Nam Xuan Lac Species and Habitat Conservation Area in Bac Kan province is located in the two communes of Xuan Lac and Ban Thi with an area of 1,788 ha, where it has the high value of biodiversity. The livelihood of local communities is difficult, which is expressed by a number of evidences such as lack of agriculture land, poor infrastructure, education and health care. In addition, the awareness of community regarding forest protection is limited. The main income is from agriculture and husbandry. This had a great influence on forest protection and biodiversity conservation in the Conservation Area. The factors impacting the protected area resources include exploitation of firewood, timber, deforestation for agriculture, cattle ranging, and non-timber forest products extraction.
Forest resources conservation needs the collaboration of several relevant bodies, building the capacity of rangers in enforcement of forest law and socio-economic development of surrounding communities.
5 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 515 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế xã hội đến tài nguyên rừng khu bảo tồn loài và sinh cảnh Nam Xuân Lạc, tỉnh Bắc Kạn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Thị Thoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 85(09)/1: 23 - 27
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23
ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC YẾU TỐ KINH TẾ XÃ HỘI ĐẾN TÀI NGUYÊN RỪNG
KHU BẢO TỒN LOÀI VÀ SINH CẢNH NAM XUÂN LẠC, TỈNH BẮC KẠN
Nguyễn Thị Thoa*, Lê Văn Phúc
Trường ĐH Nông Lâm - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Khu bảo tồn Loài và Sinh cảnh Nam Xuân Lạc, tỉnh Bắc Kạn nằm trên địa bàn 2 xã Xuân Lạc và
Bản Thi với diện tích 1.788 ha, nơi có giá trị cao về da dạng sinh học. Đời sống của cộng đồng địa
phƣơng gặp nhiều khó khăn, thiếu đất canh tác, cơ sở hạ tầng, giáo dục, y tế còn nhiều khó khăn,
nhận thức của cộng đồng về bảo vệ rừng hạn chế... đó chính là nguyên nhân làm ảnh hƣởng đến
công tác bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học trong Khu bảo tồn. Thu nhập chính từ trồng trọt và
chăn nuôi. Các tác động chính đến tài nguyên của khu bảo tồn: Khai thác củi, gỗ, phát rừng làm
nƣơng rẫy, thả rông gia súc, khai thác lâm sản ngoài gỗ... Bảo tồn tài nguyên rừng cần có sự hợp
tác của nhiều cơ quan có trách nhiệm, năng lực thực thi pháp luật cho ngƣời kiểm lâm, phát triển
kinh tế xã hội cho các cộng đồng sống xung quanh khu bảo tồn Loài và Sinh cảnh Nam Xuân Lạc.
Từ khóa: Kinh tế - xã hội, đa dạng sinh học, bảo tồn, tác động, cộng đồng, Nam Xuân Lạc
MỞ ĐẦU*
Khu Bảo tồn Loài và Sinh cảnh Nam Xuân Lạc có
tổng diện tích tự nhiên là 1.788 ha nằm trên địa bàn
hai xã Xuân lạc và Bản Thi, huyện Chợ Đồn, tỉnh
Bắc Kạn. Tính đa dạng sinh học của Khu bảo tồn
đang bị đe dọa bởi nhiều nguyên nhân khác nhau,
một trong các nguyên nhân đó chính là cộng đồng
ngƣời dân sống trong và xung quanh Khu bảo tồn
[1]. Trƣớc những nhu cầu cấp thiết phải bảo vệ đa
dạng sinh học và phát triển kinh tế xã hội bền vững
cho cộng đồng địa phƣơng, cần thiết phải nghiên cứu
một cách khoa học về ảnh hƣởng của các yếu tố kinh
tế - xã hội đến tài nguyên của Khu bảo tồn, trên cơ
sở đó đƣa ra các kiến nghị và giải pháp giúp chính
quyền địa phƣơng trong công tác quản lý bền vững
tài nguyên.
MỤC TIÊU
- Đánh giá đƣợc tình hình kinh tế xã hội và những
ảnh hƣởng của các yếu tố này lên tài nguyên rừng
của Khu bảo tồn tại 2 xã Xuân Lạc và xã Bản Thi
thuộc Khu bảo tồn Loài và Sinh cảnh Nam Xuân
Lạc.
- Đƣa ra các kiến nghị nhằm tăng cƣờng công tác
quản lý, bảo vệ nguồn tài nguyên rừng và giảm thiểu
những ảnh hƣởng của ngƣời dân tới tài nguyên rừng
của khu vực.
PHƢƠNG PHÁP VÀ ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
Sử dụng phƣơng pháp đánh giá nhanh nông thôn có
sự tham gia (PRA) để tìm hiểu đời sống, tập tục, thái
độ, hành vi, nhận thức của ngƣời dân địa phƣơng
trong việc khai thác và bảo vệ nguồn tài nguyên
*
Tel: 0916479688; Email: nguyenthithoaln@gmail.com
thiên nhiên của khu vực. Để thu thập thông tin cần
thiết, chúng tôi đã sử dụng một số công cụ: phỏng
vấn, thảo luận nhóm, kết hợp với quan sát thực tế,...
Các đối tƣợng thu thập thông tin bao gồm (i) cá
nhân, hộ gia đình nằm trong và giáp ranh với Khu
bảo tồn ở hai xã, (ii) cán bộ lãnh đạo địa phƣơng,
(iii) cán bộ Khu bảo tồn và các cơ quan chức năng
có liên quan
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm khu vực nghiên cứu
Mục tiêu chủ yếu của Khu bảo tồn Loài và Sinh cảnh
Nam Xuân Lạc là bảo vệ quần thể các giá trị đa dạng
sinh học cấp quốc gia và quốc tế, là khu bảo tồn đầu
tiên của Việt Nam có Ban quản lý bao gồm các thành
viên cộng đồng địa phƣơng. Xã Xuân Lạc (có 2 thôn
nằm hoàn toàn trong Khu bảo tồn) và Bản Thi (nằm ở
vùng đệm Khu bảo tồn, nơi có nhiều hoạt động kinh
tế có tác động đến tài nguyên rừng).
* Tình trạng giáo dục
Ở hai xã Xuân Lạc và Bản Thi, chính quyền địa
phƣơng cũng nhƣ ngƣời dân đều rất quan tâm đến
việc học của con em mình. Hầu hết các xã có 01
trƣờng tiểu học và 01 trƣờng trung học cơ sở, nhƣng
điều kiện cơ sở vật chất và giáo viên còn thiếu, chƣa
đáp ứng đƣợc nhu cầu học tập của con em nhân dân
trong xã. Đa số phân trƣờng tại các thôn bản là nhà
tạm, bàn ghế không đảm bảo. Số trẻ em trong độ tuổi
đi học phổ thông trung học đƣợc đến trƣờng rất thấp.
Tỷ lệ ngƣời biết chữ so với tổng số ngƣời trong độ
tuổi từ 15 – 35 tuổi là 97%. Tuy nhiên trong công tác
giáo dục tại địa phƣơng còn gặp một số khó khăn:
- Cơ sở vật chất và thiết bị dạy học còn thiếu (thiếu
phòng thƣ viện, sách và dụng cụ)
Nguyễn Thị Thoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 85(09)/1: 23 - 27
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24
- Trình độ giáo viên còn hạn chế, chƣa thực sự yên
tâm giảng dạy lâu dài (giáo viên từ vùng xuôi lên).
- Địa hình phức tạp, học sinh đi học còn khó khăn.
- Bất đồng ngôn ngữ giữa giáo viên và học sinh các
thôn bản vùng cao.
* Tình trạng y tế
Hệ thống y tế chăm sóc sức khỏe cho ngƣời dân hoạt
động chƣa thực sự hiệu quả. Mỗi xã có một trạm y tế
với đội ngũ từ 3 – 4 ngƣời/trạm. Công tác vệ sinh
môi trƣờng, phòng dịch bệnh tại các thôn bản chƣa
đƣợc chú ý mức. Hiện tƣợng thả rông gia súc còn
phổ biến, nguồn chất thải của các loại gia súc này
không đƣợc xử lý và thu dọn, đây chính là nguồn lây
nhiễm dịch bệnh.
* Hệ thống cơ sở hạ tầng
Hệ thống đƣờng liên xã đƣợc rải nhựa, hệ thống
đƣờng liên thôn là các đƣờng mòn, đƣờng đất do
ngƣời dân tự làm, hẹp, độ dốc cao, lầy lội vào mùa
mƣa đi lại rất khó khăn. Hệ thống thủy lợi chƣa phát
triển, ngƣời dân địa phƣơng thƣờng đắp các phai đập
nhỏ làm hệ thống tự chảy phục vụ sản xuất và sinh
hoạt. Các công trình tự tạo này chỉ tồn tại đƣợc trong
mùa khô, đến mùa mƣa chúng thƣờng bị nƣớc cuốn
trôi.
Thực trạng kinh tế xã hội và sử dụng tài nguyên
của cộng đồng
Tại khu vực nghiên cứu, cộng đồng chủ yếu là canh
tác nông nghiệp (lúa, ngô) và chăn nuôi. Ngoài ra,
họ khai thác các tài nguyên rừng để sử dụng và bán:
khai thác gỗ, động vật hoang dã, nấm, mật ong, tre
nứa, song mây, sa nhân, củ mài. Đặc biệt là cung cấp
cho nhu cầu của công nhân khai khoáng trên địa bàn
xã Bản Thi. Mức độ khai thác và thời gian khai thác
phụ thuộc vào mùa vụ và nhu cầu thu mua các lâm
sản ngoài gỗ từ thị trƣờng bên ngoài. Đây chính là
những nguy cơ ảnh hƣởng lớn đến tài nguyên rừng
của Khu bảo tồn.
1. Thực trạng kinh tế hộ gia đình
Theo thống kê của UBND hai xã Xuân Lạc và Bản
Thi, cho thấy tỷ lệ hộ nghèo của hai xã là rất lớn,
chiếm trên 40%. Những hộ gia đình nghèo phần lớn
tập trung vào những thôn vùng cao tập trung chủ yếu
ngƣời H’mông và Dao. Nguyên nhân là do điều kiện
cách trở về giao thông, làm cho các mối giao lƣu
kinh tế giữa các thôn bản bị hạn chế, ngƣời dân
quanh năm chỉ biết lo việc nƣơng rẫy.
Bảng 1. Thông tin cơ bản tại hai xã nghiên cứu
Xã Xuân Lạc Xã Bản Thi
Diện tích Tổng diện tích: 8.421,4 ha
Đất nông nghiệp: 5.025,2 ha
- Đất lúa: 124,49 ha
- Đất lâm nghiệp: 4.026,4 ha
Tổng diện tích: 6.513,44 ha
Đất nông nghiệp: 4.900,39 ha
- Đất lúa: 89,64 ha
- Đất lâm nghiệp: 3.907,03 ha
Dân số 628 hộ, 3247 khẩu 358 hộ, 1503 khẩu
Thành phần dân tộc Kinh, Tày và Dao Kinh, Tày, Dao và H’mông
Cơ sở hạ tầng Hệ thống đƣờng liên xã đã rải nhựa,
một số công trình thủy lợi nhỏ đƣợc xây
dựng, đƣờng liên thôn là đƣờng đất, đi
lại khó khăn nhất là vào mùa mƣa.
Hệ thống đƣờng liên xã đã rải nhựa,
một số công trình thủy lợi nhỏ đƣợc
xây dựng, đƣờng liên thôn là đƣờng
đất hẹp, đi lại khó khăn.
Giáo dục Có trƣờng cấp tiểu học và trƣờng Trung
học cơ sở tại xã
Có trƣờng cấp tiểu học và trƣờng
Trung học cơ sở tại xã
Y tế Có trạm y tế đặt tại trung tâm xã Có trạm y tế đặt tại trung tâm xã
Đối với các thôn bản vùng cao, phần lớn
ngƣời già và trẻ em không biết nói tiếng phổ
thông, cơ hội tiếp cận thông tin mới, những
chủ trƣơng chính sách của Đảng và Nhà nƣớc,
những tiến bộ khoa học kỹ thuật và các cuộc
giao lƣu với cộng đồng khác rất hạn chế.
Trong thời gian nhàn rỗi, ngƣời dân không có
việc gì để làm, hầu hết nhân lực lao động
trong gia đình tập trung vào khai thác các
nguồn tài nguyên của Khu bảo tồn để sử dụng
và bán tăng thu nhập. Các hoạt động ảnh
hƣởng đến nguồn tài nguyên của khu bảo tồn
nhƣ: Khai thác củi, gỗ, phát rừng làm nƣơng
rẫy, thả rông gia súc, khai thác lâm sản ngoài
gỗ... Vấn đề an toàn lƣơng thực cũng vẫn
chƣa đảm bảo đối với một số hộ nghèo, thiếu
ăn vào những lúc giáp hạt (tháng 2-4) trƣớc
khi đến mùa gặt.
Nguyễn Thị Thoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 85(09)/1: 23 - 27
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25
Nhƣ vậy, nguồn thu nhập chính của ngƣời
dân hai xã là từ nông nghiệp, chăn nuôi, khai
thác các sản phẩm từ rừng và các nguồn thu
khác. Mặc dù nguồn thu nhập từ rừng không
cao (tính bằng tiền mặt), nhƣng nó có vai trò
quan trọng đối với kinh tế hộ gia đình, nhất là
đối với các hộ nghèo.
2. Các nguồn thu nhập chính
Thu nhập chính của ngƣời dân hai xã Xuân
Lạc và Bản Thi là từ nông nghiệp. Tuy nhiên
cơ cấu vật nuôi, cây trồng ở các khu dân cƣ
vùng thấp và vùng cao có khác nhau. Các
thôn vùng cao chỉ canh tác đƣợc lúa một vụ
và làm rẫy vì lý do thiếu nƣớc hoặc không
chủ động nƣớc sản xuất. Các thôn vùng thấp
có một số diện tích canh tác đƣợc 2 vụ. Việc
áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất còn hạn chế (đặc biệt các thôn bản vùng
cao) nên năng suất cây trồng và vật nuôi cũng
không cao, thƣờng xuyên xảy ra dịch bệnh
trên đàn vật nuôi.
Xã Xuân Lạc Xã Bản Thi
Biểu đồ 1. Mô tả tỷ trọng các nguồn thu chính ở hai xã
Bảng 2. Cơ cấu thu nhập giữa các thôn trong khu vực nghiên cứu
Các thôn vùng thấp Các thôn vùng cao
Trồng trọt: Chiếm 70% tổng thu nhập
- Lúa: 75% thu nhập từ trồng trọt
- Ngô, sắn: 10%
- Hoa màu: 15%
Chăn nuôi: Chiếm 35% tổng thu nhập
- Lợn: 40% thu nhập từ vật nuôi
- Trâu, bò: 40%
- Gà vịt: 20%
Lâm nghiệp: Chiếm 5% tổng thu nhập
Trồng trọt: Chiếm 55% tổng thu nhập
- Lúa: 50% thu nhập từ trồng trọt
- Ngô, sắn: 40%
- Hoa màu: 10%
Chăn nuôi: Chiếm 35% tổng thu nhập
- Lợn: 35% thu nhập từ vật nuôi
- Trâu, bò: 50%
- Gà: 10%
- Dê, ngựa: 5%
Lâm nghiệp: Chiếm 8% tổng thu nhập
60%
32%
5% 3%
Trồng trọt
Chăn nuôi
Lâm nghiệp
Các nguồn khác
45%
15%
8%
15%
10%
7%
Trồng trọt
Chăn nuôi
Lâm nghiệp
Khai thác khoáng sản
Buôn bán nhỏ
Các nguồn khác
Nguyễn Thị Thoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 85(09)/1: 23 - 27
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26
Một số hộ sinh sống trong Khu bảo tồn, họ phát
nƣơng làm rẫy để canh tác nông nghiệp và sử
dụng nhiều tài nguyên từ Khu bảo tồn. Gồm 4 hộ
ngƣời Dao xã Bản Thi và 2 hộ ngƣời Dao xã
Xuân Lạc (6 hộ trong KBT với 32 nhân khẩu),
các hộ này vẫn còn săn bắt động vật hoang dã. Có
53 hộ tại thôn Nà Dạ xã Xuân Lạc phần lớn có
diện tích canh tác trong Khu bảo tồn. Cƣ dân
trong vùng chủ yếu sống tập trung thành các bản,
những hộ ở trên cao rải rác đã chuyển xuống thấp
sống cùng bản làng, phần lớn trong số họ đến
định cƣ ở khu vực này vào những năm 1979 -
1980 là các hộ nghèo ngƣời H’Mông và Dao. Một
trong những tập quán cần đƣợc thay đổi của cả
ngƣời Dao và ngƣời H’Mông là săn bắt động vật
rừng. Thƣờng các gia đình đều có súng săn tự
tạo, họ đi săn không chỉ vì mục đích thực phẩm,
thu nhập mà đây còn là tập quán.
3. Phong tục tập quán của các dân tộc
Dân tộc Dao: Ngƣời Dao sống phân bố ở các bản
trong khu vực 2 xã Xuân Lạc và Bản Thi, việc phát
nƣơng làm rẫy, săn bắn đã đƣợc hạn chế rất nhiều,
họ thƣờng sinh sống ở vùng thấp. Trình độ dân trí
và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật tƣơng đối
nhanh. Tuy nhiên việc khai thác gỗ, củi từ rừng
tự nhiên vẫn còn, đặc biệt các hộ đói nghèo
thƣờng dựa vào rừng để khai thác gỗ, lâm sản,
những thứ gì có thể để đem bán để giải quyết đói
nghèo trƣớc mắt.
Dân tộc Tày: Ngƣời Tày là dân tộc có phân bố
rộng, chiếm tỷ lệ lớn trong tổng dân số các xã, họ
có tập quán canh tác lúa nƣớc lâu đời nhƣng vẫn
còn phụ thuộc nhiều vào rừng. Trình độ áp dụng
khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp còn
hạn chế.
Dân tộc H’Mông: Trong Khu bảo tồn có một bộ
phận ngƣời H’Mông định cƣ, nhƣng tập trung
nhiều nhất là ở thôn Pù Lùng, thôn Tà Han xã
Xuân Lạc và thôn Bó Mằn xã Bản Thi. Cuộc sống
của họ chủ yếu dựa vào rừng nhƣ: Săn bắt động
vật rừng, thu hái các lâm sản ngoài gỗ, phong
tục tập quán còn lạc hậu, giao thông đi lại khó
khăn. Việc tiếp cận những tiến bộ khoa học áp
dụng vào sản xuất còn hạn chế, thông tin cập
nhật không thƣờng xuyên.
Những khó khăn và nhu cầu của cộng đồng
1. Khó khăn
Thiếu đất canh tác: Diện tích đất nông nghiệp
chiếm tỷ lệ quá nhỏ so với tổng diện tích, trong đó
diện tích ruộng nƣớc chỉ hơn 1 sào/ngƣời, chủ yếu
là ruộng 1 vụ, ngƣời dân phải làm nƣơng rẫy để bổ
sung nguồn lƣơng thực. Diện tích đất nƣơng rẫy
hiện nay tuy không cao nhƣng nếu luân chuyển
hàng năm thì diện tích rừng bị chuyển đổi sẽ
tăng nhanh đáng kể.
Dân cư sống rải rác, địa hình phức tạp: là một khó
khăn lớn ảnh hƣởng đến quá trình trao đổi, giao lƣu,
buôn bán các sản phẩm hàng hóa với các vùng lân
cận. Ngƣời dân vẫn sản xuất theo hình thức tự cung
tự cấp, khả năng tiếp cận khoa học kỹ thuật mới còn
hạn chế nhất là đối với đồng bào H’mông và Dao.
2. Nhu cầu của cộng đồng
- Xây dựng hệ thống thủy lợi nhỏ nhằm đảm bảo
nhu cầu sản xuất, nâng từ diện tích một vụ lên 2
vụ/năm.
- Tập huấn kỹ thuật, xây dựng mô hình khuyến
nông lâm nhằm tăng năng suất cây trồng trên một
đơn vị diện tích.
- Tạo cơ hội cho ngƣời dân địa phƣơng đƣợc
tham gia vào các hoạt động của Khu bảo tồn nhƣ
nhóm tuần rừng, nhận khoán quản lý bảo vệ
rừng,
- Tạo công ăn việc làm, nhất là vào những mùa vụ
nông nhàn. Thu hút các chƣơng trình, dự án nhằm
tạo ra những cơ hội sinh kế mới dần thay thế sự
phụ thuộc vào tài nguyên rừng của ngƣời dân địa
phƣơng.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Đời sống của cộng đồng địa phƣơng bên trong và
xung quanh khu bảo tồn gặp nhiều khó khăn,
những phong tục tập quán, thói quen từ ngàn đời
trong việc khai thác sử dụng tài nguyên thiên nhiên
phục vụ đời sống, đã có những tác động không nhỏ
đến tài nguyên của khu bảo tồn nhƣ hoạt động khai
thác củi, gỗ; phát rừng làm nƣơng rẫy, thả rông gia
súc, khai thác lâm sản ngoài gỗ quá mức... Để
quản lý tốt nguồn tài nguyên rừng của Khu bảo tồn
cần thiết phải có các giải pháp nâng cao đời sống
của ngƣời dân địa phƣơng, thu hút sự tham gia
của họ vào các hoạt động quản lý của Khu bảo
tồn, tăng cƣờng giáo dục nâng cao nhận thức
Nguyễn Thị Thoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 85(09)/1: 23 - 27
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27
cộng đồng tuân thủ theo các quy định của pháp
luật về bảo vệ và phát triển rừng.
Kiến nghị
- Tăng cƣờng các hoạt động quản lý, bảo vệ rừng
chặt chẽ hơn. Ngăn chặn những hoạt động xâm
phạm tới tài nguyên rừng một cách trái phép.
- Nâng cao năng lực thực thi pháp luật về công tác
bảo vệ rừng và các kỹ năng thu hút sự tham gia của
cộng đồng vào công tác bảo tồn cho cán bộ kiểm
lâm của Khu bảo tồn.
- Thu hút các chƣơng trình, dự án phát triển cơ sở
hạ tầng, kinh tế xã hội nhằm cải thiện và nâng cao
sinh kế trong khu vực.
- Phát triển kinh tế hộ gia đình, nâng cao mức sống
nhằm giảm những áp lực lên nguồn tài nguyên
thiên nhiên.
- Giảm dần sự phụ thuộc của ngƣời dân trong việc
sử dụng các sản phẩm từ rừng bằng thay thế các
sản phẩm nông nghiệp, các sản phẩm từ gây trồng
tại vƣờn nhà...
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Báo cáo “Xây dựng và quản lý dựa vào cộng đồng
Khu bảo tồn loài và sinh cảnh Nam Xuân Lạc, tỉnh Bắc
Kạn. Dự án PARC Ba Bể/Na Hang, 2004.
[2]. Barton, Thomas et al. (1997) Our People, Our
Resources: Supporting Rural Communities in
Participatory Action Research on Population Dynamics
and the Local Environment. IUCN, Gland, Switzerland
and Cambridge, UK.
[3]. Borrini-Feyerabend, Grazia (Ed.) (1997) Beyond
Fences: Seeking Social Sustainability in Conservation.
Volume 1: A Process Companion. IUCN, BSP, the
World Bank, WWF US, PVO-NGO NMRS Project,
CIFOR, Inter-cooperation. IUCN, Gland, Switzerland.
[4]. Brunner, Jake et al. (2000) Forest Problems and
Law Enforcement in Southeast Asia: the Role of Local
Communities. World Resource Institute, Washington
D.C., USA.
SUMMARY
THE IMPACT OF SOCIO-ECONOMIC FACTORS ON THE FOREST RESOURCES OF
NAM XUAN LAC SPECIES AND HABITAT CONSERVATION AREA, BAC KAN
PROVINCE
Nguyen Thi Thoa*, Le Van Phuc
College of Agriculture and Forestry - TNU
Nam Xuan Lac Species and Habitat Conservation Area in Bac Kan province is located in the two communes of
Xuan Lac and Ban Thi with an area of 1,788 ha, where it has the high value of biodiversity. The livelihood of
local communities is difficult, which is expressed by a number of evidences such as lack of agriculture land, poor
infrastructure, education and health care. In addition, the awareness of community regarding forest protection is
limited. The main income is from agriculture and husbandry. This had a great influence on forest protection and
biodiversity conservation in the Conservation Area. The factors impacting the protected area resources include
exploitation of firewood, timber, deforestation for agriculture, cattle ranging, and non-timber forest products
extraction.
Forest resources conservation needs the collaboration of several relevant bodies, building the capacity of rangers
in enforcement of forest law and socio-economic development of surrounding communities.
Key words: Socio-economic, Biodiversity, Consevation, Impact, Community, Nam Xuan Lac
*
Tel: 0916.479.688; Email: nguyenthithoaln@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_32493_36109_108201291036anhhuongcuacacyeutokinhte_3298_2052737.pdf