The study focused on three main points. The first content was selection and classification of
H’Mong cattle herds raised in 150 households in Dong Van district, Ha Giang province. The
second part was assessment on growth ability of calves from selected parents. Finally, based on
monitoring results of the second generation calves, effects of breed selection to the following
generations were evaluated using generalized linear models (GLM) and regression equations.
Findings revealed that H’Mong cattle were heavily muscled; mature cattle reached 298 kg/head for
female and up to 363 kg/head for male. At the age of over 2.5 years, they could produce their first
calf; and the time between two parities was 16 months. The selection of heavy parents improved
body weight and growth rate of calves. Calf weight (kg/head) of selected parents was always
higher than that of the control group at both newborn and 6-month stages with specific results of
20.3 kg and 81.1 kg/head compared with 18.7 kg and 75.1 kg/head of the control group (P ≤ 0.05)
respectively. The regression equation between the body weight of parents with that of newborn, 3
and 6 month-old calves had coefficient of determination R2 ranging from 0.37 to 0.59 (P ≤ 0.001)
8 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 455 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của công tác chọn lọc giống đến sinh trưởng của đàn bò H'mông tại huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang - Trần Huê Viên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trần Huê Viên và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 115(01): 123 - 130
123
ẢNH HƢỞNG CỦA CÔNG TÁC CHỌN LỌC GIỐNG ĐẾN SINH TRƢỞNG
CỦA ĐÀN BÕ H'MÔNG TẠI HUYỆN ĐỒNG VĂN TỈNH HÀ GIANG
Trần Huê Viên1*, Nguyễn Hƣng Quang1,
Phạm Duy Hiền2, Nguyễn Hữu Cƣờng2
1Trường Đại học Nông Lâm - ĐH Thái Nguyên,
2Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hà Giang, 3Bộ Khoa học Công nghệ
TÓM TẮT
Nghiên cứu gồm 3 nội dung chính. i) đánh giá khả năng sinh trƣởng của đàn bò H’Mông đang
nuôi tại 150 hộ thuộc huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang. ii) đánh giá sức sinh trƣởng của đàn bê
sinh ra từ các cá thể bố mẹ tốt đƣợc lựa chọn trong đàn. iii) Từ kết quả theo dõi của thế hệ con cái,
tổng quát (GLM) và phƣơng trình hồi quy.
Kết quả các nội dung nghiên cứu cho thấy bò H'Mông có tầm vóc khá lớn, khối lƣợng bò đực
trƣởng thành đạt 363 kg/con, bò cái là 298 kg/con. Bò có tuổi đẻ lứa đầu trên 2,5 năm, khoảng
cách giữa hai lứa đẻ 16 tháng. Việc chọn lọc bò đực khối lƣợng lớn phối với bò cái khối lƣợng lớn
đã nâng cao khối lƣợng sơ sinh và tốc độ sinh trƣởng của bê. Khối lƣợng bê của lô ghép đôi giao
phối giữa đực to với cái to luôn cao hơn khối lƣợng bê của nhóm đối chứng ở cả ở cả từ sơ sinh
đến 6 tháng (20,3 và 81,1 kg/con so với 18,7 và 75,1 kg/con) (P≤ 0,05). Phƣơng trình hồi quy giữa
khối lƣợng bò bố, mẹ với khối lƣợng sơ sinh, khối lƣợng 3; 6 tháng tuổi của bê có hệ số xác định
R
2
nằm trong khoảng 0,37 - 0,59 với độ tin cậy P≤ 0,001.
Từ khóa: Bò H’Mông, Hà Giang, Tốc độ sinh trưởng, Chọn lọc; Phương trình hồi quy
MỞ ĐẦU*
Bò H'Mông nuôi tại Hà Giang là gia súc nuôi
phổ biến của đồng bào H’Mông có nhiều đặc
điểm ƣu việt [19]. Nó xuất phát với nguồn
gốc là bò vàng vùng cao đƣợc ngƣời H’Mông
chọn lọc, thuần dƣỡng từ lâu đời. Vì vậy, nó
đƣợc gọi là bò H’Mông. Bò đã thích ứng với
điều kiện sống trên vùng cao núi đá, khí hậu
lạnh và khan hiếm thức ăn, nƣớc uống. Bò
đƣợc nuôi nhiều ở các tỉnh miền núi phía bắc
nhƣ Hà Giang, Bắc Kạn, Cao Bằng [5].
Bò H'Mông là loại bò quý thuộc dòng bò U
(Boss indicus) có tính thuần thục, chịu đƣợc
kham khổ, có sức chống chịu bệnh tật và khả
năng sinh trƣởng cao. Khối lƣợng trung bình
con đực thƣờng đạt 382 - 388 kg, con cái là
250 - 270 kg [5]; [6]. Cá biệt có cá thể bò
H’Mông nuôi tại Hà Quảng - Cao Bằng đạt
625 kg [16]. Bò có tỉ lệ thịt xẻ khá cao,
52,12%, tỉ lệ thịt tinh đạt 40,33% [6]. Khả
năng cho thịt bò của bò H’Mông khá tốt, tỷ lệ
*
Tel: 0912 130444, Email: tranhuevien@gmail.com
thịt xẻ chiếm >41%; tỷ lệ thịt tinh chiếm >32%,
trong đó tỷ lệ thịt loại 1 chiếm tới 45% [14].
Trong những năm qua, khi sự giao lƣu kinh tế
xã hội, giao thông phát triển thuận tiện rộng
khắp ở mọi vùng miền trong cả nƣớc cũng
nhƣ Hà Giang nói riêng thì nhiều giống vật
nuôi mới trong đó có bò đã xâm nhập và trao
đổi nguồn gen với bò H'Mông. Việc trao đổi
phát sinh này dẫn tới xu hƣớng bò H’Mông bị
lai tạp. Mặt khác, tập quán chăn nuôi thả rông
thành đàn, tự do giao phối, vấn đề cận huyết
kéo dài do không luân chuyển đực giống, bò
thuộc của dân nên họ thƣờng bán đi những bò
to để đƣợc nhiều tiền, giữ lại bò bé, dẫn đến
khối lƣợng cơ thể bị giảm dần, đây là những
nguyên nhân dẫn đến chất lƣợng đàn bò bị
suy giảm. Về công tác quản lý: chƣa có sự
vào cuộc của cơ quan chuyên môn để hình
thành hệ thống chọn lọc, quản lý giao phối và
nhân giống nhằm gìn giữ những đặc tính ƣu
việt của phẩm giống và phát huy tiềm năng di
truyền của chúng. Vì vậy, việc nghiên cứu các
Trần Huê Viên và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 115(01): 123 - 130
124
biện pháp kỹ thuật nhằm bảo tồn và phát triển
giống bò này dựa vào chọn lọc những bò đực
có tầm vóc to làm giống để nâng cao sức sản
xuất của đàn con sinh ra góp phần tăng hiệu
quả chăn nuôi bò H'Mông.
NỘI DUNG, PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng, địa điểm và thời gian
- Đối tƣợng nghiên cứu: Bò, bê H'Mông nuôi
trong nông hộ tại huyện Đồng Văn - tỉnh Hà
Giang.
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 10/2011 đến
tháng 8/2013.
- Địa điểm nghiên cứu: Huyện Đồng Văn,
tỉnh Hà Giang.
Nội dung nghiên cứu
- Đánh giá khả năng sinh trƣởng và một số
chỉ số cấu tạo cơ thể của đàn bò H’Mông hiện
tại của huyện.
- Theo dõi sức sinh trƣởng của đàn bê sinh ra
trong thí nghiệm theo dõi.
- Đánh giá ảnh hƣởng của công tác chọn lọc
giống đến đời sau.
Phƣơng pháp theo dõi và thu thập số liệu
- Tổ chức đánh giá khả năng sinh trƣởng của
đàn bò H'Mông theo tiêu chuẩn khảo sát,
đánh giá chất lƣợng đàn bò Vàng Việt Nam
đã đƣợc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông
thôn ban hành.
- Tuyển chọn đàn bò thí nghiệm: Trên cơ sở
số liệu đánh giá đàn bò H'Mông trong huyện,
tiến hành chọn lọc phân loại đàn bò làm các
nhóm để phục vụ nghiên cứu dựa trên khối
lƣợng bò, ngoại hình đối với bò đực giống;
Khối lƣợng, tuổi đẻ lứa đầu và khoảng cách
lứa đẻ đối với bò cái sinh sản.
- Theo dõi khả năng sinh trƣởng của đàn bê
sinh ra ở các mốc tuổi sơ sinh, 3 và 6 tháng
tuổi bằng cân bàn và cân điện tử.
- Đánh giá sự tƣơng quan giữa khối lƣợng bò
bố và bò mẹ với khối lƣợng bê sinh ra bằng
cách sử dụng phƣơng trình hồi quy.
Các chỉ tiêu theo dõi
- Các chỉ tiêu của đàn bò bố mẹ: Sức sinh
trƣởng của đàn bò; sức sinh sản của đàn bò;
khối lƣợng đàn bò đực, cái; kích thƣớc các
chiều đo cơ thể gồm (VN, DTC, CV).
- Các chỉ tiêu của bê con: Khối lƣợng bê ở
các mốc tuổi sơ sinh, 3 và 6 tháng tuổi; sSinh
trƣởng tích lũy; sinh trƣởng tuyệt đối; sinh
trƣởng tƣơng đối.
Phƣơng pháp xử lý số liệu
tuyến tính tổng quát (GLM) và phƣơng trình
hồi quy đƣợc xác định bằng chƣơng trình
thống kê sinh học Minitab version 14.0.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Một số chỉ tiêu chất lượng đàn bò địa phương
Kết quả khảo sát, đánh giá chất lƣợng 352 bò
(250 bò cái và 102 bò đực) trong tổng số 150
hộ nuôi bò về tầm vóc, khả năng sinh trƣởng,
sinh sản đƣợc trình bày các bảng dƣới đây.
Kết quả nghiên cứu cho thấy bò có khối
lƣợng cơ thể thấp hơn so với các giống bò
Zebu nhập ngoại. Kết quả này tƣơng đƣơng
với nghiên cứu của Đào Lan Nhi (2012) [5],
bò H'Mông có khối lƣợng sơ sinh con đực 17
- 18 kg và con cái 14 - 16 kg. Lúc 2 năm tuổi
con đực đạt khối lƣợng 233 - 275 kg và con
cái đạt 216 - 225 kg. Nguyễn Đàm Thuyên
(2012) [14], cho biết lúc 2 năm tuổi con đực
đạt khối lƣợng 321 kg và con cái đạt 267 kg,
cao hơn kết quả điều tra này. Nguyễn Thị
Thoa (2011) [13] khảo sát giống bò H’Mông
tại Pắc Nặm, Ba Bể và Chợ Đồn của tỉnh Bắc
Kạn cho thấy bò cái trƣởng thành có khối
lƣợng 222 - 226 kg, bò đực ở độ tuổi từ 24
đến 48 tháng tuổi có khối lƣợng bình quân là
258 - 277 kg, bò đực ở độ tuổi trên 48 tháng
tuổi có khối lƣợng bình quân là 310 - 371 kg.
Qua kích thƣớc 3 chiều đo chính là: Cao vây,
vòng ngực, dài thân chéo ta thấy từ 6 đến >60
tháng tuổi, vòng ngực luôn luôn lớn hơn các
chiều đo cao vây và dài thân chéo. Tốc độ
phát triển của các chiều đo là khác nhau, và
càng lớn tốc độ càng giảm dần đúng nhƣ quy
luật của tăng khối lƣợng và quy luật phát triển
theo giai đoạn của gia súc.
Trần Huê Viên và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 115(01): 123 - 130
125
Bảng 1. Khối lượng cơ thể bò H'Mông ở các tháng tuổi (kg/con)
Tuổi
(tháng)
Bò đực Bò cái
n X ± SD n X ± SD
6 12 78,3 ± 7,2 12 75,3 ± 8,1
12 12 132,3 ± 11,6 12 129,2 ± 10,7
18 12 189,5 ± 15,0 12 181,5 ± 14,6
24 12 244,7 ± 16,5 12 218,7 ± 17,4
36 12 301,4 ± 20,3 14 255,4 ± 21,8
48 24 337,8 ± 22,3 32 279,6 ± 23,2
≥ 60 23 363,5 ± 23,8 104 298,5 ± 26,1
Bảng 2. Kích thước các chiều đo của bò H'Mông qua các tháng tuổi
Tháng
tuổi bò
Bò đực ( X ± SD ) Bò cái ( X ± SD )
n CV (cm) VN (cm) DTC (cm) n CV (cm) VN (cm) DTC (cm)
6 12 82,5±1,1 102,4±0,7 82,5±0,9 12 81,3±1,1 101,9±0,8 81,9±1,0
12 12 93,8±1,3 120,2±0,9 93,6±1,2 12 91,4±1,3 119,1±1,0 89,5±0,9
18 12 101,2±1,1 133,7±0,9 102,3±1,1 12 100,2±1,4 131,2±1,1 102,2±1,2
24 12 105,8±1,8 147,9±1,3 108,9±1,4 12 107,4±1,6 143,2±1,3 108,1±1,3
36 12 111,9±1,9 158,5±1,4 113,2±1,9 14 112,2±1,7 152,0±1,4 113,7±1,3
48 24 114,3±2,1 165,5±1,7 118,6±1,7 32 113,9±1,9 159,2±1,6 118,4±1,7
60 23 122,2±2,0 181,5±1,8 128,9±2,1 104 118,2±1,7 175,4±1,9 126,9±1,7
Bảng 3. Tuổi đẻ lứa đầu và khoảng cách hai lứa đẻ của bò H’Mông
TT Chỉ tiêu khảo sát
Số bò khảo
sát (con)
Kết quả khảo sát
ĐVT X ± SD
1 Tuổi đẻ lứa đầu 60 Tháng 32,70 ± 3,10
2 Số bò đẻ lứa đầu dƣới 31 tháng 18 Tháng 28,80 ± 0,90
3 Tỷ lệ bò đẻ lứa đầu dƣới 31 tháng % 30,00
4 Khoảng cách lứa đẻ 60 Tháng 16,10 ± 1,30
5 Số bò có KCLĐ dƣới 15 tháng 20 Tháng 14,6 ± 0,60
6 Tỷ lệ có KCLĐ dƣới 15 tháng % 33,30
Số liệu trình bày tại bảng trên cho thấy: Đa số bò cái ở đây có tuổi đẻ lứa đầu trên 31 tháng tuổi,
chỉ có 30,0% đẻ dƣới 31 tháng. Bò có khoảng cách 2 lứa đẻ trên 15 tháng (chỉ có 33,3% có
khoảng cách lứa đẻ dƣới 15 tháng). Tuổi bắt đầu phối giống của bò H'Mông từ 20 - 22 tháng tuổi,
tƣơng đƣơng số liệu của nghiên cứu này [6]. Nghiên cứu một số đặc điểm sinh sản trên bò
H'Mông ở Đồng Văn cho thấy tuổi đẻ lứa đầu 33,4 tháng; khoảng cách lứa đẻ 17,2 tháng [18].
Khi so sánh với bò Brahman nuôi tại Thành Phố Hồ Chí Minh thì thấy tuổi đẻ lứa đầu là 38,3
tháng (biến động từ 35 đến 49,5 tháng) là dài hơn so với bò H’Mông [17].
Khối lượng, kích thước cơ thể đàn bê sinh ra
Bảng 4. Khối lượng cơ thể bê qua các tháng tuổi (kg)
Tháng tuổi Tính biệt
Lô TN Lô ĐC
n X ± SD n X ± SD
Sơ sinh
Đực 12 20,9 a 0,9 12 19,1b 0,7
Cái 12 19,8
a
0,8 12 18,4
b
0,6
3 tháng Đực 12 51,8 a 1,7 12 48,3 b 0,9
Cái 12 49,6
a
1,3 12 46,5
b
1,9
6 tháng Đực 12 82,1 a 2,3 12 75,9 b 2,1
Cái 12 80,1
a
2,4 12 74,1
b
1,7
* Ghi chú: Trong cùng một hàng nếu các số trung bình giữa các lô có các chữ cái ký hiệu khác nhau thì
khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,05)
Trần Huê Viên và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 115(01): 123 - 130
126
Khối lƣợng sơ sinh là một tính trạng chịu ảnh
hƣởng di truyền của phẩm giống, các giống
khác nhau có khối lƣợng sơ sinh khác nhau,
hệ số di truyền của tính trạng này cao (h2 =
0,34 - 0,41) [12]. Bò đƣợc nuôi trong nông hộ
và điều kiện nuôi dƣỡng chăm sóc bò mẹ
trong giai đoạn mang thai là nhƣ nhau nhƣng
khối lƣợng sơ sinh lại khác nhau giữa lô TN
và lô ĐC điều đó cho thấy ảnh hƣởng của bò
đực giống cho kết quả rất rõ rệt với độ tin cậy
(P<0,05). Qua các tháng tuổi từ sơ sinh cho
đến 6 tháng tuổi, bê thí nghiệm có khối lƣợng
cơ thể luôn cao hơn so với đối chứng
(P<0,05), bê càng lớn thì khác biệt càng thể
hiện rõ ràng hơn đã cho thấy ảnh hƣởng rõ rệt
của khối lƣợng bò bố, mẹ đến khối lƣợng và
sinh trƣởng của đời con.
So sánh với kết quả nghiên cứu trƣớc cho
thấy khối lƣợng sơ sinh của bò H’Mông trong
nghiên cứu này tƣơng tự bò Vàng, bò Lai
Sind và nhỏ hơn so với các nhóm bò lai
chuyên dụng thịt đã công bố trƣớc đây [4], F1
(Zebu×Bò Vàng) có khối lƣợng sơ sinh 18,10
- 19,01 kg; Bò Lai Sind nuôi tại Đắk Lắk có
khối lƣợng sơ sinh là 19,2 kg [3]; Nghiên cứu
trên các nhóm bò lai tại huyện Ea Kar, tỉnh
Đắk Lắk cho biết khối lƣợng sơ sinh của bò
Lai Sind ở con đực là 18,9 kg và con cái là
16,8 kg; lai ½ Charolais là 23,9 kg ở con đực
và 21,6 kg ở con cái [2]; Vũ Văn Nội (1994)
[7] cho biết, F1 Zebu; F1 Charolais; F1
Brown Swiss có khối lƣợng sơ sinh tƣơng
ứng 20,5; 21,5 và 21,7 kg; F1 Charolais; F1
Hereford; F1 Simmental và Lai Sind có khối
lƣợng sơ sinh tƣơng ứng 20,25; 20,06 và
19,78 kg [8]; Nghiên cứu trên bò F1 Brahman
và F2 ¾ Brahman cho kết quả tƣơng ứng 21,2
kg và 20,8 kg [15]; Khối lƣợng bê Drought
Master cho kết quả từ 19,9 kg đến 27,2 kg
[1]; Kết quả khối lƣợng sơ sinh của bê
Brahman và bê Droughtmaster là 21,6 và
20,7 kg [17]).
Khi đánh giá tầm vóc của gia súc ngƣời ta
thƣờng đánh giá thông qua hai chỉ tiêu: khối
lƣợng và kích thƣớc các chiều đo cơ thể.
Trong tất cả các giai đoạn tuổi, chiều đo cao
vây của bê đực hơn cao vây của bê cái, tuy
nhiên sự khác biệt này là không có ý nghĩa
thống kê ở cả hai lô thí nghiệm và đối chứng
(P>0,05). Lúc sơ sinh, 3 tháng, 6 tháng tuổi
vòng ngực bê lô thí nghiệm luôn lớn hơn bê
lô đối chứng ở mọi lứa tuổi, tuy nhiên sự khác
biệt này là không có ý nghĩa thống kê
(P>0,05).
Ảnh hưởng của khối lượng bò bố, bò mẹ đến
khối lượng con sinh ra
Nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu những ảnh
hƣởng và các mối quan hệ giữa khối lƣợng
của bố mẹ với khối lƣợng sơ sinh và tốc độ
sinh trƣởng của bê đã khẳng định có sự tƣơng
quan thuận giữa khối lƣợng sơ sinh và khối
lƣợng cơ thể của bố mẹ. Kết quả thí nghiệm
này cho thấy: Khối lƣợng của bò đực bố và bò
cái mẹ ảnh hƣởng rất rõ đối với khối lƣợng
đàn con. Sự chênh lệch về khối lƣợng sơ sinh
của bê sinh ra giữa bò bố khối lƣợng to và bò
mẹ tuyển chọn so với bê sinh ra giữa bò bố
đại trà và bò mẹ đại trà là có ý nghĩa thống kê
(20,3 kg so với 18,7 kg, P<0,05). Khối lƣợng
bê ở giai đoạn sinh trƣởng sau cũng bị ảnh
hƣởng tƣơng tự.
Bảng 5. Ảnh hưởng của khối lượng bò bố, mẹ đến khối lượng con sinh ra
Nội dung
KL bò bố, mẹ
(kg)
Khối lƣợng bê con sinh ra (kg)
Sơ sinh
(n=24)
3 tháng
(n=24)
6 tháng
(n=24)
Bò bố tuyển chọn (n= 3) 421,00 ± 5,40
20,3
a
± 1,0 50,7
a
± 1,9 81,1
a
± 2,5
Bò mẹ tuyển chọn (n= 24) 353,80 ± 11,50
Bò bố đại trà (n= 3) 342,60 ± 4,00
18,7
b
±0,7 47,5
b
± 1,7 75,1
b
± 2,1
Bò mẹ đại trà (n= 24) 284,04 ± 7,30
* Ghi chú: Trong cùng một cột nếu các số trung bình có các chữ cái ký hiệu khác nhau thì có ý nghĩa
thống kê (P<0,05)
Trần Huê Viên và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 115(01): 123 - 130
127
Bảng 6. Phương trình hồi quy giữa khối lượng bê con và khối lượng bò bố
Tháng tuổi của bê con n Phƣơng trình
Hệ số xác định
(R
2
)
P
Sơ sinh 48 Y= 11,5 + 0,0209*X 0,47 <0,001
3 tháng 48 Y= 36,0 + 0,0348*X 0,41 <0,001
6 tháng 48 Y= 49,9 + 0,0740*X 0,59 <0,001
Chú thích: Y là khối lượng bê các tháng tuổi, X là khối lượng bò bố, P là mức xác suất tin cậy của phương
trình hồi quy.
Bảng 7. Phương trình hồi quy giữa khối lượng bê con và khối lượng bò mẹ
Tháng tuổi
của bê con
n Phƣơng trình Hệ số xác định (R2) P
Sơ sinh 48 Y= 12,6 + 0,0216*X 0,42 <0,001
3 tháng 48 Y= 37,7 + 0,0363*X 0,37 <0,001
6 tháng 48 Y= 52,2 + 0,0812*X 0,59 <0,001
Chú thích: Y là khối lượng bê các tháng tuổi, X là khối lượng bò mẹ, P là mức xác suất tin cậy của phương
trình hồi quy.
Bảng 8. Phương trình hồi quy giữa khối lượng bê sơ sinh và khối lượng bê
các giai đoạn sinh trưởng sau
Tháng tuổi
của bê con
n Phƣơng trình
Hệ số xác định (R2)
P
3 tháng 48 Y= 26,6 + 1,17*X 0,42 <0,001
6 tháng 48 Y= 41,6 + 1,87*X 0,35 <0,001
Chú thích: Y là khối lượng bê các tháng tuổi sau, X là khối lượng bê sơ sinh, P là mức xác suất tin cậy của
phương trình hồi quy.
Có thể giải thích do sự khác biệt về khối
lƣợng giữa bò đực giống bố khối lƣợng to với
bò đực giống đại trà địa phƣơng là rất lớn lớn
(421,0 kg so với 342,6 kg) đã làm ảnh hƣởng
đến khối lƣợng đàn bê sinh ra lớn hơn và rõ
ràng hơn. Đối với đàn bò cái, sự khác biệt về
khối lƣợng giữa bò cái tuyển chọn với bò cái
đại trà cũng khá lớn (353,8 kg và 284,0 kg)
nên cũng ảnh hƣởng đến khối lƣợng đàn bê
sinh ra. Kết quả này cho ta thấy: Ảnh hƣởng
của bò bố khối lƣợng to và tuyển chọn bò mẹ
đến cải thiện đƣợc khối lƣợng sơ sinh và sinh
trƣởng của bê sinh ra là khá rõ ràng. Khi
nghiên cứu về sinh trƣởng của nghé thấy rằng
khối lƣợng sơ sinh có tƣơng quan thuận với
khối lƣợng trâu mẹ, tính trên 65 lứa đẻ, hệ số
tƣơng quan giữa khối lƣợng mẹ và khối lƣợng
sơ sinh (r = 0,71) [11]. Nghiên cứu các yếu tố
ảnh hƣởng đến khối lƣợng và sinh trƣởng của
bê báo cáo rằng khối lƣợng của bê bị ảnh
hƣởng bởi khối lƣợng bò đực bố và tính biệt
của bê đặc biệt là khối lƣợng bê sơ sinh [20].
Phương trình hồi quy giữa khối lượng bê và
khối lượng bò bố, khối lượng bò mẹ
Qua các phƣơng trình hồi quy giữa khối
lƣợng bê con và khối lƣợng bò bố cho thấy:
Khối lƣợng các mốc tuổi của bê sinh ra và
khối lƣợng bò bố cùng chiều và chặt chẽ (hệ
số xác định R2 từ 0,41 - 0,59 và giá trị
P<0,001). Điều này khẳng định về ảnh hƣởng
của khối lƣợng bò bố đến khối lƣợng sơ sinh
và sinh trƣởng của đời con là khá lớn. Căn cứ
vào các phƣơng trình trên, có thể ƣớc tính
khối lƣợng bê các giai đoạn tuổi sau này giúp
công tác chọn lọc, cải tạo giống để nâng cao
tầm vóc của đàn bò địa phƣơng.
Nghiên cứu trên đàn trâu nội tại các địa
phƣơng Ba Vì, Hà Nội và Thanh Chƣơng,
Nghệ An cũng cho thấy có mối quan hệ thuận
chiều và khá chặt chẽ giữa khối lƣợng nghé ở
các mốc tuổi với khối lƣợng của trâu bố [10].
Khi sử dụng trâu đực giống khối lƣợng lớn
cải tạo tầm vóc đàn trâu địa phƣơng tại tỉnh
Thanh Hóa cũng cho thấy giữa khối lƣợng
nghé ở các mốc tuổi sơ sinh tới 12 tháng tuổi
Trần Huê Viên và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 115(01): 123 - 130
128
có mối quan hệ thuận chiều và khá chặt chẽ
với hệ số xác định là 0,46 - 0,85 [9].
Phƣơng trình hồi quy giữa về khối lƣợng bê
con và khối lƣợng bò mẹ cũng tƣơng tự giống
nhƣ đối với bò bố. Khối lƣợng các mốc tuổi
của bê sinh ra và khối lƣợng bò mẹ cũng cùng
chiều và khá chặt chẽ (hệ số xác định R2 từ
0,37 - 0,59 và giá trị P<0,005). Điều này cũng
thể hiện ảnh hƣởng của khối lƣợng bò mẹ đến
khối lƣợng sơ sinh và sinh trƣởng của đời con
là rõ ràng. Căn cứ vào các phƣơng trình trên,
ngƣời ta cũng có thể ƣớc tính khối lƣợng bê
các mốc tuổi dựa vào khối lƣợng của mẹ
chúng, điều này giúp cho chăn nuôi thấy rõ
vai trò của bò mẹ và thƣờng xuyên tiến hành
chọn lọc đàn bò cái sinh sản ở địa phƣơng kết
hợp với việc tuyển chọn bò đực khối lƣợng lớn
trong công tác cải tạo giống để nâng cao tầm
vóc của đàn bò nhỏ con ở địa phƣơng mình.
Theo Hoàng Văn Phúc (2012) [9] khi chọn
lọc đàn trâu cái sinh sản khối lƣợng to làm
giống ở Thanh Hóa cũng thấy rằng giữa khối
lƣợng nghé ở các mốc tuổi sơ sinh tới 12
tháng tuổi với khối lƣợng của trâu mẹ mối
quan hệ thuận chiều và khá chặt chẽ với hệ số
xác định 0,40 - 0,80. Nghiên cứu trên đàn trâu
nội tại các địa phƣơng Ba Vì, Hà Nội và
Thanh Chƣơng, Nghệ An cũng cho thấy có
mối quan hệ thuận chiều và khá chặt chẽ giữa
khối lƣợng nghé ở tất cả các giai đoạn tuổi
với khối lƣợng của trâu mẹ [10].
Phƣơng trình hồi quy giữa khối lƣợng bê sơ
sinh và khối lƣợng bê ở các giai đoạn sinh
trƣởng cho thấy: Giữa khối lƣợng của bê sơ
sinh và khối lƣợng bê các giai đoạn sinh
trƣởng sau cũng có mối quan hệ thuận và chặt
chẽ (P<0,001). Điều này cho thấy khối lƣợng
bê sơ sinh ảnh có hƣởng lớn đến khối lƣợng
và tốc độ sinh trƣởng các giai đoạn sau. Kết
quả xu hƣớng này cũng tƣơng tự nhƣ kết luận
của Hoàng Văn Phúc (2012) [9], khi nghiên
cứu trên đàn trâu nội địa phƣơng ở Thanh
Hóa hay nghiên cứu trên đàn trâu nội tại các
địa phƣơng Ba Vì, Hà Nội và Thanh Chƣơng,
Nghệ An [10].
KẾT LUẬN
Với tổng số 352 bò điều tra cho thấy: Bò
H'Mông có tầm vóc khá lớn, khối lƣợng bò
đực trƣởng thành đạt 363 kg/con, bò cái là
298 kg/con. Bò có tuổi đẻ lứa đầu trên 2,5
năm, khoảng cách giữa hai lứa đẻ 16 tháng.
Việc chọn lọc bò đực khối lƣợng lớn phối với
bò cái khối lƣợng lớn đã nâng cao khối lƣợng
sơ sinh và tốc độ sinh trƣởng của bê. Qua các
tháng tuổi từ sơ sinh cho đến 6 tháng tuổi, bê
thí nghiệm có khối lƣợng cơ thể luôn luôn cao
hơn so với đối chứng (P<0,05), bê càng lớn
thì khác biệt càng thể hiện rõ ràng hơn đã cho
thấy ảnh hƣởng rõ rệt của khối lƣợng bò bố,
mẹ đến khối lƣợng và sinh trƣởng của đời
con. Kết quả cụ thể là 20,3 kg và 81,1 kg/con
so với 18,7 kg và 75,1 kg/con của nhóm đối
chứng (P≤ 0,05). Phƣơng trình hồi quy giữa
khối lƣợng bò bố, mẹ với khối lƣợng sơ sinh,
khối lƣợng 3; 6 tháng tuổi của bê có hệ số xác
định R2 nằm trong khoảng 0,37 - 0,59 với độ
tin cậy P≤ 0,001.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Văn Cải (2006), Kết quả nghiên cứu nhân
thuần giống bò thịt Drought Master nhập nội nuôi
tại một số tỉnh phía Nam, Tạp chí Chăn nuôi, số 1,
tr. 9 - 13.
2. Vũ Chí Cƣơng (2007), Nghiên cứu ứng dụng
các giải pháp khoa học công nghệ nhằm phát triển
chăn nuôi bò thịt và xác định một số bệnh nguy
hiểm đối với bò để xây dựng biện pháp phòng dịch
bệnh ở Tây Nguyên. Viện Chăn nuôi, Báo cáo tổng
kết khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
3. Phạm Thế Huệ (2010), Khả năng sinh trưởng,
sản xuất thịt của bò Lai Sind, F1 (Brahman × Lai
Sind) và F1 (Charolais × Lai Sind) nuôi tại Đăk
Lăk, Luận án Tiến Sỹ Nông nghiệp, Trƣờng Đại
học Nông nghiệp, Hà Nội.
4. Lê Quang Nghiệp (1984), Một số đặc điểm
chung về sinh trưởng, cày kéo, cho thịt của bò
vàng Thanh Hóa và kết quả lai với bò Zebu, Luận
án Phó Tiến sỹ Nông nghiệp.
5. Đào Lan Nhi (2012), Đa dạng sinh học và bảo
tồn nguồn gen. Dự án GEF SGP Trung tâm đa
dạng và an toàn sinh học.
6. Nguyễn Văn Niêm, Đỗ Hữu Hoan, Lƣu Công
Khánh, Đỗ Xuân Cổn (1999), Một số đặc điểm
sinh học, khả năng sản xuất và phát triển chăn nuôi
của giống bò vùng cao Hà Giang tại các tỉnh vùng
núi phía bắc, Báo cáo khoa học Viện Chăn nuôi.
Trần Huê Viên và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 115(01): 123 - 130
129
7. Vũ Văn Nội (1994), Nghiên cứu khả năng
sản xuất thịt của đàn bò Lai Sind, bò lai kinh tế
hướng thịt trên nền bò Lai Sind ở một số tỉnh
miền Trung, Luận án Phó Tiến sỹ KHNN, Viện
Chăn nuôi, Hà Nội.
8. Phạm Văn Quyến (2001), Khảo sát khả năng
sinh trưởng, phát triển của một số nhóm bò lai
hướng thịt tại trung tâm nghiên cứu thực nghiệm
chăn nuôi Sông Bé, Luận văn Thạc sỹ KHNN.
9. Hoàng Văn Phúc (2012), Đánh giá hiện trạng
và sử dụng trâu đực giống khối lượng lớn cải tạo
tầm vóc đàn trâu địa phương tại tỉnh Thanh Hóa,
Luận văn Thạc sĩ khoa học nông nghiệp, Đại học
Nông nghiệp Hà Nội.
10. Mai Văn Sánh (2006), Sử dụng trâu đực giống
ngoại hình to nâng cao tầm vóc và khả năng sản
xuất trâu địa phương, Báo cáo tổng kết đề tài
trong điểm cấp ngành, Viện Chăn nuôi.
11. Nguyễn Đức Thạc (1983), Một số đặc điểm về
sinh trưởng, cho thịt sữa của loại hình trâu to
miền Bắc và khả năng cải tạo nó với trâu Murrah,
Luận án PTS khoa học NN.
12. Nguyễn Văn Thiện (1995), Di truyền học số
lượng ứng dụng trong chăn nuôi, Nhà xuất bản
Nông nghiệp, Hà Nội.
13. Nguyễn Thị Thoa (2011), Nghiên cứu một số
biện pháp khoa học và công nghệ để phục hồi và
phát triển đàn bò của đồng bào Mông tỉnh Bắc
Kạn, Báo cáo tổng hợp đề tài KHCN 2008 - 2011.
14. Nguyễn Đàm Thuyên (2012), Nghiên cứu một
số đặc điểm sinh trưởng và khả năng sản xuất thịt
của bò H’Mông nuôi tại huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà
Giang, Luận văn Thạc sĩ KHNN, Đại học Nông
lâm Thái Nguyên.
15. Hoàng Văn Trƣờng (2001), Kết quả nghiên
cứu khả năng sinh trưởng, sinh sản của bò lai
Brahman nuôi tại tỉnh Bình Định. Báo cáo khoa
học Chăn nuôi Thú y, TP Hồ Chí Minh. 4/2001.
16. Hoàng Xuân Trƣờng (2010), Một số giải pháp
phát triển chăn nuôi bò H’mông tại vùng cao
huyện Hà Quảng tỉnh Cao Bằng. Luận văn Thạc sĩ
KHNN, Đại học Nông nghiệp, Hà Nội.
17. Đinh Văn Tuyền, Nguyễn Quốc Đạt, Nguyễn
Văn Hùng và Nguyễn Thanh Bình (2008), Một số
chỉ tiêu sinh sản của bò Brahman và Drought
Master ngoại nhập 3 lứa đầu nuôi tại thành phố
Hồ Chí Minh và khả năng sinh trưởng của bò sinh
ra từ chúng, Viện Chăn nuôi, Tạp chí Khoa học
Công nghệ chăn nuôi, số 15, tr. 16-23.
18. Trần Huê Viên, Nguyễn Hƣng Quang, Phan
Đình Thắm, Trần Xuân Vũ, Trịnh Văn Bình
(2013), Kết quả nghiên cứu một số đặc điểm sinh
sản của bò Mông nuôi tại huyện Đồng Văn, Hà
Giang, Tạp chí Nông nghiệp và PTNT, tháng 5
năm 2013, trang 146-150.
19. Trần Xuân Vũ (2012), Nghiên cứu một số đặc
điểm sinh sản của bò H’Mông nuôi tại huyện
Đồng Văn tỉnh Hà Giang, Luận văn Thạc sĩ khoa
học nông nghiệp, Đại học Nông lâm Thái Nguyên.
20. Topanurak, S.; J. Intaramongkol, P.
Ratanapunna, S. Intaramongkol, S. Tumwasorn
and C. Chatalakhana (1991), Factors affecting
growth performance in Thai swamp buffalo. Annual
report. The national buffalo research and
development project, Bangkok, Thailand, pp 17-23
Trần Huê Viên và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 115(01): 123 - 130
130
SUMMARY
EFFECTS OF H’MONG CATTLE PARENT BREED SELECTION
TO GROWTH OF THE SECOND GENERATION
IN DONG VAN DISTRICT, HA GIANG PROVINCE
Tran Hue Vien
1*
, Nguyen Hung Quang
1
,
Pham Duy Hien
2
, Nguyen Huu Cuong
3
1College of Agriculture and Forestry – TNU,
2Ha Giang Department of Plan and Investment, 3Ministry of Science and Technology
The study focused on three main points. The first content was selection and classification of
H’Mong cattle herds raised in 150 households in Dong Van district, Ha Giang province. The
second part was assessment on growth ability of calves from selected parents. Finally, based on
monitoring results of the second generation calves, effects of breed selection to the following
generations were evaluated using generalized linear models (GLM) and regression equations.
Findings revealed that H’Mong cattle were heavily muscled; mature cattle reached 298 kg/head for
female and up to 363 kg/head for male. At the age of over 2.5 years, they could produce their first
calf; and the time between two parities was 16 months. The selection of heavy parents improved
body weight and growth rate of calves. Calf weight (kg/head) of selected parents was always
higher than that of the control group at both newborn and 6-month stages with specific results of
20.3 kg and 81.1 kg/head compared with 18.7 kg and 75.1 kg/head of the control group (P ≤ 0.05)
respectively. The regression equation between the body weight of parents with that of newborn, 3
and 6 month-old calves had coefficient of determination R
2
ranging from 0.37 to 0.59 (P ≤ 0.001).
Key words: H’Mong, Ha Giang, Growth rate, Selection, Regression equation
Ngày nhận bài:04/12/2013; Ngày phản biện:18/12/2013; Ngày duyệt đăng: 07/02/2014
Phản biện khoa học: TS. Trần Văn Tường – Đại học Thái Nguyên
*
Tel: 0912 130444, Email: tranhuevien@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_42027_45874_46201410105518_0234_2048618.pdf