Từ các nghiên cứu ở trên cho phép rút ra một
số kết luận sau:
- Đã xác định được một số yếu tố công nghệ
thích hợp cho sản xuất tạo bột rong nho xay như
sau: thời gian ly tâm tách nước khỏi nguyên liệu
thích hợp là 3 phút, lượng nước tách ra trong
quá trình ly tâm là 10%, thời gian ngâm sorbitol là
30 phút. Chần rong ở nhiệt độ 850C trong 10 -15
giây. Nhiệt độ sấy: 480C, vận tốc gió: 1,74m/s và
thời gian sấy là 2,54h, cường độ chiếu đèn hồng
ngoại 1klux. Rong nho được xay 2 lần với kích
thước rây là: lần 1 drây1 = 2 mm, lần 2 drây2= 0,5 mm.
Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố công nghệ đã
xác định lên chất lượng bột rong nho là rất lớn
(R2 > 0,9).
- Sản phẩm bột rong nho sản xuất theo quy
trình với các thông số công nghệ đã nghiên cứu đạt
chỉ tiêu vi sinh theo tiêu chuẩn hiện hành của Bộ Y
tế Việt Nam. Công nghệ này hoàn toàn phù hợp với
điều kiện sản xuất ở Việt Nam. Đây sẽ là nền tảng
cho sự phát triển công nghệ tạo bột rong nho xay
ngày chất lượng hơn và hoàn toàn có thể triển khai
ở quy mô công nghiệp và bán công nghiệp.
7 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 26/03/2022 | Lượt xem: 251 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của một số yếu tố công nghệ lên chất lượng bột rong nho (Caulerpa lentillifera J. Agardh), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015
20 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ YẾU TỐ CÔNG NGHỆ
LÊN CHẤT LƯỢNG BỘT RONG NHO (Caulerpa lentillifera J. Agardh)
THE INFLUENCE OF SOME TECHNOLOGICAL FACTORS ON THE QUALITY
OF (Caulerpa lentillifera J. Agardh) GRAPE SEAWEED POWDER
Vũ Ngọc Bội1, Nguyễn Thị Mỹ Trang2, Trần Thị Hồng Nhung3
Ngày nhận bài: 10/3/2015; Ngày phản biện thông qua: 20/5/2015; Ngày duyệt đăng: 10/6/2015
TÓM TẮT
Bài báo này tập trung trình bày về ảnh hưởng của một số yếu tố công nghệ lên chất lượng bột rong nho xay như điều
kiện ngâm sorbitol, sấy rong và xay rong. Các hàm mục tiêu được đánh giá là chất lượng cảm quan, độ ẩm, khả năng tái
hydrat hóa và hoạt tính chống oxy hóa tổng số. Kết quả nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng của các yếu tố công nghệ đã xác
định tới chất lượng bột rong nho xay rất lớn (R2 > 0,9). Kết quả nghiên cứu đã xác định được thời gian ly tâm tách nước
thích hợp là 3 phút để loại bỏ 10% nước và thời gian ngâm sorbitol là 30 phút. Nhiệt độ chần rong là 850C trong 10 giây.
Rong sấy ở nhiệt độ 480C, vận tốc gió 1,74m/s và thời gian sấy 2,54h với cường độ chiếu đèn hồng ngoại 1klux. Rong nho
được xay 2 lần với kích thước rây là: lần 1 d
rây1
= 2 mm, lần 2 d
rây2
= 0,5 mm.
Từ khóa: bột, Caulerpa lentillifera, công nghệ, Nha Trang, rong nho
ABSTRACT
The effect of some technological factors on the quality of (Caulerpa lentillifera J. Agardh) grape seaweed
powder such as the condition of sorbitol maceration, seaweed dry and grind was presented in the paper. The object
functions were evaluated as the sensory quality, humidity, the re-hydrated ability and total antioxidant activity. The results
showed the effect of the technological factors is very strong (R2 > 0.9) for the quality of the seaweed powder. The time of
centrifugation of 3 minutes to remove 10% water and sorbitol maceration in 30 minutes. The blanching temperature is
850C in 10 seconds. The seaweed dry of 480C, the speed of wind of 1.74m/s, the dry time of 2.54 hours with the intensity of
infrared phototherapy of 1klux. Grape seaweed was grinded in twice with the size of sieve as follow: the fi rst d
sieve 1
= 2mm,
the second d
sieve 1
= 0,5 mm.
Keywords: powder, Caulerpa lentillifera J. Agardh, grape seaweed, Nha Trang, Technology
1 TS. Vũ Ngọc Bội, 2ThS. Nguyễn Thị Mỹ Trang: Khoa Công nghệ thực phẩm - Trường Đại học Nha Trang
3 KS. Trần Thị Hồng Nhung: Trường Cao đẳng Nghề - Thành phố Hồ Chí Minh
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Rong nho biển (Caulerpa lentillifera J. Agardh)
là loài rong biển có rất nhiều hoạt chất sinh học như
vitamin nhóm A, nhóm B, nhóm C, polyphenol,
chlorophyll và đặc biệt là caulerpin (dimethyl 6,13
-dihydrodibenzo phenazine - 5,12 - dicarboxylate,
C24H18N2O4) giúp điều hòa huyết áp và tăng cường
tiêu hóa, kháng ung thư, chống đông tụ, kháng
virus, chống oxy hóa, [14]. Vì vậy rong nho có giá
trị kinh tế cao và được coi như “sâm” của thế kỷ XXI.
Nhiều nước trên thế giới như Nhật Bản, Hàn Quốc,
Philippin và một số nước khác ở Đông Nam Á rất ưa
chuộng sử dụng loài rong này.
Nhu cầu tiêu thụ rong nho trên thế giới ngày
càng tăng. Diện tích nuôi trồng rong nho ở các nước
Nhật Bản, Philippin, Thái Lan ngày càng mở rộng
[11, 13, 14, 18]. Hiện ở Việt Nam mới chủ yếu nghiên
cứu nuôi trồng và sử dụng rong nho tươi giống như
rau xanh cao cấp. Để đa dạng hóa sản phẩm và
góp phần nâng cao giá trị của rong nho, chúng tôi
tiến hành nghiên cứu chế biến sản phẩm bột rong
nho. Thực tế cho thấy chưa có một công trình nào
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 21
tại Việt Nam và trên thế giới công bố nghiên cứu về
chế biến bột rong nho.
Bài báo này tập trung trình bày nghiên cứu về
sự ảnh hưởng của một số thông số công nghệ như
thời gian ngâm sorbitol, điều kiện sấy và xay tạo
bột rong nho đến chất lượng cảm quan, độ ẩm, khả
năng tái hydrat hóa và hoạt tính chống oxy hóa của
rong nho làm cơ sở cho quá trình chế biến tạo bột
rong nho (Caulerpa lentillifera).
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Rong nho (Caulerpa lentillifera) từ 35 đến 40
ngày tuổi được nuôi trồng tại Cam Ranh - Khánh
Hòa. Sau khi thu hoạch loại bỏ phần thân bò, thu
thân đứng và nuôi phục hồi. Sau khi nuôi phục hồi
từ 3-4 ngày, thu rong nho và sử dụng dụng làm
nguyên liệu cho quá trình nghiên cứu.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Phương pháp phân tích
- Xác định độ ẩm: theo TCVN 5567: 1991 [3].
- Xác định hoạt độ nước: bằ ng má y đo
HYGROLAB C1 củ a Rotronic.
- Xác định khả năng tái hydrat hóa: cân 10 gam
(m1) rong sấy hoặc bột rong cho vào vào 250ml
nước cất. Sau 15 phút dùng rây vớt rong ra, để ráo
nước trong 5 phút và cân khối lượng mẫu rong đã
ngâm nước (m2). Khả năng tái hydrat hóa của rong
(Hw) được tính như sau:
H
w
=
m
2
- m
1 (%)
m
1
- Hoạt tính chống oxy hóa tổng số (TA): xác định
theo phương pháp của Prieto và cộng sự (1999) với
chất chuẩn là acid ascorbic [16].
- Xác định tổng số vi sinh vật hiếu khí: theo tiêu
chuẩn ISO 6887-1 (9/1999) [4].
- Xác định Escherichia coli: theo tiêu chuẩn
ISO/TS 16649-3:2005 (TCVN 7924-3:2008) [5].
- Xác định Salmonella spp: theo TCVN
4829:2005 [6].
- Xác định Coliforms: theo tiêu chuẩn ISO
4831:2006 (TCVN 4882:2007) [8].
- Xác định Clostridium perfringens: theo tiêu
chuẩn ISO 7937 (2/2005) [7].
- Xác định tổng số bào tử nấm men - nấm mốc
theo TCVN 8275-1:2010 [9].
2.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm
2.2.1. Nghiên cứu ảnh hưởng của điều kiện ngâm
sorbitol đến rong nho sấy
Tiến hành ngâm rong trong sorbitol 20% với các
thời gian 25, 30 và 35 phút. Mỗi mẫu 1000 gam rong.
Sau đó chần rong ở nhiệt độ 850C trong 10 giây và
sấy khô rong ở 450C với tốc độ gió 1,5m/s trong thời
gian 2,5h. Kết quả đánh giá chất lượng cảm quan,
độ ẩm, khả năng tái ngậm nước và hoạt tính chống
oxy hóa tổng của mẫu rong sấy là cơ sở để chọn
thời gian ngâm sorbitol thích hợp.
2.2.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ sấy đến
chất lượng rong nho sấy
Các yếu tố đầu vào của quá trình sấy lạnh kết
hợp hồng ngoại được nghiên cứu là: cường độ
chiếu sáng hồng ngoại cố định là 1klux và khoảng
cách từ đèn đến bề mặt rong là 10cm, nhiệt độ sấy
(40; 45 và 500C), thời gian sấy (2; 2,5 và 3h), tốc độ
gió (1; 1,5 và 2m/s). Tối ưu hóa theo phương pháp
quy hoạch thực nghiệm toàn phần. Mỗi mẫu sử
dụng 1000g rong nguyên liệu. Lựa chọn điều kiện
sấy dựa vào kết quả đánh giá cảm quan, độ ẩm, khả
năng tái ngậm nước và khả năng chống oxy hóa
tổng của rong sau sấy.
2.2.3. Nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ rây đến
chất lượng bột rong
Rong sau khi xử lý được rửa 3 lần bằng nước
biển sạch, để ráo, ly tâm 3 phút để tách 10% nước
và ngâm sorbitol 20% trong 30 phút. Sau đó, chần
rong ở 850C trong 10 ÷ 15 giây. Rong được sấy khô
ở 450C với vận tốc không khí 1,5 m/s, thời gian sấy
2,5 giờ, cường độ chiếu sáng của đèn hồng ngoại
là 1 klux. Rong khô được xay và rây với kích thước
lỗ rây khác nhau.
- Xay 1 lần (kích thước mẫu sau xay là 0,5mm;
1mm; 2mm)
- Xay 2 lần: Đường kính rây lần 1 bằng 2 mm,
đường kính rây lần 2 bằng 1 mm; Đường kính rây
lần 1 bằng 2 mm, đường kính rây lần 2 bằng 0,5 mm
và đường kính rây lần 1 bằng 1 mm, đường kính rây
lần 2 bằng 0,5 mm.
Kết quả đánh giá chất lượng cảm quan, độ ẩm,
khả năng tái ngậm nước và khả năng chống oxy
hóa tổng các mẫu bột rong là cơ sở để chọn chế độ
rây phù hợp.
3. Xử lý thống kê
Nghiệm thức lặp lại 3 lần. Phân tích thống kê,
ANOVA bằng phần mềm SPSS 18.0 và loại bỏ giá trị
bất thường bằng phương pháp Duncan.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Ảnh hưởng của thời gian ngâm sorbitol đến
chất lượng của rong nho sau sấy
Kết quả nghiên cứu cho thấy chất lượng cảm
quản của rong nho ngâm sorbitol với thời gian
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015
22 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
khác nhau có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê
(p<0,05) và ngâm rong trong sorbitol với thời gian
30 phút thì sản phẩm rong sấy có tổng điểm cảm
quan chung (TĐCQ) cao nhất tương ứng 18,5 điểm
(hình 1). Như vậy thời gian ngâm sorbitol có ảnh
hưởng đến chất lượng cảm quan của sản phẩm
rong sấy. Sự khác biệt này có thể do sorbitol là một
polyol chứa các nhóm hydroxy có cực, nên có khả
năng liên kết với nước bằng các liên kết hydrogen
[10]. Nên khi ngâm rong trong sorbitol, sorbitol sẽ
khuếch tán vào rong, giúp tế bào rong giữ nước và
hạn chế sự mất nước của rong.
Hình 1. Ảnh hưởng của thời gian ngâm sorbitol
đến chất lượng cảm quan của rong nho sấy
Hình 2. Ảnh hưởng của thời gian ngâm sorbitol
đến độ ẩm của rong nho sấy
Hình 3. Ảnh hưởng của thời gian ngâm sorbitol
đến kh ả năng tái hydrate hóa của rong nho sấy
Hình 4. Ảnh hưởng của thời gian ngâm sorbitol
đến hoạt tính chống oxy hóa tổng số của rong nho sấy
Các giá trị trung bình của cột có các kí tự (a, b,
c) khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa về mặt thống
kê (p < 0,05).
Khi ngâm sorbitol với thời gian quá ngắn, sự
cân bằng pha giữa sorbitol môi trường và sorbitol
trong rong chưa xảy ra. Khi ngâm sorbitol quá lâu
dẫn đến hiện tượng giữ nước mạnh và sản phẩm
sấy có độ ẩm cao làm cho TĐCQ thấp. Sorbitol có
khả năng liên kết với nước nên có thế chuyển nước
tự do thành nước liên kết làm giảm hoạt độ nước
mà khi sấy chỉ loại bỏ nước tự do [10]. Điều này phù
hợp với kết quả phân tích độ ẩm rong sấy là 13,6%,
11,5% và 7,4% tương ứng với các mẫu ngâm
sorbitol với thời gian là 25, 30 và 35 phút (hình 2).
Kết quả phân tích khả năng tái hydrat hóa của
rong sấy cũng cho thấy tương tự là các mẫu rong
ngâm sorbitol 20% với thời gian 25 phút, 30 phút
và 35 phút có độ ẩm tương ứng là 40,63%, 41,2%
và 39,1%. Kết qảu phân tích cũng cho thấy ở cùng
một nồng độ sorbitol, hoạt tính chống oxy hóa tổng
của rong sấy ở các thời gian khác nhau có sự khác
biệt mang ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Kết quả còn
chỉ ra chất lượng cảm quan của rong sấy tốt nhất,
rong sấy ít bị hao hụt khối lượng nhất, khả năng
tái hydrat hóa cao nhất và hoạt tính chống oxy hóa
tổng cao nhất khi ngâm rong nho trong dung dịch
sorbitol 20% với thời gian 30 phút. Ở điều kiện này,
hoạt tính chống oxy hóa tổng của rong nho tương
đương 29,81 mg acid ascorbic/g DW. Điểm chung
giữa các hàm mục tiêu là đều bị ảnh hưởng bởi
nồng độ và thời gian ngâm sorbitol; các hàm mục
tiêu này đều có mối tương quan chặt chẽ với nhau
dưới tác động của sorbitol với thời gian ngâm (R2 >
0,93). Ngoài ra sorbitol còn đóng vai trò như chất
bảo quản, chất tạo bóng cho sản phẩm [10]. Kết quả
này hoàn toàn phù hợp với những công bố trước
đây trên thế giới [12]. Như vậy, điều kiện ngâm
sorbitol có tác động mạnh mẽ tới TĐCQ, độ ẩm, khả
năng tái hydrat hóa và TA (R2 > 0,9).
Do vậy, ngâm rong nho tươi trong sorbitol 20% với
thời gian ngâm 30 phút ở nhiệt độ phòng được chọn
làm làm thông số cho các lần nghiên cứu tiếp theo.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 23
2. Ảnh hưởng của chế độ sấy đến chất lượng
rong nho sấy
Kết quả xác định ảnh hưởng của chế độ sấy
đến chất lượng rong nho sấy được thể hiện ở
các hình 3.5 ÷3.8 cho thấy điều kiện sấy ảnh
hưởng đến chất lượng cảm quan của rong sấy
(hình 5). Cụ thể, ở chế độ sấy 480C, vận tốc gió
1,74 m/s và thời gian sấy 152 phút thì sản phẩm
rong nho sấy có tổng điểm cảm quan chung cao
nhất và đạt 17,1 điểm. Trong khi đó hai mẫu sấy
khác có điểm cảm quan thấp hơn. Kết quả trên
có thể lý giải là do ở nhiệt độ 46,50C, vận tốc gió
l,62 m/s thì rong lâu khô hơn, dẫn tới thời gian
sấy kéo dài tạo điều kiện cho các phản ứng bất
lợi xảy ra, gây ra những biến đổi xấu về trạng
thái, màu sắc cho sản phẩm. Ở điều kiện sấy
49,50C, vận tốc gió 1,86 m/s, do nhiệt độ sấy
cao hơn và vận tốc gió lớn dẫn đến quá trình
tách ẩm mạnh khi đó quá trình khuếch tán ngoại
xảy ra mạnh mẽ, không cân bằng với quá trình
khuếch tán nội nên bề mặt sản phẩm bị bị biến
dạng mạnh dẫn tới trạng thái rong sau sấy bị
nhăn nheo làm hình thái sản phẩm rong sau sấy
không được đẹp.
Hình 5. Ảnh hưởng c ủa chế độ sấy đến
chất lượng cảm quan của rong nho sấy
Hình 6. Ảnh hưởng của chế độ sấy đến
độ ẩm của rong nho sấy
Hình 7. Ảnh hưởng của chế độ sấy đến
khả năng tái hydrat hóa của rong nho sấy
Hình 8. Ảnh hưởng của chế độ sấy đến
hoạt tính chốn g oxi hóa tổng của rong nho sấy
Các giá trị trung bình của cột có các kí tự (a, b, c)
khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê
(p < 0,05).
Dưới tác dụng của nhiệt độ cao, vận tốc gió lớn
gây ra những biến đổi không tốt về màu sắc, trạng
thái của sản phẩm. Ở chế độ sấy với nhiệt độ sấy
là 480C, vận tốc gió 1,74 m/s và thời gian sấy 152
phút thì sản phẩm rong nho sấy có chất lượng cảm
quan tốt nhất. Khi sấy rong ở nhiệt độ càng cao, tốc
độ gió càng mạnh và thời gian sấy càng dài thì độ
ẩm của rong sau khi sấy càng giảm. Chế độ sấy cho
độ ẩm sản phẩm phù hợp là nhiệt độ 480C, vận tốc
gió 1,74 m/s, thời gian sấy 152 phút và độ ẩm của
rong sấy đạt 10,2% (hình 6). Tương ứng với chế độ
sấy này, khả năng tái hidrat hóa của rong sấy đạt tỷ
lệ cao tới 63,26%. Khả năng tái hydrat hóa của rong
nho sau sấy cao nhất (64,07%) khi rong nho được
sấy ở điều kiện: nhiệt độ 46,50C, vận tốc gió 1,62
m/s, thời gian 151 phút. Sự khác biệt về khả năng
tái hydrat hóa của mẫu số 1 và mẫu số 2 không có
ý nghĩa thống kê (p > 0,05) nhưng khả năng tái
hydrat hóa của mẫu số 3 lại có ý nghĩa thống kê so
với mẫu số 1 và 2 (hình 7). Kết quả này cho thấy
chế độ sấy có ảnh hưởng đến khả năng tái hydrate
hóa của rong nho sấy. Khi sấy ở nhiệt độ càng cao,
vận tốc gió càng mạnh, thời gian sấy càng dài, khả
năng tái hydrate hóa của rong sấy càng giảm.
Khi phân tích khả năng chống oxy hóa tổng (TA)
của rong nho sấy cho thấy, TA cũng chịu ảnh hưởng
bởi điều kiện sấy rong nho giống như TĐCQ, độ ẩm
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015
24 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
và khả năng tái hydrate hóa. Nhiệt độ sấy càng cao,
vận tốc gió càng mạnh và thời gian sấy kéo dài, TA
của rong nho sau khi sấy càng giảm. Nhiệt độ sấy
460C, vận tốc gió 1,62 m/s, thời gian 151 phút, TA
của rong sấy là 28,96 mg acid ascorbic/g khối lượng
khô (DW). Sấy rong ở nhiệt độ 480C, vận tốc gió
1,74 m/s và thời gian sấy 152 phút, TA của rong sấy
thấp hơn so sản phẩm rong sấy ở nhiệt độ 460C và
chỉ còn là 28,743 mg acid ascorbic/g DW. Khi nhiệt
độ sấy tăng lên, cụ thể ở nhiệt độ 490C, vận tốc gió
1,86 m/s và thời gian sấy 154 phút, TA của rong sấy
chỉ là 25,903 mg acid ascorbic/g DW. Kết quả này
có thể giải thích là do ở nhiệt độ 46,50C, vận tốc
gió l,62 m/s, sản phẩm rong lâu khô hơn nên thời
gian sấy kéo dài tạo điều kiện cho các phản ứng bất
lợi xảy ra, gây ra những biến đổi xấu về trạng thái,
màu sắc,... của sản phẩm. Ở nhiệt độ sấy 49,50C,
vận tốc gió 1,86 m/s, do nhiệt độ sấy cao hơn và
vận tốc gió lớn hơn dẫn đến quá trình tách ẩm
mạnh khi đó quá trình khuếch tán ngoại xảy ra
mạnh mẽ, không cân bằng với quá trình khuếch
tán nội nên bề mặt sản phẩm bị biến dạng mạnh
dẫn tới trạng thái rong sau sấy bị nhăn nheo làm
hình thái sản phẩm rong sấy không tốt. Đồng thời,
dưới tác dụng của nhiệt độ cao, vận tốc gió lớn
gây ra những biến đổi không tốt về cảm quan sản
phẩm. Ở nhiệt độ sấy là 480C, vận tốc gió 1,74 m/s
và thời gian sấy 152 phút, sản phẩm rong nho sấy
có chất lượng cảm quan tốt nhất. Phân tích ANOVA
và hồi quy cho thấy có sự khác biệt mang ý nghĩa
thống kê ở các điều kiện sấy khác nhau. So sánh
với một số kết quả nghiên cứu trên thế giới cho
thấy, kết quả hoàn toàn phù hợp với lý thuyết và
thực nghiệm sấy [17]. Như vậy, điều kiện sấy có
tác động mạnh mẽ lên TĐCQ, độ ẩm, khả năng tái
hydrate hóa và TA (R2 > 0,9).
Từ các phân tích ở trên cho thấy sấy rong nho
ở nhiệt độ 480C, vận tốc gió 1,74 m/s thời gian sấy
152 phút là phù hợp.
3. Ảnh hưởng của chế độ rây đến chất lượng
bột rong
Kết quả đánh giá ảnh hưởng của chế độ rây
đến chất lượng bột rong nho thể hiện ở hình 3.9 ÷
3.12. Ở điều kiện xay khác nhau, bột rong có chất
lượng cảm quan khác nhau. Khi xay 2 lần với kích
thước lần 1: drây1=2mm, lần 2: drây2=0,5 mm (mẫu 5),
sản phẩm có TĐCQ cao nhất đạt 18,16 điểm. Khi
xay 1 lần với kích thước drây=0,5 mm, drây=1 mm và
drây=2mm, bột không mịn, không đạt yêu cầu về cảm
quan. Do vậy đánh giá độ ẩm, khả năng tái hydrate
hóa, khả năng chống oxy hóa của bột rong ở các
mẫu xay rong số 4, số 5 và số 6. Khi xay hai lần với
kích thước rây lần 1 drây=2 mm, kích thước rây lần
2 là drây= 0,5 mm (mẫu 6), máy xay dễ bị nghẹt, nên
không xay được và rong vón cục nên có TĐCQ thấp
hơn mẫu xay số 5 (hình 9).
Hình 9. Ảnh hưởng của chế độ xay đến chất lượng
cảm quan của bột rong nho
Hình 10. Ảnh hưởng của chế độ xay đến độ ẩm
của bột rong nho
Hình 11. Ảnh hưởng của chế độ xay đến khả năng
tái hydrate hóa của bột rong nho
Hình 12. Ảnh hưởng của chế độ xay đến hoạt tính
chống oxi hóa của bột rong nho
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 25
Các giá trị trung bình của cột có các kí tự (a, b,
c) khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa về mặt thống
kê (p < 0,05).
Mẫu xay số 4 (ở chế độ xay 2 lần với kích thước
lần 1: drây1=2mm, lần2: drây2= 1 mm), bột rong sau khi
xay không mịn, nên TĐCQ đạt 16,4 điểm thấp hơn
tổng điểm cảm quan của hai mẫu số 5 và 6; mẫu xay
này có độ ẩm là 9,1%. Trong khi đó mẫu số 5 (xay
hai lần với kích thước rây lần một là 2mm, lần hai
là 0,5 mm) có độ ẩm là 4,75%. Mẫu xay số 6 (xay
hai lần với kích thước rây lần một là 1mm, lần hai là
0,5 mm) có độ ẩm của bột rong thấp nhất là 3,45%.
Đánh giá về khả năng tái hydrate hóa của bột rong
cho thấy bột rong có kích thước càng nhỏ, khả năng
hút nước và trương nở càng lớn (hình 11) nhưng
khả năng vón cục cao và màu sắc của bột rong
không đạt yêu cầu. Mẫu bột rong xay với kích thước
lần 1: drây1=2mm, lần 2: drây2=0,5mm (mẫu 5) có khả
năng tái hydrate hóa tốt nhất.
TA của rong nho sấy xay ở các chế độ khác
nhau cũng khác nhau (p < 0,04). Mẫu số 4 có TA
cao nhất là 25,772 mg acid ascorbic/g DW, mẫu số
5 có TA là 28,601 mg acid ascorbic/g DW và mẫu
số 6 có TA thấp nhất là 24,921mg acid ascorbic/g
DW. Như vậy mẫu số 6 là mẫu sản phẩm bột rong
có TA thấp nhất và mẫu số 5 là mẫu xay cho sản
phẩm bột rong có TA thấp hơn không đáng kể so
với mẫu 4, nhưng mẫu 5 có sản phẩm bột rong
mịn hơn, màu sắc xanh hơn cũng như khả năng tái
hydrat hóa cao nhất. Điều này có thể lý giải là do các
chất có hoạt tính chống oxi hóa trong rong như acid
ascorbic, polyphenol, chlorophyll,... rất dễ bị biến đổi
do nhiệt độ. Trong quá trình xay, để tạo bột rong càng
mịn, thời gian xay càng dài và ma sát giữa dao cắt
với rong khô càng lớn nên chất lượng của bột rong
càng giảm. Phân tích ANOVA cho thấy có sự khác
biệt mang ý nghĩa thống kê giữa các hàm mục tiêu
ở trong những điều kiện sấy khác nhau (p < 0,04).
Kết quả này hoàn toàn phù hợp với những công
bố trước đây trên thế giới [17] và điều kiện xay có
tác động mạnh mẽ lên TĐCQ, độ ẩm, khả năng tái
hydrate hóa và TA (R2 > 0,9).
Từ các phân tích ở trên cho thấy xay hai lần với
kích thước rây lần 1 là 2mm và lần 2 là 0,5 mm là
phù hợp trong sản xuất bột rong nho.
4. Đánh giá sản phẩm bột rong xay từ công nghệ
với các yếu tố đã lựa chọn
Sau khi chọn được một số yếu tố công nghệ
thích hợp, tiến hành sản xuất bột rong nho xay và
đánh giá chất lượng cho thấy sản phẩm bột rong
nho đạt tiêu chuẩn vi sinh theo tiêu chuẩn hiện hành
của Bộ Y tế Việt Nam [1, 2]. Không thấy xuất hiện
các vi sinh vật khác lạ trong sản phẩm bột rong xay,
ngoại trừ sự xuất hiện của tổng số vi sinh vật hiếu
khí (0,9x102 Kl/100g DW).
IV. KẾT LUẬN
Từ các nghiên cứu ở trên cho phép rút ra một
số kết luận sau:
- Đã xác định được một số yếu tố công nghệ
thích hợp cho sản xuất tạo bột rong nho xay như
sau: thời gian ly tâm tách nước khỏi nguyên liệu
thích hợp là 3 phút, lượng nước tách ra trong
quá trình ly tâm là 10%, thời gian ngâm sorbitol là
30 phút. Chần rong ở nhiệt độ 850C trong 10 -15
giây. Nhiệt độ sấy: 480C, vận tốc gió: 1,74m/s và
thời gian sấy là 2,54h, cường độ chiếu đèn hồng
ngoại 1klux. Rong nho được xay 2 lần với kích
thước rây là: lần 1 drây1 = 2 mm, lần 2 drây2= 0,5 mm.
Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố công nghệ đã
xác định lên chất lượng bột rong nho là rất lớn
(R2 > 0,9).
- Sản phẩm bột rong nho sản xuất theo quy
trình với các thông số công nghệ đã nghiên cứu đạt
chỉ tiêu vi sinh theo tiêu chuẩn hiện hành của Bộ Y
tế Việt Nam. Công nghệ này hoàn toàn phù hợp với
điều kiện sản xuất ở Việt Nam. Đây sẽ là nền tảng
cho sự phát triển công nghệ tạo bột rong nho xay
ngày chất lượng hơn và hoàn toàn có thể triển khai
ở quy mô công nghiệp và bán công nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bộ Y tế (1998), Danh mục các tiêu chuẩn vệ sinh đối với lương thực, thực phẩm, Quyết định số 867/1998/QĐ-BYT, Hà Nội.
2. Bộ Y tế (2007), Quy định mức giới hạn tối đa ô nhiễm sinh học và hóa học trong thực phẩm: QCVN 46-2007/BYT.
3. TCVN 5567: 1991 - Xác định độ ẩm thực phẩm.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015
26 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
4. Tiêu chuẩn ISO 6887-1 (9/1999) - Xác định tổng số vi sinh vật hiếu khí.
5. Tiêu chuẩn ISO/TS 16649-3:2005 (TCVN 7924-3:2008) - Xác định Escherichia coli.
6. Tiêu chuẩn TCVN 4829:2005 - Xác định Salmonella spp.
7. Tiêu chuẩn ISO 7937 (2/2005) - Xác định Clostridium perfringens.
8. Tiêu chuẩn ISO 4831:2006 (TCVN 4882:2007) - Xác định Coliforms.
9. Tiêu chuẩn TCVN 8275-1:2010 - Xác định tổng số bào tử nấm men - nấm mốc.
Tiếng Anh
10. Dov Prusky, Maria Lodovica Gullino (2009), Post-harvest Pathology, Springer Science & Business Media, pp. 212.
11. Hodgson L. M., Pham Huu Tr i, Lewmanomont K. & McDermid K. J. (2004), Annotated checklist of species of Caulerpa
and Caulerpella (Bryopsidales, Caulerpaceae) from Vietnam, Thailand and the Hawaiian Islands, In: Taxonomy of Economic
Seaweeds with reference to the Pacifi c and other locations IX. (Abb ott, I.A. & McDermid, K.J. Eds), 9, 21-38.
12. M. Mathlou thi (1999), Food packaging and preservation, Gaithersburg, Md. Aspen, 277.
13. Millar A . J. K. & Prud’homme Van Reine W. F. (2005), Marine benthic macroalgae collected by Vieillard from New Caledonia
and described as new species by Kützing, Phycologia, 536-549.
14. Nicholas A. Paul, Nicolas Neveux, Ma rie Magnusson & Rocky de Nys (2014), Comparative production and nutr itional value
of “sea grapes” - the tropical green seaweeds Caulerpa lentillifera and C. Racemosa , Journal of Applied Phycology, 26(4),
1833-1844.
15. Park J. I, Woo H. C, Lee J. H. (2008), Production of Bio-ene rgy from Marine Algae: Status and Perspectives, Korean, Korean
Chemical Engineering Research, 98-112.
16. Prieto P., Pineda M. & Aguilar M. (1999), Spectrophotometric quantitation of antioxidant capacity through the formation
of a phosphomolybdenum complex: Specifi c application to the determination of vitamin E, Analytical Biochemistry, 269,
337–341.
17. Sagar V. R., Suresh Kumar P. (2010), Recent advances in drying and dehydratio n of fruits and vegetables: a review, J. Food
Sci. Technol., 47(1), 15–26.
18. Zemke - White, W. L. & Ohno M. (1999), World seaweed utilisation: an end-of-century summary, Journal of App lied
Phycology, 369-376.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- anh_huong_cua_mot_so_yeu_to_cong_nghe_len_chat_luong_bot_ron.pdf