Ở nghiệm thức LF, tỉ lệ AP/leu-ala tăng
khoảng 2 lần từ 23 dph đến 26 dph và sau
đó giảm dần, mặc dù không có sự khác biệt
giữa các ngày lấy mẫu (Hình 4a; P > 0,05). Ở
nghiệm thức L-MD, tỉ lệ AP/leu-ala tăng 3 lần từ
26 dph đến 30 dph (P < 0,05). Tỉ lệ AP/leu-ala
ở nghiệm thức LF cao hơn ở nghiệm thức
L-MD ở 23 dph và 26 dph, nhưng thấp hơn ở
30 dph và 33 dph (p < 0,05). Sự thay đổi về tỉ
lệ LAP/leu-ala tương tự như AP/leu-ala nhưng
không sai khác có ý nghĩa thống kê trong cùng
một nghiệm thức (Hình 4b; P > 0,05). Tuy
nhiên, tỉ lệ LAP/leu-ala ở nghiệm thức LF cao
hơn L-DM ở 26 dph (P < 0,05). Kết quả này
nghiên cứu này cũng cho thấy sử dụng enzym
AP là chỉ dấu đánh giá quá trình trưởng thành
của ruột ấu trùng cá giò tốt hơn enzym LAP.
Quá trình trưởng thành điển hình của ruột
ấu trùng cá đặc trưng bởi sự giảm dần hoạt
độ enzym nội bào leu-ala của tế bào ruột đồng
thời với sự gia tăng hoạt độ enzym của màng
thành ruột (bbm AP, LAP) đã được báo cáo
ở một số loài cá biển (Zambonino-Infante và
Cahu, 2001; Zouiten và cs, 2008). Trong thí
nghiệm này, sự gia tăng hoạt độ của enzym
bbm AP giữa 23-26 dph ở nghiệm thức LF và
giữa 26-30 dph ở nghiệm thức L-MD chỉ ra
rằng thời điểm ruột phát triển đầy đủ ấu cá giò
ở nghiệm thức LF là 26 dph và L-MD là 30 dph,
cũng trùng với thời điểm enzym leu-ala giảm
thấp so với ấu trùng cá ở giai đoạn 7-17 dph.
Chỉ số trưởng thành của ruột được xác định
bởi tỉ lệ giữa bbm AP/leu-ala và bbm LAP/leu-ala
thường được dùng để đánh giá quá trình phát
triển đầy đủ của ruột ấu trùng cá, và sự gia
tăng rõ rệt ở chỉ số này thể hiện sự trưởng
thành của ruột ấu trùng nhiều loài cá [3], [8],
[10], [12]. Trong thí nghiệm này, sự gia tăng
tỉ lệ bbm AP/leu-ala thể hiện rõ nét ở nghiệm
thức L-MD (26-30 dph). Tỉ lệ bbm AP/leu-ala ở
nghiệm thức LF cao hơn L-MD ở 23 dph và 26
dph chỉ ra rằng ấu trùng cá giò ở nghiệm thức
LF đạt mức trưởng thành của ruột sớm hơn so
với ấu trùng ở nghiệm thức L-MD. Tuy nhiên,
hoạt tính chuyên biệt của enzym bbm AP và
tỉ lệ bbm AP/leu-ala ở nghiệm thức L-MD đều
cao hơn nghiệm thức LF từ 30 dph trở đi gợi
ý rằng việc ương ấu trùng bằng thức ăn sống
(artemia) kéo dài (sau 26 dph) có thể làm giảm
hoạt tính của enzym tiêu hóa ở ruột ấu trùng cá
giò so với ấu trùng sử dụng thức ăn tổng hợp.
IV. KẾT LUẬN
Kết quả thí nghiệm cho thấy tất cả các
enzym được sản sinh từ ruột cá đều được phát
hiện từ khi cá bắt đầu sử dụng thức ăn ngoài
lúc 2 ngày tuổi và hoạt tính của các enzym
tăng theo sự tăng trưởng của ấu trùng cá. Ấu
trùng cá giò sử dụng thức ăn tổng hợp sớm
(17 dph) làm giảm tỉ lệ sống và sự phát triển
đầy đủ của ruột muộn hơn so với ấu trùng sử
dụng thức ăn sống hoàn toàn. Tuy nhiên, việc
kéo dài sử dụng thức ăn sống (sau 26 dph) có
thể làm giảm hoạt tính của enzym tiêu hóa ở
ruột cá so với cá sử dụng thức ăn tổng hợp.
7 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 555 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của chế độ cho ăn đến hoạt động enzym tiêu hóa ở ấu trùng cá giò (Rachycentron canadum Linnaeus, 1766) - Nguyễn Quang Huy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
42 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2017
ẢNH HƯỞNG CỦA CHẾ ĐỘ CHO ĂN ĐẾN HOẠT ĐỘNG ENZYM
TIÊU HÓA Ở ẤU TRÙNG CÁ GIÒ (Rachycentron canadum Linnaeus, 1766)
EFECTS OF FEEDING REGIME ON ACTIVITY OF INTESTINAL DIGESTIVE
ENZYMES IN COBIA (Rachycentron canadum Linnaeus, 1766) LARVAE
Nguyễn Quang Huy1, Elin Kjørsvik2
Ngày nhận bài: 30/7/2017; Ngày phản biện thông qua: 11/8/2017; Ngày duyệt đăng: 25/9/2017
TÓM TẮT
Enzym từ ruột ấu trùng cá giò gồm alkaline phosphatase (AP), leucine aminopeptidase (LAP) và
leucine-alanine peptidase (leu-ala) xuất hiện ngay từ khi ấu trùng ăn thức ăn ngoài (2 ngày tuổi) và hoạt tính
của chúng tăng mạnh cùng với sự tăng trưởng của cá. Hoạt tính chuyên biệt (specifi c activity) của enzym màng
thành ruột (bbm) AP tăng từ ngày 23 đến 26 ngày tuổi ở cá sử dụng hoàn toàn thức ăn sống (LF) (P < 0,05)
và tăng từ 26 đến 30 ngày tuổi (P < 0,05) ở cá sử dụng thức ăn công nghiệp (L-MD) từ 17 ngày tuổi. Sự thay
đổi về hoạt tính chuyên biệt của enzym bbm LAP có xu hướng tăng tương tự như bbm AP nhưng không sai khác
trong cùng một nghiệm thức (P> 0,05). Chỉ số trưởng thành (chỉ số phát triển đầy đủ) của ruột ấu trùng cá (gut
maturation index), là tỉ lệ giữa hoạt tính cá thể (individual activity) của enzym màng thành ruột bbm AP hoặc
bbm LAP với enzym nội bào leu-ala, tăng lên cùng với gia tăng hoạt tính của enzym bbm AP ở mỗi nghiệm
thức. Kết quả thí nghiệm này cho thấy ruột ấu trùng cá giò trưởng thành ở 26 ngày tuổi tại nghiệm thức LF
và muộn hơn ở 30 ngày tuổi tại nghiệm thức L-MD. Ấu trùng cá sử dụng thức ăn công nghiệp từ 17 ngày tuổi
giảm chỉ số trưởng thành của ruột và tỉ lệ sống của cá ở nghiệm thức L-MD so với cá ở nghiệm thức LF.
Từ khóa: Cá giò, Rachycentron canadum, alkaline phosphatase, leucine aminopeptidase, leucine-alanine
peptidase
ABSTRACT
Intestinal enzymes of cobia larvae including alkaline phosphatase (AP), leucine aminopeptidase (LAP)
and leucine-alanine peptidase (leu-ala) were detected at fi rst feeding and increased exponentially with larval
growth. Specifi c activity of brush border memberane (bbm) AP increased from 23 to 26 days post hatch (dph)
in larvae fed exclusively live feed (LF) (P < 0.05), and increased from 26 to 30 dph (P < 0.05) in larve co-fed
with micro diet (L-MD) from 17 dph. The specifi c activity of bbm LAP had the same trend as for bbm but no
signifi cance was detected within each treatment (P> 0.05). Gut maturation index, defi ned as ratio of individual
activity of bmm AP or bbm LAP and cytosolic enzyme leu-la, increased as incensement in activity of bbm AP in
each treatment. This study showed that maturation of larval intestine occurred on 26 dph in the LF, and later
on 30 dph in the L-MD treatment. Weaning cobia larvae from 17 dph delayed gut maturation and associated
with a lower survival compared to those fed live feed.
Keywords: Cobia, Rachycentron canadum, Alkaline phosphatase, Leucine aminopeptidase,
Leucine-alanine peptidase
1 Viện Nghiên cứu nuôi trồng Thủy sản 1, Email : nguyen.huy@ria1.org
2 Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Nauy
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 43
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cá giò Rachycentron canadum là loài cá
rất thích hợp cho phát triển nuôi biển, do chúng
có tốc độ tăng trưởng nhanh, giá trị thương
phẩm cao [1], [7], [9].Tuy nhiên, sản xuất giống
cá giò ổn định về chất lượng và sản lượng để
phục vụ nuôi thương phẩm vẫn còn là vấn đề.
Trong hệ thống sản xuất giống thâm canh, Holt
và cs (2007) cho rằng có thể nâng cao tỉ lệ
sống và tăng trưởng của ấu trùng cá giò nếu có
thể luyện chúng sử dụng thức ăn công nghiệp
sớm để thay thế Artemia. Dạ dày của ấu trùng
cá giò đã bắt đầu hình thành và hoạt động
chức năng trong khoảng 12 đến 20 ngày tuổi.
Hoạt tính của enzym tiêu hóa tuyến tụy cũng
tăng trong thời gian này, gợi ý rằng ấu trùng
cá có thể sử dụng thức ăn công nghiệp ở thời
điểm này [5]. Tuy nhiên, khả năng tiêu hóa của
ấu trùng cá giò không chỉ phụ thuộc vào phát
triển của dạ dày mà còn phụ thuộc vào quá
trình trưởng thành của tế bào ruột enterocytes
(intestinal cells). Quá trình trưởng thành của tế
bào ruột được xác định khi ấu trùng cá chuyển
từ hình thức tiêu hóa của ấu trùng sang hình
thức tiêu hóa của cá trưởng thành [11]. Ở ấu
trùng cá, quá trình phát triển đầy đủ của ruột cá
dường như xảy ra trong khoảng thời gian ngắn,
đặc trưng bởi gia tăng đột ngột về hoạt tính
chuyên biệt (specifi c activity) của enzym màng
tế bào ruột (brush boder membrane, bbm) như
enzym alkaline phosphatase (AP) và leucine
aminopeptidase (LAP), trùng với quá trình
giảm hoạt tính liên tục theo thời gian của các
enzym nội bào ở tế bào ruột là leucine-alanine
peptidase (leu-ala). Quá trình trưởng thành này
chịu ảnh hưởng bởi thành phần dinh dưỡng
trong thức ăn của ấu trùng cá [11]. Từ trước
đến nay chưa có nghiên cứu nào về phát triển
enzym ở ruột ấu trùng cá giò. Hiểu biết tốt hơn
về sinh lý tiêu hóa của ấu trùng cá giò là yếu tố
quan trọng để hiểu nhu cầu dinh dưỡng và khả
năng tiêu hóa của cá khi sử dụng thức ăn tổng
hợp. Trong nghiên cứu này chúng tôi tìm hiểu
sự phát triển ba enzyme trong ruột ấu trùng cá
giò là AP, LAP and leu-ala, đồng thời đánh giá
ảnh hưởng của việc sử dụng thức ăn tổng hợp
sớm từ 17 ngày tuổi (dph) đến quá trình trưởng
thành ruột ấu trùng cá giò.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Vật liệu, địa điểm và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trên ấu trùng
cá giò (Rachycentron canadum), giai đoạn
từ 0 đến 33 ngày tuổi. Thí nghiệm được thực
hiện tại Phân viện Nghiên cứu nuôi trồng Thủy
sản Bắc Trung bộ, thị xã Cửa Lò, Nghệ An.
Phân tích enzym được tiến hành tại phòng thí
nghiệm của Đại học Khoa học và Công nghệ
Nauy, Trondheim, Nauy. Thời gian tiến hành thí
nghiệm từ 4/2008-12/2009.
2. Bố trí thí nghiệm
Ấu trùng cá giò được ấp nở từ trứng thụ
tinh của cùng 1 cá giò mẹ bằng phương pháp
cho đẻ tự nhiên trong bể (72 m3). Ấu trùng cá
giò được ương nuôi trong hai bể composite
500 L đáy chóp. Mật độ nuôi ban đầu là 45 ấu
trùng/L. Trong bể thứ nhất (nghiệm thức LF),
ấu trùng được cho ăn rotifer làm giàu từ khi
mới mới miệng (2 ngày tuổi) đến ngày thứ 12
(3 - 8 rotifer/mL, 2 lần/ngày), và nauplius artemia
Vĩnh Châu Artemia franciscana (AF) từ 7 - 8
ngày tuổi (dph), sau đó là nauplii artemia Great
Salt Lake (EG) A. franciscana (INVE Thailand
Ltd., Thái Lan) cho đến khi kết thúc thí nghiệm
vào 33 ngày tuổi (mật độ cho ăn 1 - 3 con/mL,
1 - 4 lần/ngày). Ở bể thứ 2 (nghiệm thức L-MD),
ấu trùng được nuôi với chế độ cho ăn tương
tự như bể thứ nhất đến 17 dph. Từ thời điểm
này chúng được cho ăn kết hợp với thức ăn
44 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2017
tổng hợp Otohime microdiet (Marubeni Nisshin
Feed Co. Ltd, Indonesia) cỡ từ 200 - 900 µm
trong 10 ngày, sau đó chỉ cho ăn thức ăn tổng
hợp đến 33 dph. Trong quá trình ương, vi tảo
biển Nanochloropsis oculata được cho vào
trong cả hai bể từ ngày 1-15 dph với mật độ
12-15x104 tế bào/mL. Nhiệt độ nước giai động
trong khoảng 26 - 300C, độ mặn 28 - 33‰,
oxy hòa tan 5,4 ± 0,3 mg/L, pH trong khoảng
7,6 - 8,0. Ammonia-nitrogen tổng số thấp hơn
0,1mg/L. Chế độ thay nước trong bể ương
tăng từ 5%/ngày ở 1 dph tăng dần đến 150%/
ngày tại 20 dph và trên 200%/ngày đến khi kết
thúc thí nghiệm.
3. Thu và phân tích mẫu
Mẫu ấu trùng cá dùng phân tích enzym
tiêu hóa được thu vào buổi sáng, trước khi cho
cá ăn, vào các thời điểm 2, 4, 7, 13, 17, 23,
26, 30 và 33 dph cho ấu trùng ở nghiệm thức
LF để nghiên cứu phát triển enzym tiêu hóa ở
ruột cá, và từ ngày 23 - 33dph ở nghiệm thức
L-MD. Ba mẫu ấu trùng/cá con được thu trong
mỗi bể. Số lượng ấu trùng/cá con cho mỗi mẫu
dao động từ 5-20 con, giảm dần theo ngày tuổi.
Sau khi thu, ấu trùng được cho ngay vào ni tơ
lỏng, sau đó bảo quản trong tủ đông ở nhiệt
độ -800C trước khi phân tích. Ấu trùng được
rã đông trên đá lạnh và giải phẫu để lấy phần
ruột dưới kính hiển vi. Ở ấu trùng từ 2 - 4 dph,
phần ruột bao gồm cả phần cơ lưng được lấy.
Đối với ấu trùng lớn hơn 4 dpd, chỉ phần ruột
được giải phẫu tách ra để phân tích enzym.
Các enzym từ tế bào màng thành ruột (brush
border memberane, bbm) chỉ được phân tích
từ ngày 23 dph, khi ruột đã có thể hình thành
các tế bào màng ruột. Phân tích các enzym AP,
LAP, leu-ala, bbm AP, bbm LAP được thực hiện
theo các phương pháp phân tích của Cahu và
Zambonino Infante (1994).
Hoạt tính của enzym được trình bày ở
hai hình thức: hoạt tính chuyên biệt (specifi c
activity) là mU/mg protein, hoặc hoạt tính cá thể
(individual activity) là U/larva. Chỉ số trưởng
thành của ruột (gut maturation index) được xác
định là tỉ lệ giữa hoạt tính cá thể của enzym tế
bào màng thành ruột: bbm AP hoặc bbm LAP
với enzym nội bào leu-ala [4].
Mẫu đo tăng trưởng ấu trùng cá cũng được
thu vào các ngày lấy mẫu phân tích enzym.
Thu 30 con/bể, riêng tại thời điểm kết thúc thí
nghiệm (33 dph) thu 120 con/bể. Chiều dài tiêu
chuẩn (Standard length, SL) được sử dụng. Tỉ
lệ sống của cá được xác định tại thời điểm 10
và 20 dph (bằng cách lấy mẫu) và khi thúc thí
nghiệm (đếm số con còn lại). Tỉ lệ sống (%)
= 100 x (số cá còn lại + số cá lấy mẫu)/số cá
ban đầu.
4. Xử lý số liệu
Phân tích ANOVA một nhân tố và kiểm
định Student-Newman-Keuls (SNK) được sử
dụng để đánh giá sự sai khác mức độ hoạt
động enzym giữa các lần thu mẫu trong cùng
một nghiệm thức. Student’s t-test được sử
dụng để đánh giá sự khác biệt về tăng trưởng,
hoạt tính của enzym giữa hai nghiệm thức
dựa vào các lần lặp mẫu thu từ các nghiệm
thức. Số liệu được thể hiện là giá trị trung
bình ± SE. Số liệu sai khác có ý nghĩa khi
P < 0,05. Phần mềm SPSS 16.0 được sử
dụng để xử lý thông kê và SigmaPlot 10.0
được sử dụng để vẽ đồ thị.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Tăng trưởng và tỉ lệ sống
Hầu hết ấu trùng ở nghiệm thức cho ăn
kết hợp (L-MD) có thể ăn thức ăn viên vào
ngày 26dph (18,6 ± 0,7mm) trước khi giai đoạn
cho ăn kết hợp dừng lại vào 28dph. Ấu trùng
tăng trưởng từ cỡ 3,1 ± 0,02mm tại thời điểm
nở đến cỡ 20,6 ± 0,6mm ở nghiệm thức cho
ăn hoàn toàn thức ăn sống (LF) và cỡ 21,3 ±
0,6mm ở nghiệm thức L-MD tại thời điểm kết
thúc nghiệm 33dph (Hình 1).
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 45
Hình 1. Tăng trưởng chiều dài tiêu chuẩn (SL)
của ấu trùng cá giò sử dụng hoàn toàn thức ăn sống
(LF) và ấu trùng cá giò sử dụng thức ăn tổng hợp
từ 17 dph (L-MD)
Chiều dài của ấu trùng cá ở nghiệm thức
LF cao hơn cá ở nghiệm thức L-MD từ ngày 13
đến 17 dph, trong khi đó xu hướng ngược lại
được thấy từ 26 dph trở đi nhưng sự khác biệt
này không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05). Tỉ
lệ sống của ấu trùng cá tại thời điểm 10 và 20
ngày tuổi không có sự khác biệt giữa hai nghiệm
thức (P> 0,05) nhưng tại thời điểm kết thúc thí
nghiệm tỉ lệ sống của cá ở nghiệm thức LF
là 19,8%, cao hơn gấp 2 lần cá ở nghiệm
thức L-MD (9,6%). Ấu trùng cá giò sử dụng
thức ăn công nghiệp sớm (từ 16 ngày tuổi)
làm giảm tỉ lệ sống khoảng 40% so với cá
sử dụng hoàn toàn thức ăn sống cũng được
thông báo bởi Faulk và cs (2007). Kết quả
tương tự cũng thấy ở cá vược châu Âu
(Dicentrachus labrax) khi luyện thức ăn công
nghiệp giai đoạn sớm [2].
2. Phát triển enzym tiêu hóa và ảnh hưởng
của chế độ ăn tới sự trưởng thành của ruột
ấu trùng cá giò
Tất cả enzym tiêu hóa của ruột ấu trùng
cá xuất hiện từ 2 dph, khi cá chuẩn bị sử dụng
thức ăn ngoài. Hoạt tính của các enzym AP,
LAP và leu-ala tăng theo tăng trưởng về chiều
dài của cá (Hình 2a, 2b, 2c). Phát hiện này
cũng tương tự kết quả nghiên cứu của Faulk
(2007) khi nghiên cứu enzym tiêu hóa ở tuyến
tụy (pancreas) ở ấu trùng cá giò. Hoạt tính
chuyên biệt của enzym nội bào leu-ala tăng
liên tục từ 2 dph đến 7 dph, sau đó giảm dần
theo tuổi cá ở nghiệm thức LF (Hình 2d).
Hình 2. Hoạt tính của enzym alkaline phosphase (AP) (a), leucine aminopeptidase (LAP)
(b), leucine-alanine peptidase (leu-ala) (c) và hoạt tính của enzym leu-ala (d) của ấu trùng ở nghiệm thức LF và L-MD
Các chữ khác nhau trên cùng một đường đồ thị thể hiện giá trị khác nhau có ý nghĩa (P< 0,05). Các biểu tượng khác
nhau (* và ¤) thể hiện sự khác giữ các số liệu nhau trong cùng ngày lấy mẫu giữa hai nghiệm thức
46 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2017
Hoạt tính của enzym AP và LAP ở ấu trùng
thuộc nghiệm thức L-MD cao hơn ở ấu trùng
nghiệm thức LF từ ngày 30 dph trở đi, trong khi
đó hoạt tính của enzym leu-ala ở nghiệm thức
L-MD cao hơn LF thể hiện từ 26 dph (Hình 2).
Hoạt tính của enzym tế bào màng thành
ruột bbm AP tăng mạnh (gấp 2 lần) từ 23 dph
đến 26 dph ở nghiệm thức LF (P < 0,05), sau
đó hoạt độ của enzym này duy trì đến 30 dph
trước khi giảm xuống ở 33 dph (Hình 3a). Ở
nghiệm thức L-MD, gia tăng hoạt tính của bbm
AP muộn hơn (tăng khoảng 2,5 lần; P < 0,05)
từ 26 dph đến 30 dph, sau đó hoạt tính của
enzym này có xu hướng giảm xuống ở 33 dph
(Hình 3a). Hoạt tính chuyên biệt của bbm AP ở
nghiệm thức LF cao hơn ở nghiệm thức L-MD
vào ngày 26 dph nhưng thấp hơn vào ngày 33
dph (P < 0,05).
Hình 3. Hoạt tính của enzym màng tế bào thành ruột alkaline phosphase (bbm AP) (a) và leucine aminopeptidase
(bmm LAP) (b) của ấu trùng ở nghiệm thức LF và L-MD
Các chữ khác nhau trên cùng một đường đồ thị thể hiện giá trị khác nhau có ý nghĩa (P< 0,05). Các biểu tượng khác
nhau (* và ¤) thể hiện các giá trị khác nhau trong cùng ngày lấy mẫu giữa hai nghiệm thức
Sự thay đổi hoạt độ của enzym bbm LAP
tương tự như bbm AP ở cả hai nghiệm thức (Hình
3b). Tuy nhiên không có sự sai khác hoạt độ
của enzym này từ 23-33 dph ở trong cùng
một nghiệm thức và giữa hai nghiệm thức
(P > 0,05).
Hình 4. Tỉ lệ hoạt độ của bbm alkaline phosphate (AP) (a) và bbm leucine aminopeptidase (LAP) (b) ở màng tế
bào thành ruột (bbm) với hoạt độ của enzym nội bào leucine-alanine peptidase (leu-ala) ở nghiệm thức sử dụng
thức ăn sống (LF) hoặc cho ăn kết hợp với thức ăn viên tổng hợp (L-MD)
Số liệu là giá trị TB ± SE (n = 3). Số liệu trong cùng một ngày tuổi (dph) với kí hiệu chữ (a, b) khác nhau, và các giá trị
của cùng một nghiệm thức với các biểu tượng khác nhau (¤, *) là sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05)
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 47
Ở nghiệm thức LF, tỉ lệ AP/leu-ala tăng
khoảng 2 lần từ 23 dph đến 26 dph và sau
đó giảm dần, mặc dù không có sự khác biệt
giữa các ngày lấy mẫu (Hình 4a; P > 0,05). Ở
nghiệm thức L-MD, tỉ lệ AP/leu-ala tăng 3 lần từ
26 dph đến 30 dph (P < 0,05). Tỉ lệ AP/leu-ala
ở nghiệm thức LF cao hơn ở nghiệm thức
L-MD ở 23 dph và 26 dph, nhưng thấp hơn ở
30 dph và 33 dph (p < 0,05). Sự thay đổi về tỉ
lệ LAP/leu-ala tương tự như AP/leu-ala nhưng
không sai khác có ý nghĩa thống kê trong cùng
một nghiệm thức (Hình 4b; P > 0,05). Tuy
nhiên, tỉ lệ LAP/leu-ala ở nghiệm thức LF cao
hơn L-DM ở 26 dph (P < 0,05). Kết quả này
nghiên cứu này cũng cho thấy sử dụng enzym
AP là chỉ dấu đánh giá quá trình trưởng thành
của ruột ấu trùng cá giò tốt hơn enzym LAP.
Quá trình trưởng thành điển hình của ruột
ấu trùng cá đặc trưng bởi sự giảm dần hoạt
độ enzym nội bào leu-ala của tế bào ruột đồng
thời với sự gia tăng hoạt độ enzym của màng
thành ruột (bbm AP, LAP) đã được báo cáo
ở một số loài cá biển (Zambonino-Infante và
Cahu, 2001; Zouiten và cs, 2008). Trong thí
nghiệm này, sự gia tăng hoạt độ của enzym
bbm AP giữa 23-26 dph ở nghiệm thức LF và
giữa 26-30 dph ở nghiệm thức L-MD chỉ ra
rằng thời điểm ruột phát triển đầy đủ ấu cá giò
ở nghiệm thức LF là 26 dph và L-MD là 30 dph,
cũng trùng với thời điểm enzym leu-ala giảm
thấp so với ấu trùng cá ở giai đoạn 7-17 dph.
Chỉ số trưởng thành của ruột được xác định
bởi tỉ lệ giữa bbm AP/leu-ala và bbm LAP/leu-ala
thường được dùng để đánh giá quá trình phát
triển đầy đủ của ruột ấu trùng cá, và sự gia
tăng rõ rệt ở chỉ số này thể hiện sự trưởng
thành của ruột ấu trùng nhiều loài cá [3], [8],
[10], [12]. Trong thí nghiệm này, sự gia tăng
tỉ lệ bbm AP/leu-ala thể hiện rõ nét ở nghiệm
thức L-MD (26-30 dph). Tỉ lệ bbm AP/leu-ala ở
nghiệm thức LF cao hơn L-MD ở 23 dph và 26
dph chỉ ra rằng ấu trùng cá giò ở nghiệm thức
LF đạt mức trưởng thành của ruột sớm hơn so
với ấu trùng ở nghiệm thức L-MD. Tuy nhiên,
hoạt tính chuyên biệt của enzym bbm AP và
tỉ lệ bbm AP/leu-ala ở nghiệm thức L-MD đều
cao hơn nghiệm thức LF từ 30 dph trở đi gợi
ý rằng việc ương ấu trùng bằng thức ăn sống
(artemia) kéo dài (sau 26 dph) có thể làm giảm
hoạt tính của enzym tiêu hóa ở ruột ấu trùng cá
giò so với ấu trùng sử dụng thức ăn tổng hợp.
IV. KẾT LUẬN
Kết quả thí nghiệm cho thấy tất cả các
enzym được sản sinh từ ruột cá đều được phát
hiện từ khi cá bắt đầu sử dụng thức ăn ngoài
lúc 2 ngày tuổi và hoạt tính của các enzym
tăng theo sự tăng trưởng của ấu trùng cá. Ấu
trùng cá giò sử dụng thức ăn tổng hợp sớm
(17 dph) làm giảm tỉ lệ sống và sự phát triển
đầy đủ của ruột muộn hơn so với ấu trùng sử
dụng thức ăn sống hoàn toàn. Tuy nhiên, việc
kéo dài sử dụng thức ăn sống (sau 26 dph) có
thể làm giảm hoạt tính của enzym tiêu hóa ở
ruột cá so với cá sử dụng thức ăn tổng hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Benetti, D.D., Sardenberg, B., Welch, A., Hoenig, R., Orhun, M.R., Zink, I., 2008. Intensive larval husbandry
and fi ngerling production of cobia Rachycentron canadum. Aquaculture 281, 22-27.
2. Cahu, C.L., Zambonino Infante, J.L., 1994. Early Weaning of Sea Bass (Dicentrarchus labrax) Larvae with a
Compound Diet - Effect on Digestive Enzymes. Comparative Biochemistry and Physiology 109, 213-222.
3. Cahu, C.L., Zambonino Infante, J.L., Quazuguel, P., Le Gall, M.M., 1999. Protein hydrolysate vs fi sh meal in
compound diets for 10-day old sea bass Dicentrarchus labrax larvae. Aquaculture 171, 109-119.
48 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2017
4. Cahu, C.L., Zambonino Infante, J.L., 2001. Substitution of live food by formulated diets in marine fi sh larvae.
Aquaculture 200, 161-180.
5. Faulk, C.K., Benninghoffz, Holt, G.J., 2007. Ontogeny of gastrointestinal tract and selected digestive enzymes
in cobia Rachycentron canadum (L.). J. Fish Biology 70, 567-583.
6. Holt, G.J., Faulk, C.K., Schwarz, M.H., 2007. A review of the larviculture of cobia Rachycentron candum,
a warm water marine fi sh. Aquaculture 268, 181-187.
7. Liao, I.C., Huang, T.-S., Tsai, W.-S., Hsueh, C.M., Chang, S.-L., Leaño, E.M., 2004. Cobia culture in Taiwan:
current status and problems Aquaculture 237, 155-165.
8. Ma, H., Cahu, C., Zambonino, J., Yu, H., Duan, Q., Le Gall, M.M., Mai, K., 2005. Activities of selected digestive
enzymes during larval development of large yellow croaker (Pseudociaena crocea). Aquaculture 245, 239-248.
9. Nguyen, Q.H., Sveier, H., Bui, V.H., Le, A.T., Nhu, V.C., Tran, M.T., Svennevig, N., 2008. Growth performance
of cobia, Rachycentron canadum, in sea cages using extruded fi sh feed or trash fi sh. In: Yang, Y., Vu, X.Z, Zhou,
Y.Q. (Eds), Cage aquaculture in Asia: procedings of the second international symposium on cage aquaculture in
Asia. Asian Fishery Society, Manila, Philippines, and Zhejang University, Hangzhou, China, pp 42-47.
10. Wold, P.A., Hoehne-Reitan, K., Cahu, C.L., Infante, J.Z., Rainuzzo, J., Kjørsvik, E., 2007. Phospholipids vs.
neutral lipids: Effects on digestive enzymes in Atlantic cod (Gadus morhua) larvae. Aquaculture 272, 502-513.
11. Zambonino Infante, J.L., Cahu, C.L., 2001. Ontogeny of the gastrointestinal tract of marine fi sh larvae.
Comparative Biochemistry and Physiology C-Toxicology & Pharmacology 130, 477-487.
12. Zouiten, D., Ben Khemis, I., Besbes, R., Cahu, C., 2008. Ontogeny of the digestive tract of thick lipped grey
mullet (Chelon labrosus) larvae reared in “mesocosms”. Aquaculture 279, 166-172.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 07_nguyen_quang_huy_3875_2024290.pdf