Hoạt tính chống oxy hóa của dịch chiết
từ hải miên Ircinia mutans chiết xuất bằng
nước cất cao hơn chiết xuất bằng methanol,
ethanol và cloroform. Phương pháp chiết xuất
với sự hỗ trợ của siêu âm đã làm tăng hàm
lượng protein của dịch chiết nên hoạt tính
chống oxy hóa của dịch chiết tăng lên so với
chiết xuất không có sự hỗ trợ của siêu âm.
Protein trong hải miên Ircinia mutans có hoạt
tính chống oxy hóa cao, cho thấy loài hải miên
này là nguồn lợi thủy sản tiềm năng có thể khai
thác để chiết xuất hoạt chất sinh học chống
oxy hóa ứng dụng vào thực phẩm chức năng
và dược phẩm.
7 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 320 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của loại dung môi chiết và siêu âm đến hoạt tính chống oxy hóa và hàm lượng protein của dịch chiết từ hải miên (Ircinia mutans), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 11
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
ẢNH HƯỞNG CỦA LOẠI DUNG MÔI CHIẾT VÀ SIÊU ÂM
ĐẾN HOẠT TÍNH CHỐNG OXY HÓA VÀ HÀM LƯỢNG PROTEIN
CỦA DỊCH CHIẾT TỪ HẢI MIÊN (Ircinia mutans)
EFFECTS OF EXTRACTION SOLVENT AND ULTRASOUND-ASSISTED EXTRACTION
ON ANTIOXIDANT ACTIVITY AND PROTEIN CONTENT OF EXTRACTS
FROM MARINE SPONGE (Ircinia mutans)
Huỳnh Nguyễn Duy Bảo1, Nguyễn Khắc Bát2
Ngày nhận bài: 29/9/2015; Ngày phản biện thông qua: 09/12/2015; Ngày duyệt đăng: 15/12/2015
TÓM TẮT
Nghiên cứu này đã đánh giá ảnh hưởng của bốn loại dung môi chiết (chloroform, methanol, ethanol và
nước cất) và chiết xuất với sự hỗ trợ của siêu âm đến hoạt tính chống oxy hóa và hàm lượng protein của dịch
chiết từ hải miên (Ircinia mutans). Dịch chiết hải miên bằng nước cất có hoạt tính chống oxy hóa cao hơn so
với dịch chiết hải miên bằng methanol, ethanol và chloroform trong cùng điều kiện chiết. Nhìn chung, chiết
xuất với sự hỗ trợ của siêu âm thu được dịch chiết có hoạt tính chống oxy hóa cao hơn chiết xuất không có sự hỗ
trợ của siêu âm. Hàm lượng protein của các dịch chiết từ hải miên có tương quan cao với hoạt tính chống oxy
hóa. Từ những kết quả trên chỉ ra rằng nước cất là dung môi thích hợp để chiết xuất hoạt chất sinh học chống
oxy hóa từ hải miên Ircinia mutans và protein là hoạt chất sinh học chống oxy hóa chủ yếu có trong dịch chiết.
Từ khóa: Hải miên, hoạt tính khử gốc tự do, tổng năng lực khử, hoạt chất sinh học
ABSTRACT
This study evaluated the effect of four extracting solvents (chloroform, methanol, ethanol and distilled
water) and ultrasound-assisted extraction on the antioxidant activity and protein content of extracts from marine
sponge (Ircinia mutans). The water extracts of the marine sponge showed higher antioxidant activity than
methanol, ethanol and chloroform extracts under similar extraction conditions. Generally, the extracts
obtained by ultrasound-assisted extraction from the marine sponge showed higher antioxidant activity than
those obtained by extraction without applying ultrasound. The protein content of extracts from the marine sponge
was highly correlated with the antioxidant activity. These results showed that distilled water is a suitable
solvent for extracting antioxidants from the marine sponge and protein is a major antioxidant in the extracts.
Keywords: Marine sponge, radical scavenging activity, total reducing power, bioactive compounds
1 TS. Huỳnh Nguyễn Duy Bảo: Khoa Công nghệ thực phẩm – Trường Đại học Nha Trang
2 TS. Nguyễn Khắc Bát: Viện Nghiên cứu Hải sản Hải Phòng
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hải miên được xếp đầu danh sách đối với
việc phát hiện các hợp chất có hoạt tính sinh
học và khả năng ứng dụng trong dược phẩm
do sự đa dạng về cấu trúc hóa học của các chất
chuyển hóa có trong hải miên. Nhiều nghiên
cứu trong những năm gần đây phát hiện ra
những hợp chất có hoạt tính sinh học từ hải
miên như chất chống oxy hóa, chất kháng
viêm, kháng khuẩn, chống lao, chống ung thư,
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015
12 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
kháng nấm, chống sốt rét, kháng virus và
kháng HIV (Mehbub và cộng sự, 2014). Trong
số các nguồn hoạt chất sinh học chống oxy
hóa từ tự nhiên, hải miên được xếp vào nhóm
có chứa hoạt chất sinh học chống oxy hóa cao.
Một số chất chuyển hóa trong hải miên như
polypeptide, saponin, sterol, fl avonoid, glycoside
và các hợp chất phenol là những chất có
hoạt tính chống oxy hóa cao (Halliwell, 1994;
Chairman và Singh, 2012). Ngoài ra, Sato và
cộng sự (2006) cũng đã tìm thấy các hợp chất
carotenoids, polyphenol, glutathione trong một
số loài hải miên, đây cũng là những hợp chất
có hoạt tính chống oxy hóa cao.
Việt Nam có điều kiện rất thuận lợi cho các
loài hải miên cùng với các sinh vật ký sinh trên
chúng phát triển. Những nghiên cứu trước đây
đã công bố có khoảng 201 loài hải miên được
tìm thấy ở vùng biển Việt Nam (Thai Minh
Quang, 2000). Trong đó, các loài hải miên Ircinia
spp. đã được các nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu khai thác hoạt chất sinh học (Kumar và Pal,
2012). Nghiên cứu của Orhan và cộng sự (2012)
cho thấy dịch chiết từ các loài hải miên Ircinia
spinulosa, I. fasciculata, and I. variabilis có
hoạt tính kháng khuẩn, kháng nấm, khử gốc tự
do 2,2 diphenyl-1picrylhydrazine (DPPH) và ức
chế acetylcholinesterase. Hoạt tính kháng khuẩn
của dịch chiết từ hải miên Ircinia mutans đã
được Nazemi và cộng sự (2014) công bố và các
protein có hoạt tính kháng khuẩn đã được phân
lập từ hải miên bởi Salehi và cộng sự (2014).
Nhìn chung, những công bố về nghiên cứu hoạt
tính chống oxy hóa của hải miên Ircinia mutans
còn rất hạn chế. Để khai thác hiệu quả nguồn tài
nguyên quý giá này, việc nghiên cứu tách chiết
các hoạt chất sinh học từ hải miên Ircinia mutans
ở vùng biển Việt Nam là rất cần thiết. Nghiên cứu
này đã tiến hành xác định ảnh hưởng của loại
dung môi chiết và chiết xuất với sự hỗ trợ của
siêu âm đến hoạt tính chống oxy hóa và hàm
lượng protein của dịch chiết từ hải miên Ircinia
mutans nhằm tìm ra loại dung môi và phương
pháp thích hợp cho chiết xuất hoạt chất chống
oxy hóa từ hải miên đạt hiệu quả cao.
II. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Nguyên vật liệu và hóa chất
1.1. Nguyên vật liệu
Hải miên Ircinia mutans sử dụng trong
nghiên cứu này được lấy mẫu ở vùng biển Phú
Quốc, tỉnh Kiên Giang vào tháng 7 năm 2014.
Hình 1. Hải miên Ircinia mutans lấy mẫu ở vùng biển
Phú Quốc
Ngay sau khi lấy mẫu, hải miên được
ướp lạnh và vận chuyển về phòng thí nghiệm
Trường Đại học Nha Trang. Tại phòng thí
nghiệm, hải miên được bảo quản đông ở nhiệt
độ - 20oC để sử dụng cho nghiên cứu này.
1.2. Hóa chất
2,2 diphenyl-1picrylhydrazine (DPPH),
Bovine serum albumin (BSA), Folin–Ciocalteu
reagent được mua từ công ty Sigma-Aldrich,
Hoa Kỳ. Các hóa chất còn lại là loại đạt tiêu
chuẩn dùng cho phân tích hóa học, được mua
từ Công ty Loba Chemie, Ấn Độ và Công ty
Wako, Nhật Bản.
2. Phương pháp nghiên cứu
Để xác định ảnh hưởng của loại dung môi
chiết xuất đến hoạt tính sinh học chống oxy
và hàm lượng protein của dịch chiết từ hải
miên đã tiến hành thí nghiệm sử dụng 4 loại
dung môi có độ phân cực khác nhau là nước
cất, methanol, ethanol và cloroform. Chiết
xuất được thực hiện theo 2 phương pháp là
chiết xuất với sự hỗ trợ của siêu âm và chiết
xuất không có sự hỗ trợ của siêu âm. Các cách
tiến hành như sau:
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 13
Chiết xuất với sự hỗ trợ của siêu âm:
Lấy 100 g hải miên đông lạnh ở -20oC đem
cắt nhỏ đến kích thước khoảng 1 – 2 mm rồi
đồng hóa với 200 ml dung môi. Hỗn hợp đồng
hóa được đưa đi chiết xuất lần 1 trong thời
gian 10 phút ở nhiệt độ phòng với sự hỗ trợ
của siêu âm. Sau đó, đưa đi ly tâm ở 4oC trong
20 phút với vận tốc 3000 vòng/phút. Sau khi ly
tâm, tách lấy dịch và lọc qua giấy lọc Whatman
số 1 thu được dịch lọc. Bã lọc được tiến hành
chiết lại 2 lần nữa với tỷ lệ dung môi/nguyên
liệu và cách chiết như lần 1. Dịch lọc thu được
từ 3 lần chiết nhập chung lại rồi ly tâm ở 4oC
trong 10 phút với vận tốc 15000 vòng/phút.
Tách lấy dịch ly tâm và lọc qua giấy lọc
Whatman số 1, bổ sung thêm dung môi vào
dịch lọc cho đủ 600 ml dịch chiết.
Chiết xuất không có sự hỗ trợ của siêu âm:
Lấy 100 g hải miên đông lạnh ở -20oC đem
cắt nhỏ đến kích thước khoảng 1 – 2 mm rồi
đồng hóa với 200 ml dung môi. Hỗn hợp đồng
hóa được đưa đi chiết xuất lần 1 trong thời
gian 10 phút ở nhiệt độ phòng không có sự
hỗ trợ của siêu âm. Sau đó, đưa đi ly tâm ở
4oC trong 20 phút với vận tốc 3000 vòng/phút.
Sau khi ly tâm, tách lấy dịch và lọc qua giấy lọc
Whatman số 1 thu được dịch lọc. Bã lọc được
tiến hành chiết lại 2 lần nữa với tỷ lệ dung môi/
nguyên liệu và cách chiết như lần 1. Dịch lọc
thu được từ 3 lần chiết nhập chung lại rồi ly
tâm ở 4oC trong 10 phút với vận tốc 15000
vòng/phút. Tách lấy dịch ly tâm và lọc qua giấy
lọc Whatman số 1, bổ sung thêm dung môi
vào dịch lọc cho đủ 600 ml dịch chiết.
Dịch chiết hải miên thu được giữ ở 4oC
dùng để phân tích hoạt tính chống oxy hóa và
hàm lượng protein trong ngày.
3. Phương pháp phân tích
Hoạt tính chống oxy hóa của dịch chiết từ
hải miên được đánh giá dựa vào khả năng khử
gốc tự do DPPH được phân tích theo phương
pháp của Fu và cộng sự (2002) và dựa vào
tổng năng lực khử được phân tích theo phương
pháp của Oyaizu (1986).
Hàm lượng protein trong dịch chiết từ hải
miên được phân tích theo phương pháp Lowry
và cộng sự (1951).
4. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu trình bày trong bài báo này là giá
trị trung bình của 3 lần thí nghiệm. Tính giá
trị trung bình và vẽ đồ thị sử dụng phần mềm
Microsoft Excel 2003. Sự khác biệt có ý nghĩa
về mặt thống kê (p < 0,05) của các giá trị trung
bình được phân tích trên phần mềm thống kê
R phiên bản 2.13.1.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Ảnh hưởng của loại dung môi chiết xuất
đến hoạt tính khử gốc tự do DPPH của dịch
chiết từ hải miên
Kết quả phân tích hoạt tính khử gốc tự do
DPPH của dịch chiết hải miên chiết xuất bằng
các dung môi khác nhau với sự hỗ trợ của siêu
âm và không có sự hỗ trợ của siêu âm được
thể hiện trên hình 2.
Hình 2. Hoạt tính khử gốc tự do DPPH của dịch chiết từ hải miên bằng các dung môi khác nhau với sự hỗ trợ
của siêu âm (a) và không có sự hỗ trợ của siêu âm (b)
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015
14 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Cả hai trường hợp chiết xuất với sự hỗ trợ
của siêu âm và không có sự hỗ trợ của siêu âm
đều cho thấy dịch chiết hải miên bằng nước cất
có hoạt tính khử gốc tự do DPPH cao nhất và
dịch chiết hải miên bằng chloroform có hoạt tính
khử gốc tự do DPPH rất thấp. Trong cùng điều
kiện chiết, dịch chiết hải miên bằng methanol
có hoạt tính khử gốc tự do DPPH cao hơn dịch
chiết hải miên bằng ethanol và sự khác biệt
này có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Tuy nhiên,
cả hai dịch chiết hải miên bằng methanol và
ethanol đều có hoạt tính khử gốc tự do DPPH
thấp hơn rất nhiều so với dịch chiết hải miên
bằng nước cất. Điều này cho thấy các hợp
chất có hoạt tính khử gốc tự do DPPH trong
loài hải miên Ircinia mutans là những chất có
độ phân cực cao nên hòa tan tốt trong nước
cất, ít hòa tan trong các dung môi hữu cơ phân
cực (methanol và ethanol) và hầu như không
hòa tan trong dung môi chloroform.
Nghiên cứu của Taheri và Jalalinezhad
(2015) cho thấy, dịch chiết bằng nước cất và
bằng methanol từ 1 gam hải miên Geodia
perarmata có khả năng khử được gốc tự do
DPPH với nồng độ tương ứng là 0,048 và
0,009 mM. Trong nghiên cứu này, dịch chiết
bằng nước cất và bằng methanol từ 1 gam hải
miên Ircinia mutans có khả năng khử được gốc
tự do DPPH với nồng độ tương ứng là 15,8 và
0,74 mM. Với khả năng khử gốc tự do DPPH
cao hơn 300 lần so với dịch chiết từ hải miên
Geodia perarmata, đã cho thấy hải miên Ircinia
mutans là loài tiềm năng cho chiết xuất các
hoạt chất sinh học chống oxy hóa.
2. Ảnh hưởng của loại dung môi chiết xuất đến
tổng năng lực khử của dịch chiết từ hải miên
Kết quả phân tích tổng năng lực khử của
dịch chiết hải miên chiết xuất bằng các dung môi
khác nhau với sự hỗ trợ của siêu âm và không có
sự hỗ trợ của siêu âm được thể hiện trên hình 3.
Hình 3. Tổng năng lực khử của dịch chiết từ hải miên bằng các dung môi khác nhau với sự hỗ trợ của siêu âm (a)
và không có sự hỗ trợ của siêu âm (b)
Tương tự như kết quả phân tích hoạt
tính khử gốc tự do DPPH, cả hai trường
hợp chiết xuất với sự hỗ trợ của siêu âm và
không có sự hỗ trợ của siêu âm đều cho thấy
tổng năng lực khử của dịch chiết hải miên
bằng nước cất cao nhất và của dịch chiết
hải miên bằng chloroform thấp nhất (hình 3).
Tổng năng lực khử của dịch chiết hải miên
bằng methanol cao hơn gấp 2 lần (P < 0,05)
so với dịch chiết hải miên bằng ethanol trong
cùng điều kiện chiết. Điều này cho thấy
các hợp chất có có tổng năng lực khử cao
trong loài hải miên Ircinia mutans là những
chất có độ phân cực cao nên hòa tan tốt
trong nước cất, ít hòa tan trong các dung môi
hữu cơ phân cực (methanol và ethanol) và
hầu như không hòa tan trong dung môi
chloroform.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 15
Dịch chiết bằng nước cất và bằng methanol
từ 1 gam hải miên Geodia perarmata có tổng
năng lực khử tương đương với 0,61 và 0,14 mg
vitamin C (Taheri và Jalalinezhad, 2015).
Trong nghiên cứu này, dịch chiết bằng nước
cất và bằng methanol từ 1 gam hải miên Ircinia
mutans có tổng năng lực khử tương đương với
10,8 và 2,4 mg vitamin C. Điều này góp phần
khẳng định hải miên Ircinia mutans là loài tiềm
năng cho chiết xuất các hoạt chất sinh học
chống oxy hóa và nước cất là dung môi thích
nhất cho chiết xuất các hoạt chất sinh học này.
Từ những kết quả phân tích hoạt tính khử
gốc tự do DPPH và tổng năng lực khử của dịch
chiết hải miên bằng các dung môi khác nhau
với sự hỗ trợ của siêu âm và không có sự hỗ
trợ của siêu âm cho phép khẳng định các hoạt
chất sinh học chống oxy hóa trong loài hải
miên Ircinia mutans có độ phân cực cao nên
nước cất là dung môi thích hợp nhất để chiết
xuất các hợp chất này.
3. Ảnh hưởng của loại dung môi chiết xuất
đến hàm lượng protein của dịch chiết từ
hải miên
Kết quả phân tích hàm lượng protein của
dịch chiết hải miên chiết xuất bằng các dung
môi khác nhau với sự hỗ trợ của siêu âm và
không có sự hỗ trợ của siêu âm được thể hiện
trên hình 4.
Hình 4. Hàm lượng protein của dịch chiết từ hải miên bằng các dung môi khác nhau với sự hỗ trợ của siêu âm (a)
và không có sự hỗ trợ của siêu âm (b)
Từ kết quả ở hình 4 cho thấy hàm lượng
protein của dịch chiết hải miên bằng nước cất
với sự hỗ trợ của siêu âm và không có sự hỗ
trợ của siêu âm tương ứng là 10,84 ± 0,42
và 8,24 ± 0,09 mg/ml, cao hơn gấp 3 lần so
với hàm lượng protein của dịch chiết hải miên
bằng methanol và ethanol trong cùng điều kiện
chiết. Cả hai trường hợp chiết xuất với sự hỗ
trợ của siêu âm và không có sự hỗ trợ của siêu
âm đều cho thấy hàm lượng protein của dịch
chiết hải miên bằng methanol và ethanol khác
biệt không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05). Dịch
chiết hải miên bằng chloroform có hàm lượng
protein rất thấp gần như bằng không. Điều này
cho thấy hoạt chất sinh học chống oxy hóa
trong dịch chiết từ hải miên Ircinia mutans chủ
yếu là protein và có thể có nhiều loại protein có
hoạt tính chống oxy hóa khác nhau.
4. Tương quan giữa hàm lượng protein với
hoạt tính chống oxy hóa của dịch chiết từ
hải miên
Mối tương quan giữa hàm lượng protein
với hoạt tính khử gốc tự do DPPH và tổng
năng lực khử của dịch chiết từ hải miên Ircinia
mutans được thể hiện trên hình 5.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015
16 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Kết quả phân tích tương quan ở hình 5 cho
thấy hàm lượng protein của dịch chiết từ hải
miên Ircinia mutans bằng các loại dung môi
khác nhau có tương quan rất cao với hoạt tính
khử gốc tự do DPPH (r = 0,97) và tổng năng
lực khử (r = 0,92) của dịch chiết. Kết quả này
cho thấy protein là một trong những hoạt chất
sinh học chống oxy hóa chủ yếu trong hải miên
Ircinia mutans.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Hoạt tính chống oxy hóa của dịch chiết
từ hải miên Ircinia mutans chiết xuất bằng
nước cất cao hơn chiết xuất bằng methanol,
ethanol và cloroform. Phương pháp chiết xuất
với sự hỗ trợ của siêu âm đã làm tăng hàm
lượng protein của dịch chiết nên hoạt tính
chống oxy hóa của dịch chiết tăng lên so với
chiết xuất không có sự hỗ trợ của siêu âm.
Protein trong hải miên Ircinia mutans có hoạt
tính chống oxy hóa cao, cho thấy loài hải miên
này là nguồn lợi thủy sản tiềm năng có thể khai
thác để chiết xuất hoạt chất sinh học chống
oxy hóa ứng dụng vào thực phẩm chức năng
và dược phẩm.
Hình 5. Tương quan giữa hàm lượng protein (PRO) với hoạt tính khử gốc tự do DPPH (DPPH) và tổng năng lực
khử (TNLK) của dịch chiết từ hải miên
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chairman, K., Singh, A. J. A. R., Alagumuthu, G. (2012). Cytotoxic and antioxidant activity of selected marine
sponges. Asian Pacifi c Journal of Tropical Disease, 2(3): 234–238.
2. Fu. H., Shieh D., Ho C. (2002). Antioxidant and free radieal scavenging activities of edible mushrooms. Food
lipids, 9: 35-46.
3. Halliwell, B. (1994). Free radicals, antioxidants, and human disease: curiosity, cause or consequence?. The
Lancet, 344: 721-724.
4. Kumar, M. S., Pal, A. K. (2012). Investigation of bioactivity of extracts of Marine Sponge, Spongosorites
halichondrioides (Dendy, 1905) from western coastal areas of India. Asian Pacifi c Journal of Tropical
Biomedicine, S1784-S1789.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 17
5. Lowry, O. H., Rosebrough, N. J., Farr, A. L., Randall, R. J. (1951). Protein measurement with the folin phenol
reagent. The Journal of Biological Chemistry, 193: 265-275
6. Mehbub, M. F., Lei, J., Franco, C., Zhang, W. (2014). Marine sponge derived natural products between 2001 and
2010: Trends and opportunities for discovery of bioactives. Marine Drugs, 12(8): 4539-4577.
7. Nazemi, M., Motallebi, M. A. A., Jamili, S., Mashinchian, A., Ghavam, M. P. (2014). Comparison of
antibacterial activities of Ircinia mutans extracts in two different seasons from Kish Island, Persian Gulf, Iran.
Iranian Journal of Fisheries Sciences, 13(4): 823-833.
8. Orhan, I. E., Ozcelik, B., Konuklugil, B., Putz, A., Kaban, U. G., Proksch, P. (2012). Bioactivity screening of the
selected turkish marine sponges and three compounds from Agelas oroides. Record of Natural Products, 6(4):
356 -367.
9. Oyaizu, M. (1986). Studis on products of browning reations: autioxidative activities of products of browning
reaction prepared from glucosamine. Japanese Journal of Nutrition, 44: 307-315.
10. Salehi, A., Patong, R., Ahmad, A. (2014). Isolation And Characterization Of Some Kind Bioactive Proteins
Sponge As Antibacterial Agent. International Journal of Scientifi c & Technology Research, 3(2): 233-236.
11. Sato, S., Kuramoto, M., Ono, N., Ircinamine, B. (2006). Bioactive alkaloid from marine sponge. Dactylia sp.
Tetrahedron Letters, 47: 7871–7873.
12. Taheri, A., Jalalinezhad, S. (2015).Antioxidative and Cytotoxic Effect of Marine Sponge (Geodia perarmata)
Extracts against Breast and Colorectal Cancer Cells. 2nd International Conference on Advances in Environment,
Agriculture & Medical Sciences (ICAEAM-15), June 11-12, 2015, Antalya (Turkey).
13. Thai Minh Quang. (2013). A review of the diversity of sponges (porifera) in Vietnam. The 2nd international
workshop on marine bioresources of Vietnam, Hanoi 5-6/6/2013, 109-115.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- anh_huong_cua_loai_dung_moi_chiet_va_sieu_am_den_hoat_tinh_c.pdf