Ảnh hưởng của mật độ nuôi lên sinh trưởng và tỉ lệ sống của cá lăng chấm (Hemibagrus guttatus Lacépède, 1803) nuôi thương phẩm

1. Kết luận Mật độ nuôi ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng, tỉ lệ sống, hiệu quả sử dụng thức ăn của cá ở cả hai cỡ cá thí nghiệm. Ở mật độ nuôi thấp nhất trong mỗi thí nghiệm cho tốc độ tăng trưởng, hiệu quả sử dụng thức ăn cao nhất. Xét theo tiêu chí tăng trưởng, hệ số sử dụng thức ăn và tỉ lệ sống, mật độ nuôi phù hợp cho cỡ cá giống 31,67 g/con là 1,5 con/m2 và ở cỡ cá 406,8 g/con là 0,5 con/m2 sau 6 tháng nuôi. 2. Kiến nghị Trong nuôi thương phẩm cá lăng chấm, việc đảm bảo mật độ nuôi thích hợp đóng vai trò quan trọng trong sự thành công của mô hình, người nuôi nên thả giống đủ một lần rồi tiến hành san thưa định kỳ theo các giai đoạn sinh trưởng của cá

pdf7 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 24/03/2022 | Lượt xem: 213 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của mật độ nuôi lên sinh trưởng và tỉ lệ sống của cá lăng chấm (Hemibagrus guttatus Lacépède, 1803) nuôi thương phẩm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
146 • NHA TRANG UNIVERSITY Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016 ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ NUÔI LÊN SINH TRƯỞNG VÀ TỈ LỆ SỐNG CỦA CÁ LĂNG CHẤM (HEMIBAGRUS GUTTATUS LACÉPÈDE, 1803) NUÔI THƯƠNG PHẨM EFFECTS OF STOCKING DENSITY ON GROWTH AND SURVIVAL RATE OF SPOTTED CATFISH (HEMIBAGRUS GUTTATUS LACÉPÈDE, 1803) IN GROW-OUT PERIOD Nguyễn Đức Tuân1, Nguyễn Quang Huy1 Ngày nhận bài: 25/3/2016; Ngày phản biện thông qua: 06/7/2016; Ngày duyệt đăng: 15/12/2016 TÓM TẮT Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định mật độ phù hợp để nuôi cá lăng chấm (Hemibagrus guttatus) từ giai đoạn cá giống lên cá thương phẩm qua hai thí nghiệm. Thí nghiệm 1, nuôi cá giống từ cỡ 31,7 ± 4,3 g ở các các mật độ 1,5, 2,0, 2,5 và 3,0 con/m2. Thí nghiệm 2, nuôi cá từ cỡ 406,8 ± 41,5 g ở các mật độ 0,5; 1,0; 1,5 và 2,0 con/m2. Các thí nghiệm được bố trí theo kiểu ngẫu nhiên hoàn toàn, mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần. Cá trong cả hai thí nghiệm được nuôi trong các ô lưới trong ao với diện tích 80 m2/ô. Cá được cho ăn thức ăn chế biến có hàm lượng protein 46,2%, lipid 10,3% (cho ăn vào 8h) và cá tạp (cá mè và cá biển) theo tỷ lệ 50:50 (cho ăn vào 16h) theo mức thỏa mãn. Ở cả hai thí nghiệm, khi tăng mật độ nuôi tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn giảm (P<0,05). Ở thí nghiệm thứ 2, khi tăng mật độ nuôi lên 2 con/m2 còn làm giảm tỉ lệ sống của cá so với mật độ nuôi 0,5 con/m2 (P<0,05). Mật độ phù hợp để nuôi thương phẩm cá lăng chấm theo tiêu chí tốc độ tăng trưởng, hệ số thức ăn và tỉ lệ sống cao ở cỡ cá 31,7 g/con là 1,5 con/m2, và ở cá ở cỡ cá 406,8 g/con là 0,5 con/m2. Từ khóa: Cá lăng chấm, Hemibagrus guttatus, mật độ nuôi, cá thương phẩm ABSTRACT This study was conducted to determine the appropriate stocking densities in grow-out stage of spotted catfi sh Hemibagrus guttatus through two feeding experiments in earthen pond. The fi rst experiment was conducted with fi sh size of 31.7 ± 4.3 g in average, at four stocking densities ranged from 1.5; 2.0, 2.5 to 3.0 per m2. Experiment 2 was conducted with fi sh size of 406.8±41.5 g in average, at four stocking densities ranged from 0.5; 1.0, 1.5 to 2.0 per m2. The experiments were designed as completely random type with triplicates for each density treatment. Fish in both experiments were cultured in hapas of 80 m2 each in pond and fed with compound diet of 46.2% protein and 10.3% lipid (at 8am) together with trash fi sh (at 4pm) (silver carp and sea trash fi sh) at ratio 50:50 until satiation. The study showed that the growth rate, feed utilization of the fi sh were reduced as increased stocking densities (P<0.05). Survival rate of fi sh was lowest at highest stocking density in experiment 2 (2 per m2) (P<0.05). Based on growth rate and feed utilization, the appropriate stocking density for farming the fi sh at initial size of 31.7 g and 406.8 g were 1.5 fi sh per m2and 0.5 per m2, respectively. Keywords: Spotted catfi sh, Hemibagrus guttatus, stocking density, commercial fi sh 1 Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016 NHA TRANG UNIVERSITY • 147 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Cá lăng chấm Hemibagrus guttatus (Lacépède 1803) là loài cá có giá trị kinh tế của miền Bắc Việt Nam. Thịt cá lăng chấm mềm, ít xương dăm, được coi là loại cá đặc sản nước ngọt của miền Bắc. Trong những năm 1960- 1970 sản lượng cá lăng chấm chiếm một tỉ trọng khá lớn của sản lượng cá đánh bắt tự nhiên của một số tỉnh miền núi phía Bắc [6]. Tuy nhiên, sản lượng cá lăng chấm trong tự nhiên đã giảm sút nghiêm trọng [1]. Cá lăng chấm có tên trong Sách đỏ Việt Nam do Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường công bố vào năm 2000 và được xếp vào mức nguy cấp bậc V, cần phải bảo vệ gấp. Trong các loài thuộc họ Bagridae thì cá lăng chấm H. guttatus là loài có kích thước lớn nhất, phân bố rộng rãi ở thượng lưu và trung lưu các sông suối lớn ở miền Bắc nước ta [3]. Trước thực trạng trên, từ năm 2002-2008 Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I đã tiến hành các nghiên cứu nhằm xây dựng quy trình sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá lăng chấm với mục đích tái tạo nguồn lợi và đưa cá lăng chấm trở thành đối tượng nuôi đặc sản. Quy trình sản xuất giống nhân tạo cá lăng chấm đã được Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 1 nghiên cứu và hoàn thiện [5]. Mật độ nuôi nuôi cá ảnh hưởng đến tăng trưởng, hiệu quả sử dụng thức ăn, tỉ lệ sống của cá và hiệu quả kinh tế. Năng suất nuôi cá trong ao cao nhất sẽ có thể đạt được khi mật độ thả thích hợp. Khi mật độ thả thấp thì sẽ gây lãng phí diện tích và thức ăn tự nhiên trong ao. Mật độ thả dày cá sẽ chậm lớn dẫn đến năng suất nuôi thấp [2]. Mật độ thả cá có ảnh hưởng lớn đến tốc độ sinh trưởng của cá và hiệu quả kinh tế. Một ví dụ điển hình là đối với cá Nheo Mỹ Ictalurus punctatus. Mật độ nuôi phổ biến tại các trang trại cá nheo tại Mỹ dao động từ 10.000 đến trên 35.000 con/ha. Kết quả nghiên cứu của Losinger và ctv năm 2003 về mối quan hệ giữa mật độ thả giống và hiệu quả kinh tế cho thấy: lợi nhuận đạt cao nhất tại mật độ thả thấp hơn khá nhiều mật độ thả đạt năng suất cao nhất. Năng suất đạt cao nhất khi thả cá nheo với mật độ 30.000 con/ha trong khi mật độ thả để đạt lợi nhuận cao nhất là 17.000 - 21.000 con/ha. Nguyên nhân chủ yếu là do khi nuôi đạt được năng suất cao nhất thì tỷ lệ sống, tốc độ tăng trưởng của cá giảm đồng thời hệ số thức ăn của cá lại cao. Để xây dựng quy trình nuôi thương phẩm cá lăng chấm đạt hiệu quả cao, nghiên cứu nhằm xác định được các mật độ nuôi phù hợp cho giai đoạn nuôi thương phẩm là cần thiết. II. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu Cá thí nghiệm là cá lăng chấm Hemibagrus guttatus ( Lacépède 1803) ở hai cỡ cá có khối lượng trung bình là 31,7±4,3 g và 406,8±41,5 g. Cá thí nghiệm có nguồn gốc từ cá giống được sinh sản nhân tạo từ đàn cá bố mẹ nuôi tại Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I. Thí nghiệm được tiến hành tại Trạm Thủy sản Chương Mỹ, huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Hình 1. Cá lăng chấm H. guttatus trưởng thành 2. Bố trí thí nghiệm Nghiên cứu gồm 2 thí nghiệm. Thí nghiệm 1 được thực hiện ở cá có cỡ trung bình 31,7±4,3 g với 4 mật độ nuôi 1,5, 2,0, 2,5 và 3,0 con/ m2. Thí nghiệm 2 được thực hiện ở cá có cỡ trung bình 406,8± 41,5 g với 4 mật độ nuôi là 0,5, 1,0, 1,5 và 2,0 con/m2. Cá ở cả hai thí nghiệm được nuôi trong các giai lưới (ô thí nghiệm) được ngăn từ 1ao nuôi thương phẩm, mỗi giai lưới có diện tích 80 m2. Các thí nghiệm được bố trí theo kiểu ngẫu nhiên hoàn toàn, mỗi nghiệm thức mật độ được lặp lại 3 lần. Sơ đồ bố trí các ô thí nghiệm ở Hình 2. Số lượng 148 • NHA TRANG UNIVERSITY Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016 Ô 1 Ô 3 Ô 5 Ô 7 Ô 9 Ô 11 Ô 13 Ô 15 Ô 17 Ô 19 Ô 21 Ô 23 160 120 240 160 120 120 80 160 80 80 40 40 240 160 200 240 200 200 160 120 40 120 160 120 Ô 2 Ô 4 Ô 6 Ô 8 Ô 10 Ô 12 Ô 14 Ô 16 Ô 18 Ô 20 Ô 22 Ô 24 Hình 2. Sơ đồ bố trí thí nghiệm TN1: cỡ cá 31,7 g/con TN2: cỡ cá 406,8 g/con cá trong mỗi ô thí nghiệm là số cá tương ứng với mật độ cá thí nghiệm trong mỗi nghiên cứu. 3. Quản lý chăm sóc cá thí nghiệm Cá ở trong hai thí nghiệm được cho ăn thức ăn viên chìm có hàm lượng protein 46,2% và hàm lượng lipid 10,3%, kết hợp với thức ăn tươi sống là cá mè và cá biển nhỏ theo tỷ lệ về khối lượng là 1/1. Cá được cho ăn đến thỏa mãn, 2 lần/ngày vào 8h (thức ăn chế biến) và 16h (thức ăn tươi sống). Trong mỗi ô thí nghiệm có 1 sàng cho ăn để kiểm tra mức độ sử dụng thức ăn của cá. Hàng ngày theo dõi lượng thức ăn của từng ô để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp. Thành phần thức ăn chế biến cho cá như sau: bột cá Peru (66% Protein) 55,6%, bột đỗ tương 28,8%, bột mỳ 7,1%, cám gạo 5%, dầu cá 1,5%, vi lượng và khoáng 2%. Thức ăn viên được chế biến tại xưởng sản xuất thức ăn tại Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I. Ao được thay nước trong khoảng 10-15% lượng nước trong ao/ngày. Nước trong ao luôn được giữ ở mức 1,2-1,5 m. Định kỳ hàng tuần vệ sinh giai lưới để đảm bảo lưu thông nước giữa giai và ao nuôi. Hai thí nghiệm được thực hiện đồng thời trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 9 năm 2007. 4. Thu thập số liệu Các số liệu thu thập bao gồm: lượng thức ăn hàng ngày của cá (đã trừ khối lượng thức ăn thừa trong sàng 1h sau khi cho cá ăn), số lượng cá chết tại từng ô thí nghiệm, số liệu tăng trưởng của cá (chiều dài và khối lượng cá) được thu với tần suất 2 tháng/lần của 30 con cá/ô thí nghiệm. Khi kết thúc thí nghiệm tiến hành tháo cạn ao, cân đo 50 mẫu/ô thí nghiệm (thí nghiệm cỡ cá 31,7 g/con) và 30 con/ô thí nghiệm (thí nghiệm cỡ cá 406,8 g/con) sau đó cân toàn bộ số cá trong ô thí nghiệm. Các yếu tố nhiệt độ, ô xy hoà tan, pH được đo với tần suất 2 ngày/lần vào 6h và 14h. Các yếu tố nhiệt độ, ô xy, pH được đo bằng máy đo cầm tay hiệu YSI. Thu mẫu nước được thực hiện ở 3 vị trí ở các ô số 2, số 12 và 24 để đảm bảo tính đại diện của chất lượng nước trong ao. Các yếu tố COD, BOD5, H2S được thu mẫu và phân tích 2 tuần/lần, vị trí thu mẫu tại các ô số 2, số 12 và 24. Mẫu được phân tích theo các phương pháp chuẩn của APHA (1981). Tốc độ tăng trưởng tương đối theo khối lượng được tính theo công thức: SGRw (%/ngày) = 100x(LnW1 - LnWo)/(T1-T0) Trong đó: W1: khối lượng cá khi kết thúc thí nghiệm (g) W0: Khối lượng cá khi bắt đầu thí nghiệm (g) T1: Thời điểm kết thúc thí nghiệm T0: Thời điểm bắt đầu thí nghiệm Hệ số thức ăn = Khối lượng thức ăn cá sử dụng (kg) Khối lượng tăng lên của cá (kg) Tỷ lệ sống của ác (%) = Số cá thu hoạch (con) Số cá thả (con) Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016 NHA TRANG UNIVERSITY • 149 5. Phương pháp phân tích số liệu Số liệu trong nghiên cứu này được thể hiện là giá trị trung bình (TB)±độ lệch chuẩn (SD). Kết quả nghiên cứu được so sánh bằng phương pháp phân tích phương sai 1 nhân tố (one – way ANOVA) và sử dụng phép kiểm định LSD để xác định sự khác biệt giữa các mật độ nuôi với độ tin cậy 95%. Giá trị tỷ lệ sống được chuyển đổi sang arcsin trước khi phân tích phương sai. Số liệu được xử lý bằng phần mềm thống kê SPSS 20.0. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 1. Biến động của một số yếu tố môi trường nước thí nghiệm Nhiệt độ nước ao trong thời gian thí nghiệm thấp nhất tại tháng 4/2007 đạt 24,77±4,02 0C và cao nhất tại tháng 7/2007 ở mức 33,01±1,99 0C. Giá trị pH trung bình qua các tháng dao động ở mức 7,73-8,30. Hàm lượng oxy hòa tan nằm trong khoảng 4,61±1,44 mg/l vào tháng 7/2007 và cao nhất đạt 5,22±1,16 mg/l vào tháng 6/2007. Hàm lượng H2S dao động trong khoảng 0,03 ± 0,01 mg/l đến 0,04±0,01mg/l. COD dao động trong khoảng 4,50±1,48 mg/l đến 8,30±0,64 mg/l. BOD5 dao động trong khoảng 2,06±1,13 mg/l đến 3,40±1,21 mg/l. Nhìn chung, các chỉ tiêu thủy lý và thủy hóa của môi trường nước trong ao dùng bố trí thí nghiệm đều ở mức phù hợp cho sự sinh trưởng của cá (Bảng 1). Bảng 1. Giá trị một số yếu tố môi trường trong thời gian thí nghiệm Chỉ tiêu theo dõi Thời gian Nhiệt độ (t 0C) pH DO (mg/l) H2S (mg/l) COD (mg/l) BOD5 (mg/l) Tháng 4 24,77±4,02 8,29 4,56±1,54 0,04±0,01 7,70±0,52 3,36±1,09 Tháng 5 29,48±5,14 8,28 5,17±1,70 0,04±0,01 4,50±1,48 2,06±1,13 Tháng 6 32,78±2,42 8,19 5,22±1,16 0,04±0,01 7,63±0,60 3,22±0,83 Tháng 7 33,01±1,99 7,91 4,72±2,05 0,03±0,01 8,30±0,64 3,40±1,21 Tháng 8 32,34±1,66 7,73 4,61±1,44 0,03±0,01 7,67±0,65 3,23±1,15 Tháng 9 30,91±1,82 7,88 4,71±0,92 0,04±0,01 8,23±0,73 3,40±1,16 Chú thích: Giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn Do ao thí nghiệm thường xuyên được cấp nước nên khả năng rửa trôi các chất thải và thức ăn thừa rất tốt. Mặc dù thức ăn cho cá lăng chấm có hàm lượng protein lên đến 46,2% và lipid 10,3% nhưng kết quả phân tích BOD5 và COD cho thấy ao nghèo dinh dưỡng trong suốt thời gian tiến hành thí nghiệm. 2. Kết quả thí nghiệm giai đoạn cá cỡ 30 - 300g/con Sau 4 tháng nuôi, khối lượng trung bình của cá nuôi ở mật độ 1,5 con/m2 đạt 151,1 ± 2,7 g và 2,0 con/m2 đạt 142,0±2,9 g không sai khác nhau (P>0,05) nhưng lớn hơn cá nuôi ở mật độ 2,5 con/m2 và 3,0 con/m2 (P<0,05) (Hình 3). Sau 6 tháng, có sự khác biệt về khối lượng cá ở cả 4 nghiệm thức mật độ, cá nuôi ở mật độ thấp hơn có khối lượng trung bình, tốc độ tăng trưởng cao hơn (P <0,05, Bảng 2). Khối lượng trung bình thấp nhất tại mật độ nuôi 3,0 con/m2 là 209,1 ± 5,2 g và cao nhất ở mật độ nuôi 1,5 con/m2 là 275,5 ± 3,0 g. Chiều dài cá nuôi ở mật độ thấp nhất (1,5 con/m2) cũng lớn nhất nhưng không sai khác với cá nuôi ở mật độ 2,0 con/m2 (P>0,05). 150 • NHA TRANG UNIVERSITY Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016 Tỷ lệ sống của cá tại các công thức thí nghiệm nhìn chung khá cao, dao động từ 92,5 đến 94,8% và không có sự sai khác (P>0,05). Hệ số thức ăn của cá nuôi ở mật độ 1,5 con/ m2 là 3,14 không sai khác với cá nuôi ở mật độ 2,0 con/m2 (P>0,05) và thấp hơn cá nuôi ở mật độ 2,5 con/m2 và 3,0 con/m2 (P<0,05). Không có sự sai khác về hệ số thức ăn giữa cá nuôi ở hai mật độ cao hơn là 2,5 và 3,0 con/m2 (P>0,05). Hệ số thức ăn tăng dần theo mật độ nuôi của cá và sai khác là có ý nghĩa (P<0,05). 3. Kết quả thí nghiệm giai đoạn cá cỡ 400 - 900 g/con Sau 2 tháng nuôi khối lượng trung bình của cá nuôi ở mật độ 0,5 con/m2 đạt 615,6 ± 4,3 g và mật độ 1,0 con/m2 đạt 609,0 ± 9,8 g không có sự khác biệt nhau (P>0,05) nhưng lớn hơn cá nuôi ở mật độ 1,5 con/m2 và 2,0 con/m2 (P<0,05). Tương tự như vậy, sau 4 tháng nuôi khối lượng trung bình của cá nuôi ở mật độ 0,5 con/m2 đạt 750,7 ± 5,3 g và mật độ 1,0 con/m2 đạt 729,9 ± 6,2 g cũng không có sự sai khác (P>0,05) nhưng lớn hơn cá nuôi ở mật độ 1,5 con/m2 và 2,0 con/m2 (P<0,05). Tuy nhiên, ở thời điểm này khối lượng trung bình của cá nuôi ở mật độ 1,5 con/m2 đạt 660,3 ± 6,8 g đã lớn hơn cá nuôi ở mật độ 2,0 con/m2 đạt 627,9 ± 8,1 g (P<0,05) (Hình 4). Hình 3. Khối lượng trung bình của cá thí nghiệm theo thời gian nuôi Bảng 2. Tăng trưởng, tỷ lệ sống và hệ số thức ăn khi nuôi cá giai đoạn 30-300 g/con với các mật độ khác nhau Chỉ tiêu đánh giá Mật độ thả giống (con/m2) 1,5 2,0 2,5 3,0 Chiều dài (cm) 29,1±0,6c 28,3±0,5bc 27,7±0,3ab 26,8±0,7a Khối lượng (g) 275,5±5,3d 246,3±8,5c 227,1±6,4b 209,1±9,0a SGRw(%/ngày) 1,24±0,01d 1,17±0,02c 1,13±0,02b 1,02±0,02a Tỷ lệ sống (%) 93,9±3,8a 94,8±3,4a 92,5±0,8a 94,7±0,6a Hệ số thức ăn 3,14±0,09a 3,29±0,12ab 3,62±0,17b 3,62±0,21b Giá trị trung bình ± SD. Giá trị trung bình trong cùng một hàng khác nhau nếu có ký tự mũ a, b, c khác nhau (P<0,05) Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016 NHA TRANG UNIVERSITY • 151 Sau 6 tháng nuôi, có sự khác biệt về khối lượng cá ở cả 4 nghiệm thức mật độ, cá nuôi ở mật độ thấp hơn có khối lượng trung bình, tốc độ tăng trưởng cao hơn (P<0,05, Bảng 3). Khối lượng trung bình thấp nhất tại mật độ nuôi 2,0 con/m2 là 690,2 g và cao nhất ở mật độ nuôi 0,5 con/m2 là 896,6 g. Chiều dài cá nuôi ở mật độ thấp nhất (0,5 con/m2) cũng lớn nhất (48,0 cm) nhưng không sai có ý nghĩa thống kê với cá nuôi ở mật độ 1,0 con/m2 (46,6 cm) (P>0,05) tuy nhiên lại lớn hơn so với chiều dài của cá nuôi tại mật độ 1,5 con/m2 (42,8 cm) và 2,0 con/m2 (41,6 cm) (P<0,05). Hình 4. Khối lượng trung bình của cá thí nghiệm theo thời gian nuôi Bảng 3. Tăng trưởng, tỷ lệ sống và hệ số thức ăn khi nuôi cá 406,8 g/con với các mật độ khác nhau Chỉ tiêu Mật độ thả cá (con/m2) 0,5 1,0 1,5 2,0 Khối lượng 896,6±16,0d 854,2±12,5c 739,9±20,1b 690,2±11,0a Chiều dài 48,0±1,3b 46,6±1,1b 42,8±2,2a 41,6±1,2a SGRw(%/ngày) 0,45±0,01d 0,42±0,01c 0,34±0,02b 0,30±0,01a Tỷ lệ sống (%) 92,5±4,1b 91,7±1,4ab 91,7±1,6ab 86,5±1,5a Hệ số thức ăn 4,25±0,1a 4,56±0,2a 5,18±0,2b 5,18±0,2c Số liệu là giá trị trung bình ± SD. Giá trị trung bình trong cùng một hàng khác nhau nếu có ký tự mũ a, b, c khác nhau (P<0,05) Tỷ lệ sống của cá ở các mật độ thả cá khác nhau nhìn chung khá cao, dao động từ 86,5 đến 92,5%. Tỷ lệ sống của cá có xu hướng giảm dần khi mật độ thả cá tăng, cao nhất tại mật độ nuôi 0,5 con/m2 (92,5%), không sai khác so với mật độ nuôi 1,0 và 1,5 con/m2 (P>0,05) nhưng lớn hơn so với nghiệm thức nuôi với mật độ 2,0 con/m2 (86,5%) (P<0,05). Hệ số thức ăn của cá tăng dần khi mật độ nuôi của cá tăng lên và có sự sai khác có ý nghĩa (P<0,05) giữa các mật độ nuôi. Hệ số thức ăn thấp nhất tại mật độ 0,5 con/m2 (4,25), không sai khác so với mật độ nuôi 1,0 con/m2 (P>0,05) nhưng thấp hơn và có sai khác so với mật độ nuôi 1,5 và 2,0 con/m2 (P<0,05). 4. Thảo luận Kết quả ở hai thí nghiệm đều cho thấy tốc độ tăng trưởng, cỡ cá tại thời điểm kết thúc thí nghiệm giảm và hệ số thức ăn có xu hướng tăng khi tăng mật độ nuôi. Ở mật độ nuôi quá cao có thể có sự cạnh tranh về thức ăn, cá cắn nhau, hoặc stress do mật độ cao làm giảm tốc độ tăng trưởng và tỉ lệ sống của cá. Cá lăng chấm là cá dữ ăn thịt mới được thuần hóa trong thời gian ngắn nên tính hoang dã vẫn còn mạnh, khi sống trong môi trường nuôi chật hẹp chúng vẫn thường cắn nhau có thể gây chết. Trong quá trình cân đo thu mẫu quan sát thấy trên thân cá có khá nhiều các vết răng, điều này cũng xảy ra ở các ao nuôi cá thương phẩm 152 • NHA TRANG UNIVERSITY Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016 với diện tích hàng nghìn m2. Về ảnh hưởng của các yếu tố môi trường, việc thu mẫu tại 3 điểm đại diện cho thấy sự khác nhau giữa các điểm thu mẫu là không lớn và đều nằm trong ngưỡng thích hợp cho cá sinh trưởng. Những nghiên cứu xác định mật độ ương nuôi phù hợp cho các đối tượng cá khác như cá lăng vàng Mystus nemurus [4], cá chiên Bargarius yarrelli (Trần Anh Tuấn, 2010) đều có những phát hiện tương tự. Ở thí nghiệm thứ nhất với cỡ cá nuôi ban đầu 31,7 g/con, sau 4 tháng nuôi không có sự khác biệt về khối lượng trung bình của cá nuôi ở mật độ 1,5 và 2,0 con/m2. Để cá có tăng trưởng tối ưu mà vẫn đảm bảo được mật độ phù hợp không gây lãng phí diện tích thì có thể nuôi cá ở mật độ 2,0 con/m2 từ cỡ cá khoảng 30g/con trong 4 tháng. Sau giai đoạn này có thể san thưa giảm mật độ nuôi còn 1,5 con/m2. Ở thí nghiệm 2, cá nuôi ở mật độ thấp nhất (0,5 con/m2) cho tăng trưởng cao nhất. Tuy nhiên trong thực tiễn sản xuất có thể xem xét để nuôi ở mật độ 1 con/m2 vì ở mật độ nuôi này không làm tăng hệ số chuyển đổi thức ăn so với mật độ nuôi 0,5 conn/m2 và không làm giảm tỉ lệ sống của cá như nuôi ở mật độ 2 con/m2. IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Mật độ nuôi ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng, tỉ lệ sống, hiệu quả sử dụng thức ăn của cá ở cả hai cỡ cá thí nghiệm. Ở mật độ nuôi thấp nhất trong mỗi thí nghiệm cho tốc độ tăng trưởng, hiệu quả sử dụng thức ăn cao nhất. Xét theo tiêu chí tăng trưởng, hệ số sử dụng thức ăn và tỉ lệ sống, mật độ nuôi phù hợp cho cỡ cá giống 31,67 g/con là 1,5 con/m2 và ở cỡ cá 406,8 g/con là 0,5 con/m2 sau 6 tháng nuôi. 2. Kiến nghị Trong nuôi thương phẩm cá lăng chấm, việc đảm bảo mật độ nuôi thích hợp đóng vai trò quan trọng trong sự thành công của mô hình, người nuôi nên thả giống đủ một lần rồi tiến hành san thưa định kỳ theo các giai đoạn sinh trưởng của cá. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Phạm Báu, Nguyễn Đức Tuân, Bùi Đình Đặng, Nguyễn Công Thắng, 2000. Điều tra nghiên cứu hiện trạng và biện pháp bảo vệ, phục hồi một số loài cá hoang dã quí hiếm có nguy cơ tuyệt chủng trên hệ thống sông Hồng: Cá Anh vũ Semilabeo notabilis (Peters, 1880); Cá Bỗng Spinibarbus denticulatus (Oshima,1926); Cá lăng Hemibagrus guttatus (Lacépède, 1803); Cá Chiên Bagarius yarrelli (Sykes, 1841). Báo cáo tổng kết đề tài,Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản 1, trang 8. 2. Gecking D., 1987. Sinh thái học nuôi cá (bản dịch của Hà Quang Hiến). NXB Nông nghiệp, Hà Nội: 26-59 3. Nguyễn Văn Hảo, 2005. Ngư loại học tập II. NXB Nông nghiệp, Hà Nội: 350-353. 4. Nguyễn Thị Hồng Thắm và Nguyễn Quang Huy, 2013. Ảnh hưởng của mật độ nuôi đến tăng tưởng, tỉ lệ sống và hệ số chuyển đổi thức ăn của cá lăng vàng (Mystus nemurus) nuôi lồng trên hồ chứa. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Số 24: 92-96. 5. Nguyễn Đức Tuân, Khương Văn Thưởng, Lê Thiên Lý, Ngô Ngọc Ninh, 2005. Nghiên cứu kỹ thuật sinh sản nhân tạo cá lăng chấm Hemibagrus guttatus (Lacépède, 1803) trong điều kiện nuôi. Báo cáo tổng kết đề tài. Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản 1. 6. Mai Đình Yên, 1978. Định loại cá nước ngọt các tỉnh phía Bắc Việt Nam. NXB Khoa học kỹ thuật Hà Nội. Trang 252. 7. Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, 2000. Sách Đỏ Việt Nam – Phần Động vật. NXB Khoa học và kĩ thuật Hà Nội: 277-278. Tiếng Anh 8. APHA, 1981. Standard methods for the examination of water and waste water, fi fteenth edition. American Public Health Association. 9. Tucker C., 2003. Channel catfi sh, In: Aquaculture: farming aquatic animals and plants (eds J. S. Lucas & P. C. Southgate). Fishing News Book: 346-364.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfanh_huong_cua_mat_do_nuoi_len_sinh_truong_va_ti_le_song_cua.pdf