), it consists of 4 groups: Control (DC), pilot I, II, III (TN I, TNII, TNIII). Piglets of control were fed 20% of protein ration without enzyme and the ration of TNI; TNII, TNIII have a protein levels are 20 %, 19 % and 18% added enzyme protease and amylase. The obtained results showed that, the use of enzyme increase the growth of piglets 3.8% (The body weight of piglets at 56 day olds was 19.67 và 18.95 kg/con, correspoding to group TN I and control (ĐC). For reduced protein rations that added enzyme, the growth of piglets was not diferrent significant (19.67; 19.28 and 18.79kg/head, group TN I, TN II and TN III, corresponding; Pα>0,05). The FCR and feed expensive/kg of body weight gained tendency to increase when reducing protein level in added enzyme ration (1.37; 1.42 and 1.47 kg; group TN I; TN II and TN III corresp. ). But it's the same in compare with unused enzyme and high protein level ration (20%) (1.42; 1.47 and 1.45 kg; corresp. to group TN II, TN III and DC). The use of enzyme protease and amylase in rations for weaned piglets, esspecially for high protein level (19 and 18%) added essencial amino acids will keep growth of piglets, save protein feed and reduce environment polution. Key words: protein level, amilase, protease, enzyme, weaned piglets. Ngày nhận bài: 05/11/2012, ngày phản biện: 28/11/2012, ngày duyệt đăng:10/12/2012 * Tel: 0915 213709, Email: ngalinhtn@gmail.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbrief_36968_40551_2032013162058177_7036_2052173.pdf