Huyệ n Phổ Yên là điểm sáng của tỉnh Thá i Nguyên về thu hút đầu tƣ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
tốc độ tăng trƣởng GDP đạt 17,5% năm 2008, thu nhập bình quân đầu ngƣời đạt 13 - 15 triệu
đồng/năm. Tính đầ u n ăm 2009 giá trị sản xuất mà các doanh nghiệp tạo ra là 538,7 tỉ đồng, giải
phóng mặt bằng cho phát triển các khu công nghiệ p ( KCN ) hơn 2.000 ha, giải quyết việc làm cho
1.555 lao động. Tạo ra động lực mới cho nhiều ngành nghề dịch vụ phát triển, đời sống của các
tầng lớp nhân dân đƣợc cải thiện rõ rệt, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội đƣợc ổn định và giữ
vững, lòng tin của nhân dân vào công cuộc đổi mới đất nƣớc do Đảng ta khởi xƣớng và lãnh đạo
đƣợc củng cố, hệ thống Nhà nƣớc pháp quyền hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu quả cao hơn.
6 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 10/03/2022 | Lượt xem: 379 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của các khu công nghiệp đến đời sống hộ nông dân ở huyện Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 140
ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ĐẾN ĐỜI SỐNG HỘ NÔNG DÂN Ở
HUYỆN PHỔ YÊN TỈNH THÁI NGUYÊN
Nguyễn Thu Hằng1*, Dương Thế Ngọc2
1Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên, 2Đại học Thái Nguyên
TÓM TẮT
Huyện Phổ Yên là điểm sáng của tỉnh Thái Nguyên về thu hút đầu tƣ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
tốc độ tăng trƣởng GDP đạt 17,5% năm 2008, thu nhập bình quân đầu ngƣời đạt 13 - 15 triệu
đồng/năm. Tính đầu n ăm 2009 giá trị sản xuất mà các doanh nghiệp tạo ra là 538,7 tỉ đồng, giải
phóng mặt bằng cho phát triển các khu công nghiệp ( KCN ) hơn 2.000 ha, giải quyết việc làm cho
1.555 lao động. Tạo ra động lực mới cho nhiều ngành nghề dịch vụ phát triển, đời sống của các
tầng lớp nhân dân đƣợc cải thiện rõ rệt, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội đƣợc ổn định và giữ
vững, lòng tin của nhân dân vào công cuộc đổi mới đất nƣớc do Đảng ta khởi xƣớng và lãnh đạo
đƣợc củng cố, hệ thống Nhà nƣớc pháp quyền hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu quả cao hơn.
Từ khóa: khu công nghiệp, đời sống hộ nông dân, cơ cấu kinh tế, tăng trưởng kinh tế, ảnh hưởng
ĐẶT VẤN ĐỀ
Quá trình công nghiệp hoá ở mỗi quốc gia là
sự hình thành hệ thống cơ sở vật chất của các
ngành kinh tế quốc dân mà trƣớc hết là các
ngành công nghiệp. Kết quả chính của quá
trình này còn bao gồm hệ thống kết cấu hạ
tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội trên phạm vi cả
nƣớc đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và
nâng cao đời sống của nhân dân.
Nƣớc ta đang bƣớc vào giai đoạn đẩy mạnh
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nƣớc theo
đƣờng lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng
ta, sự hình thành các khu công nghiệp mới và
mở rộng các khu công nghiệp hiện có là một
xu hƣớng tất yếu.
Tỉnh Thái Nguyên cũng không nằm ngoài quy
luật chung đó, chúng ta không thể phủ nhận
đƣợc rằng; trong những năm gần đây, tình
hình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Thái
nguyên đã và đang có nhiều chuyển biến tích
cực, thu nhập của ngƣời dân đƣợc nâng cao,
nhu cầu về đời sống vật chất cũng nhƣ tinh
thần và các dịch vụ khác cũng ngày ngày
càng cao, quá trình công nghiệp hoá trong
tỉnh đang diễn ra khá mạnh mẽ. Phổ Yên là
một huyện thuộc tỉnh Thái Nguyên với 10
khu công nghiệp và cụm công nghiệp, do đó
quá trình công nghiệp hoá ở huyện Phổ Yên
cũng đang diễn ra khá mạnh mẽ.
Tel: 0912108538
THỰC TRẠNG ẢNH HƢỞNG CỦA CÁC
KHU CÔNG NGHIỆP ĐẾN ĐỜI SỐNG
HỘ NÔNG DÂN Ở HUYỆN PHỔ YÊN -
THÁI NGUYÊN
Đƣợc sự quan tâm, chỉ đạo của Tỉnh Thái
Nguyên với quyết tâm chính trị cao của tập
thể lãnh đạo và sự đồng thuận của nhân dân
các dân tộc trong huyện , với cách làm bài
bản, nhanh chóng , đầu năm 2009 huyện đã
đạt đƣợc kết quả thu hút đầu tƣ đáng khích lệ,
dẫn đầu tỉnh Thái Nguyên với 15 dự án với
qui mô hàng nghìn ha đầu tƣ phát triển công
nghiệp, doanh nghiệp trên địa bàn huyện Phổ
Yên với tổng số vốn đầu tƣ khoảng 10.835,5
tỷ đồng [4]. Một số dự án trọng điểm nhƣ Dự
án xây dựng nhà máy lắp ráp ôtô Vinaxuki
Xuân Kiên có tổng vốn đầu tƣ là 1.600 tỉ
đồng, khu cụm cảng Đa Phúc 9,5ha, khu công
nghệ cao và sinh thái Tây Phổ Yên 300ha,
khu công nghiệp Yên Bình 2000 ha, quy mô
vốn đầu tƣ 3000 tỷ đồng...
Trong 3 năm qua (2007 - 2009) huyện Phổ
Yên đã hoàn thành vƣợt mức các chỉ tiêu kế
hoạch đề ra. Tổng giá trị sản xuất năm 2009
của huyện là 1.610.675 triệu đồng. Năm 2007
- 2009 kinh tế của huyện đã có sự chuyển
biến tích cực. Về giá trị sản xuất, tốc độ tăng
trƣởng bình quân 2007 - 2009 là 17,61%.
Trong đó, ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản
chiếm 23,92%, tăng bình quân 2007 - 2009 là
4,06%; ngành công nghiệp, tiểu thủ công
Nguyễn Thu Hằng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 140 - 144
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 141
nghiệp và xây dựng cơ bản chiếm 55,87%,
tăng bình quân là 18,74%; ngành dịch vụ
chiếm 20,21%, tăng bình quân là 38,87%.[2]
Giá trị sản xuất ngành công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp và xây dựng cơ bản tăng nhanh
chủ yếu là giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp. Sản xuất công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp tăng nhanh, bình quân 2007 -
2009 là 22,79%. Xây dựng cơ bản có tốc độ
tăng chậm hơn, bình quân năm 2007 - 2009 là
11,22%. Tuy ngành dịch vụ có cơ cấu nhỏ
nhƣng lại có tốc độ phát triển nhanh, bình
quân 2006 - 2008 tăng 38,87% (Phòng thống
kê huyện Phổ Yên).
Mƣ́c sống của ngƣời dân huyện Phổ Yên có
xu hƣớng tăng lên. Giá trị sản xuất bình quân
đầu ngƣời tăng đều qua các năm từ năm 2007
- 2009 và cũng khá ổn định, hiện cao hơn
mức trung bình của toàn tỉnh. Lƣơng thực
bình quân đầu ngƣời năm 2009 đạt
391kg/ngƣời, cao hơn mức bình quân của
toàn tỉnh Thái Nguyên và bằng khoảng 83%
mức trung bình của cả nƣớc. Điều này cho
thấy vấn đề an ninh lƣơng thực ở huyện Phổ
Yên đã đƣợc đảm bảo tƣơng đối chắc chắn.
ẢNH HƢỞNG CỦA CÁC KHU CÔNG
NGHIỆP ĐẾN ĐỜI SỐNG HỘ NÔNG DÂN
Ở HUYỆN PHỔ YÊN
Ảnh hưởng tích cực
Một là, việc xây dựng các KCN góp phần làm
tăng giá trị sản xuất nông nghiệp trên một đơn
vị diện tích canh tác.
Các KCN phát triển mạnh mẽ làm diện tích
nông nghiệp bị thu hẹp dần. Do đó, các hộ
nông dân đã hƣớng tới việc sử dụng đất có
hiệu quả hơn bằng cách chuyển đổi cơ cấu
cây trồng từ lúa sang các loại cây ăn quả đặc
sản, cây rau có giá trị kinh tế cao. Vùng
chuyên canh cây ăn quả đƣợc mở rộng.
Cũng do quá trình xây dựng các KCN mà dân
cƣ đô thị đƣợc mở rộng, đời sống ngƣời dân
cũng đƣợc tăng lên nên nhu cầu tiêu dùng
hàng nông sản có chất lƣợng cao đƣợc tăng
lên đáng kể. Giá bán các loại quả đặc sản từ
đó cũng đƣợc nâng cao làm tăng giá trị thu
đƣợc từ vƣờn quả, tăng thu nhập cho ngƣời
nông dân.
Hai là, các KCN đi vào hoạt động sẽ góp
phần tạo ra nhiều việc làm cho ngƣời dân,
góp phần nâng cao đời sống cả về vật chất và
tinh thần, thúc đẩy công nghiệp nông thôn
ngày càng phát triển. Đây là một cơ hội tốt
mà chính quyền và ngƣời dân địa phƣơng cần
phải tận dụng.
Ba là, việc xây dựng và phát triển các KCN
sẽ là yếu tố cơ bản cho phát triển kinh tế và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế; Cơ cấu kinh tế
của huyện đã và đang có sự chuyển dịch theo
xu thế chung của các quốc gia phát triển. Đó
là tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, TTCN và
dịch vụ, từng bƣớc giảm dần tỷ trọng của
ngành nông nghiệp.
Bốn là, mở rộng qui mô, chất lƣợng của hệ
thống cơ sở hạ tầng nông thôn; nâng cao trình
độ văn hoá cho ngƣời dân.
Việc phát triển các KCN ở những vùng nông
thôn làm tăng khả năng nhận thức, tiếp thu
của ngƣời nông dân. Trình độ dân trí của
ngƣời nông dân mỗi ngày đƣợc nâng cao do
họ thƣờng xuyên đƣợc tiếp xúc với các
phƣơng tiện thông tin đại chúng, với khoa học
kĩ thuật hiện đại. Do đó ngƣời nông dân ngày
càng thể hiện đƣợc tính năng động, chủ động,
sáng tạo của mình. Họ mạnh dạn trong việc
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, sử dụng những
giống mới có năng suất và giá trị kinh tế cao.
Họ ham học hỏi, tìm tòi những qui trình kĩ
thuật chăm sóc tiên tiến; sử dụng thuốc trừ
sâu, phân bón ngày càng hợp lí và có hiệu
quả. Năng suất sản xuất nông nghiệp cũng
nhờ vậy mà ngày càng phát triển.
Nhƣ vậy, ảnh hƣởng tích cực của các KCN
đến đời sống kinh tế xã hội hộ nông dân là rất
lớn, nó góp phần nâng cao nhận thức, hiệu
quả kinh tế từ sản xuất nông nghiệp của hộ
nông dân. Do đó, các hộ nông dân cũng nhƣ
các ban ngành đoàn thể cần phải phối hợp hài
hoà, hợp lí, đồng bộ trong hầu hết công việc
để phát huy những ảnh hƣởng tích cực đó đến
đời sống kinh tế hộ.
Ảnh hưởng tiêu cực
Ngoài những ảnh hƣởng tích cực nhƣ phân
tích ở trên thì sự phát triển các KCN còn có
những tác động xấu đến đời sống kinh tế - xã
hội của hộ nông dân.
Nguyễn Thu Hằng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 140 - 144
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 142
Một là, quỹ đất nông nghiệp bị thu hẹp dần
làm qui mô sản xuất nhỏ lại. Quá trình CNH
diễn ra, các khu đô thị, khu công nghiệp, các
tuyến đƣờng liên tỉnh... liên tiếp đƣợc xây
dựng trên địa bàn huyện Phổ Yên, hầu hết lấy
từ diện tích đất nông nghiệp. Tới đây, diện
tích đất nông nghiệp ở huyện Phổ Yên sẽ lại
tiếp tục bị thu hẹp, dự án gần nhất trong
tƣơng lai sẽ là xây dựng khu đô thị, đƣờng
quốc lộ 3 mới... Do đó, qui mô sản xuất nông
nghiệp của hộ sẽ bị giảm đi.
Đất nông nghiệp bị giảm, làm cho chăn nuôi
gia súc, gia cầm bị giảm đi. Đất nông nghiệp
bị thu hồi, nhiều lao động sẽ không có kế sinh
nhai. Lao động nông nghiệp là lao động phổ
thông, hầu hết chƣa qua đào tạo tay nghề. Nếu
bị thu hồi hết đất thì nhiều lao động, đặc biệt là
những ngƣời đã có tuổi, chỉ quen với công việc
đồng áng sẽ lâm vào tình cảnh thất nghiệp
hoặc làm những việc không có tính ổn định lâu
dài. Đây là một vấn đề nan giải mà chính
quyền địa phƣơng cần chú tâm giải quyết.
Hai là, tác động đến môi trƣờng sinh thái, ảnh
hƣởng đến đời sống và sức khoẻ của ngƣời
dân địa phƣơng.
Phổ Yên là huyện công - nông nghiệp, vấn đề
môi trƣờng ở đây cũng đã và đang xuất hiện
những dấu hiệu bất cập đƣợc xem xét cả trên
3 góc độ là ô nhiễm không khí, tiếng ồn và ô
nhiễm nguồn nƣớc, rác thải. Các công ty, xí
nghiệp mọc lên, dân cƣ đông đúc nên nƣớc
thải ra nhiều, làm cho môi trƣờng đất thay
đổi, đồng thời cũng gây ô nhiễm môi trƣờng,
kìm hãm sự sinh trƣởng và phát triển của cây
trồng, vật nuôi. Năng suất lúa cũng nhƣ nuôi
trồng thủy sản vì vậy bị giảm đi nhiều. Các cơ
sở sản xuất TTCN cũng đã và đang đƣa vào
môi trƣờng một lƣợng chất thải khá lớn, ảnh
hƣởng đến chất lƣợng nông sản cũng nhƣ sức
khoẻ con ngƣời.
Ba là, một phần lớn lao động nông nghiệp
chuyển sang làm phi nông nghiệp do quá trình
xây dựng các KCN.
Nhiều nông dân nhất là tầng lớp thanh niên đã
di chuyển sang khu vực khác làm giảm lao
động nông nghiệp. Nhƣ vậy, nếu xét riêng ở
lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, sự giảm bớt lao
động nông nghiệp sẽ gây khó khăn cho sản
xuất, đặc biệt là vào thời gian chính vụ. Nhiều
hộ nông dân huyện Phổ Yên hiện nay vào thời
điểm cấy, gặt đã phải thuê lao động từ các địa
phƣơng khác với chi phí cao: Năm 2009 thuê
cấy là 70.000 đồng/công, thuê gặt là 90.000
đồng/công. Nhƣng xem xét trên tổng thể nền
kinh tế thì đây là một hiện tƣợng tích cực, nó
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hƣớng CNH, HĐH.
Bốn là, những nét đẹp truyền thống bị tổn hại,
tệ nạn xã hội không ngừng gia tăng.
Việc phát triển các KCN sẽ tạo điều kiện cho
các tệ nạn ma tuý, mại dâm, cờ bạc gia tăng
gây nhiều bức xúc trong dƣ luận xã hội và
nhân dân; về mặt trị an xét trên phạm vi toàn
xã hội thì nó không gây nhiều biến động lớn
nhƣng đối với ngƣời dân thì nó gây ra không
ít các ảnh hƣởng không tốt.
Tóm lại, xây dựng và phát triển các KCN là
một xu hƣớng tất yếu cho sự phát triển của
mỗi địa phƣơng, nhƣng những mặt tích của
nó chỉ thực sự phát huy một cách hiệu quả khi
chúng ta đồng bộ thực hiện ở các giai đoạn
của quá trình dựa trên sự bố trí và qui hoạch
tổng thể phù hợp, hạn chế đƣợc những tác
động tiêu cực từ việc xây dựng các KCN.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM
GÓP PHẦN ỔN ĐỊNH VÀ NÂNG CAO
ĐỜI SỐNG HỘ NÔNG DÂN VÙNG
ẢNH HƢỞNG
Giải pháp lao động - việc làm
Một nguyên nhân khiến cho ngƣời dân sau
thu hồi đất khó tìm đƣợc công việc mới thích
hợp cũng nhƣ khó thích nghi với công việc
mới là do trình độ văn hoá cũng nhƣ trình độ
chuyên môn của họ còn nhiều hạn chế, để
khắc phục đƣợc tình trạng này cần thực hiện
giải pháp sau:
- Cần xây dựng chiến lƣợc mang tính kịp thời
cũng nhƣ lâu dài về đào tạo việc làm cho
ngƣời lao động sau thu hồi đất gắn với chiến
lƣợc của thời kỳ CNH - HĐH.
- Hỗ trợ học phí cho con em trong diện bị thu
hồi đất, đồng thời khuyến khích các lao động
tham gia vào các lớp đào tạo nghề ngắn hạn,
nhằm nâng cao tay nghề để họ có thể chuyển
đổi ngành nghề.
Nguyễn Thu Hằng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 140 - 144
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 143
- Mở rộng quy mô cũng nhƣ chất lƣợng các
cơ sở đào tạo nghề để giúp họ nâng cao trình
độ chuyên môn nhằm tìm kiếm đƣợc những
công việc phù hợp, mang tính ổn định.
- Cần có sự phối kết hợp giữa các cơ sở đào
tạo với các doanh nghiệp để thực hiện công
tác đào tạo theo yêu cầu của doanh nghiệp và
sau khoá đào tạo những lao động này sẽ đƣợc
nhận vào các doanh nghiệp để làm việc.
- Cần có chính sách tạo điều kiện thuận lợi
cho các cơ sở sản xuất nhƣ ƣu đãi trong vay
vốn, miễn giảm thuế, hỗ trợ tìm kiếm thị
trƣờng tiêu thụ sản phẩm
- Đối với những lao động đã quá tuổi đào tạo
nghề mà bị mất đất thì cần khuyến khích họ
chuyển sang các ngành dịch vụ, TTCN với
các hình thức tín dụng thích hợp.
Giải pháp phát triển ngành nghề phi
nông nghiệp
Đây là một trong những giải pháp có tính hiệu
quả hiện nay trong việc giải quyết vấn đề lao
động nông thôn sau thu hồi đất, đồng thời tạo
điều kiện cho các hộ nâng cao thu nhập và ổn
định cuộc sống. Tuy nhiên, để phát triển đƣợc
các ngành nghề phi nông nghiệp cần phải:
- Hỗ trợ các hộ dân phát triển các ngành nghề
truyền thống thông qua việc khôi phục phát
triển các ngành nghề truyền thống ở địa
phƣơng, đồng thời mở thêm các ngành nghề
mới nhằm tạo thêm nhiều việc làm.
- Cấp đất ở những nơi thuận tiện trong việc
kinh doanh, buôn bán cho những hộ dân bị
thu hồi đất để họ chuyển đổi ngành nghề
nhằm tạo việc làm và nâng cao thu nhập.
Giải pháp chuyển dịch cơ cấu cây trồng
Để có thể nâng cao đƣợc kết quả và hiệu quả
kinh tế trong việc chuyển dịch cơ cấu cây
trồng, các hộ cần lựa chọn cây trồng phù hợp
với chất đất của mình nhất, tìm đƣợc giống
cây có năng suất cao và chất lƣợng sản phẩm
tốt. Nếu các hộ bố trí cơ cấu cây trồng phù
hợp sẽ góp phần nâng cao hiệu quả đầu tƣ và
hiệu quả sử dụng đất rõ rệt.
Để phục vụ cho việc chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, ở tầm vĩ mô, Nhà nƣớc cần điều tra
khảo sát mẫu đất từ đó, quy hoạch cụ thể vƣờn
cây, các khu chuyển đổi từ trồng lúa sang trồng
rau an toàn; hỗ trợ các cây giống có năng suất
và chất lƣợng cao. Tổ chức các lớp học tập
huấn về qui trình chăm sóc rau an toàn, giới
thiệu kịp thời loại thuốc phòng trừ sâu bệnh
cho ngƣời nông dân.
Ở tầm vi mô , các hộ nông dân cần chủ động
và mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở
những nơi thích hợp. Tăng cƣờng đầu tƣ vốn,
quản lí và chăm sóc vƣờn cây, đặc biệt là thời
kì kiến thiết cơ bản. Tuân thủ đúng với quy
trình kỹ thuật đã đƣợc hƣớng dẫn về tỉ lệ cây
trồng, phần bón, phun thuốc. Tìm hiểu và xác
định đúng loại sâu bệnh trên cây, từ đó có
biện pháp xử lí chính xác.
Ở nhữn g mảnh ruộng không thuận cho việc
trồng lúa do không đủ nƣớc tƣới, ngƣời dân
có thể trồng các loại rau cung cấp cho thị
trƣờng: rau muống, rau ngót, rau mồng tơi ...
Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng cần đặc biệt
chú ý đến hệ thống các công trình chung phục
vụ sản xuất nhƣ các công trình thuỷ lợi, điện,
đƣờng giao thông ... đảm bảo việc cung cấp
nƣớc đầy đủ, nguồn nƣớc sạch, đảm bảo vệ
sinh môi trƣờng. Khi chuyển đổi cần tuyệt đối
tránh việc làm ảnh hƣởng đến sản xuất của
các hộ xung quanh do không tính toán trƣớc
khi chuyển đổi.
Giải pháp về vốn
Để tạo điều kiện cho những lao động sau thu
hồi đất chuyển đổi ngành nghề và tạo thu
nhập ổn định thì cần phải có chính sách hỗ trợ
về vốn. Nhiều hộ đã mạnh dạn vay vốn để
đầu tƣ sản xuất kinh doanh, chuyển đổi cây
trồng. Nhƣ vậy, để phát triển sản xuất nông
nghiệp nói riêng cũng nhƣ kinh tế nói chung
cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các hộ
vay vốn để khuyến khích các hộ tăng cƣờng
đầu tƣ vào sản xuất kinh doanh để có thể nâng
cao thu nhập cho hộ.
Trong thời gian gần đây, việc vay vốn để phát
triển sản xuất đối với ngƣời dân đã tƣơng đối
thuận lợi. Ngân hàng và quĩ tín dụng đã cải
tiến một số thủ tục giúp cho nông dân vay vốn
đƣợc dễ dàng hơn. Tuy nhiên, Nhà nƣớc cần
tăng cƣờng vốn tín dụng dài hạn với lãi suất
ƣu đãi đối với những hộ chuyển đổi cây ăn
quả vì đây là loại cây sau vài năm mới cho
thu hoạch, tiền đầu tƣ ban đầu lại khá lớn.
Giải pháp đối với ô nhiễm môi trường
Năng suất và chất lƣợng của các mặt hàng
nông sản liên quan nhiều đến môi trƣờng, đặc
biệt là môi trƣờng nƣớc. Quá trình sản xuất,
sinh hoạt của ngƣời dân có liên quan trực tiếp
Nguyễn Thu Hằng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 140 - 144
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 144
tới môi trƣờng, đặc biệt là môi trƣờng nƣớc,
không khí. Vì vậy, để giải quyết về vấn đề ô
nhiễm môi trƣờng nƣớc, điều cần thiết là phải
có kế hoạch tập trung các khu công nghiệp,
khu dân cƣ, xây dựng hệ thống thoát nƣớc
một cách khoa học để tạo điều kiện dễ dàng
hoạt động xử lí nƣớc thải.
Đối với doanh nghiệp không thực hiện các
qui định về xử lí nƣớc thải do địa phƣơng đề
ra thì doanh nghiệp đó phải chịu phạt nhất
định về kinh tế hoặc về các thủ tục hành chính
(chẳng hạn nhƣ sau khi đƣợc phổ biến mà sau
3 tháng vẫn không chấp hành các tiêu chuẩn
về xử lí nƣớc thải sẽ bị yêu cầu tạm ngừng
hoạt động sản xuất kinh doanh).
Để có thể giải quyết đƣợc vấn đề ô nhiễm
nguồn nƣớc cần nâng cao nhận thức của
ngƣời dân bằng cách tuyên truyền tầm quan
trọng của việc bảo vệ môi trƣờng nƣớc.
Ngƣời dân không nên đƣa nƣớc thải trực tiếp
ra hệ thống mƣơng của huyện.
KẾT LUẬN
Phổ Yên là huyện trung du và là cửa ngõ phía
Nam của tỉnh Thái Nguyên, là nơi có môi
trƣờng đầu tƣ thuận lợi với nhiều tiềm năng,
cơ hội cho các nhà đầu tƣ trong và ngoài
nƣớc. Qua nghiên cứu về ảnh hƣởng của các
khu công nghiệp đến đời sống của hộ nông dân
huyện Phổ Yên chúng tôi rút ra một số kết luận
nhƣ sau:
- Quá trình xây dựng và phát triển các KCN
có tác động rất lớn đến tăng trƣởng kinh tế và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của toàn huyện ,
diện tích dất nông nghiệp giảm , số hộ thuần
nông giảm.
- Mức sống của hộ nông dân đƣợc tăng lên
trong thời gian qua do nhiều hộ nhận đƣợc
một khoản lớn tiền đền bù và tiền bán đất. Họ
sử dụng chúng vào việc xây dựng nhà cửa,
mua sắm vật dụng gia đình hay gửi tiết kiệm.
Một số khác họ đầu tƣ vào lĩnh vực phi nông
nghiệp để chuyển cơ cấu ngành nghề.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Hoàng Văn Định, Vũ Đình Thắng
(2002), Giáo trình Kinh tế phát triển nông
thôn, Nxb Thống kê, Hà Nội.
[2]. Phòng Thống kế huyện Phổ Yên - Niên
giám thống kê: , 2007, 2008, 2009
[3]. Vũ Thị Ngọc Phùng (2005), Giáo trình
Kinh tế phát triển, Nxb Lao động – Xã hội,
Hà Nội.
[4]. UBND tỉnh Thái Nguyên (2009), Báo
cáo sơ kết 3 năm thực hiện chương trình
“Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2006 - 2010”.
SUMMARY
THE INFLUENCE OF INDUSTRIAL AREAS ON THE LIVES OF THEIR FARMERS IN
PHO YEN DISTRICT OF THAI NGUYEN CITY
Nguyen Thu Hang1, Duong The Ngoc 2
1College of Sciences - TNU, 2Thai Nguyen University
Pho Yen district is the highlight of Thai Nguyen province in attracting investment, economic restructuring, the
growth rate of GDP reached 17.5% in 2008, per capita income to reach 13-15 million Vietamese dong per year
.First calculated in 2009 the production value that businesses/ interprises created a 538.7 billion Vietnamese
dong, clearance for industrial areas development more than 2000ha, jobs for 1.555 workers.
Creating new dynamics/ motivation for developing of various industries and services, life of the strata is
markedly improved; political security, social safety and order are stable and maintained; the trust of people on
the renovation of the country and initiated by our party leadership is strengthened, the rule of State law system
operates more and more effectively and efficiently.
Keyword: industrial areas, the life of rural households, economic structure, economic growth, affect
Nguyễn Thu Hằng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 140 - 144
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 145
SUMMARY
THE INFLUENCE OF INDUSTRIAL AREAS ON THE LIVES OF THEIR FARMERS IN
PHO YEN DISTRICT OF THAI NGUYEN CITY
Nguyen Thu Hang1, Duong The Ngoc 2
1College of Sciences - TNU, 2Thai Nguyen University
Pho Yen district is the highlight of Thai Nguyen province in attracting investment, economic restructuring,
the growth rate of GDP reached 17.5% in 2008, per capita income to reach 13-15 million Vietamese dong
per year .First calculated in 2009 the production value that businesses/ interprises created a 538.7 billion
Vietnamese dong, clearance for industrial areas development more than 2000ha, jobs for 1.555 workers.
Creating new dynamics/ motivation for developing of various industries and services, life of the strata is
markedly improved; political security, social safety and order are stable and maintained; the trust of people
on the renovation of the country and initiated by our party leadership is strengthened, the rule of State law
system operates more and more effectively and efficiently.
Keyword: industrial areas, the life of rural households, economic structure, economic growth, affect
Tel: 0912108538
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_32807_36643_2382012152851140144_1329_2051948.pdf