Angorít và việc dạy Tiếng việt - Trương Dĩnh

KẾT LUẬN Angorít là một thuật toán được vận dụng vào việc dạy ngôn ngữ, chủ yếu được đặc trưng ở thao tác tư duy và quy trình thao tác tư duy (hỏi và trả lời) để giải quyết “bài toán” ngôn ngữ. Angorít cần được phân biệt với quy tắc và kỹ năng, kỹ xảo. Cần thấy rõ sự phân biệt giữa angorít trí tuệ và angorít thực hành có mối quan hệ chuyển hóa từ ý thức đến hành động. Chương trình ngôn ngữ chứa đựng nhiều quy tắc nhưng đó không phải là angorít tuy rằng có khi nó được xác lập theo “bước”. Ý nghĩa của việc dạy học theo angorít rất lớn đối với ngôn ngữ. Đó là những hướng hiện đại hóa dạy học tích hợp với tâm lý học hoạt động, lý luận ngôn ngữ và con đường phát huy vai trò chủ thể của học sinh. Dạy theo angorít là dạy tư duy tái hiện dẫn đến tư duy sáng tạo nhằm phát triển năng lực tâm trí từ hành động bên ngoài chuyển vào hành động bên trong. Dạy học theo angorít có tác dụng khắc phục cách dạy, ngôn ngữ áp đặt như hiện nay. Có rất nhiều con đường dạy theo angorít đối với ngôn ngữ theo cách luyện cho học sinh xác lập angorít rồi thực hiện angorít, đối chiếu angorít để tìm angorít tối ưu, sửa chữa angorít không phù hợp, tăng tốc độ thực hiện angorít. Trong bất cứ con đường nào, mối liên hệ đơn trị giữa điều kiện và hành động là cần thiết cho việc giải các “bài toán” có thể áp dụng angorít. Tuy nhiên không phải bất cứ “bài toán” ngôn ngữ nào (bài toán dễ) cũng cần áp dụng angorít. Dạy học ngôn ngữ theo angorít cần chú ý trước hết đến angorít hình thành khái niệm trên cơ sở biết xác lập công thức lô gích của định nghĩa khái niệm.

pdf10 trang | Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 501 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Angorít và việc dạy Tiếng việt - Trương Dĩnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế ISSN 1859-1612, Số 04(12)/2009: tr. 139-148 ANGORÍT VÀ VIỆC DẠY TIẾNG VIỆT TRƯƠNG DĨNH Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế Tóm tắt: Với ý nghĩa tích hợp tâm lý, ngôn ngữ học, sư phạm học, angorít được vận dụng vào việc dạy ngôn ngữ là một phương hướng hiện đại hóa việc dạy học ngôn ngữ theo hướng phát huy năng lượng trí tuệ học sinh từ tái hiện đến sáng tạo. Muốn vận dụng angorít hóa việc dạy học ngôn ngữ, cần hiểu khái niệm angorít (thuật toán) và phân biệt với các khái niệm liên quan: angorít trí tuệ - angorít thực hành, angorít người và angorít máy, quy tắc và angorít, kỹ năng, kỹ xảo và angorít... Các con đường dạy ngôn ngữ theo angorít rất đa dạng từ việc luyện tập xác lập angorít, thực hành angorít, chuyển đổi angorít... Angorít hóa việc dạy ngôn ngữ, cần bắt đầu từ các angorít hình thành khái niệm được xác lập từ các công thức lô gích A là B của các định nghĩa khái niệm và tiếp tục với các angorít thực hành trên cơ sở học sinh đã nắm vững khái niệm. MỞ ĐẦU Hiện nay, chương trình ngôn ngữ trong nhà trường (bao gồm Tiếng Việt và làm văn) ngày càng được hoàn thiện theo sách mới với số lượng rất lớn về các khái niệm tường minh, được xác lập theo hệ thống, với các bài tập thực hành đa dạng từ bài tập nhận diện, bài tập cải biên, bài tập sáng tạo và bài tập chữa lỗi. Tất cả nhằm nâng cao hiệu quả dạy tiếng việt phát huy năng lực trí tuệ và khả năng thực hành của học sinh. - Tuy nhiên, phương pháp dạy học Tiếng việt trong nhà trường chưa có chuyển biến đáng kể, một mặt do ý thức chưa thật sự coi trọng bản ngữ, mặt khác do lúng túng về phương pháp dù các định hướng cải tiến đã được nêu và học tập qua nhiều năm nay. Các khái niệm ngôn ngữ thường được truyền đạt một cách áp đặt: nêu định nghĩa, giải thích sơ sài, cho chép và yêu cầu học thuộc nhưng học sinh không hiểu được nội hàm định nghĩa. Từ đó, rất lúng túng trong việc giải bài tập, nhất là bài tập thực hành vận dụng khái niệm ngôn ngữ. Về việc giải bài tập, giáo viên cũng chỉ chú ý đến đáp số (thường là học sinh trả lời mò mẫm), không chú ý dạy qui trình giải. Vì vậy, gặp các bài tập khác mẫu thì học sinh lúng túng. - Lý luận dạy học hiện đại trong các thập kỷ gần đây đã quan tâm đến việc dạy học tích cực hóa, phát triển tư duy lô gíc, tư duy thẫm mĩ, rèn luyện năng lực sáng tạo của học sinh. Song hành với tâm lý học hành động, dạy học nêu vấn đề, quan điểm phát huy vai trò chủ thể của học sinh, angorít hóa việc dạy học, đặc biệt với các khoa học chính xác như Toán, ngôn ngữ, tin học... là một phương hướng dạy học mang tính tích hợp cao, có tính khả thi đối với việc cải tiến cách dạy ngôn ngữ và đem lại hiệu quả. - Vận dụng angorít vào việc dạy ngôn ngữ đòi hỏi trước hết phải nắm chắc khái TRƯƠNG DĨNH 140 niệm gần gũi như qui tắc, kĩ năng, kĩ xảo, đối chiếu angorít trí tuệ angorít thực hành, angorít máy và angorít đối với người dạy và học..., thấy được angorít không chỉ rèn luyện năng lực tái hiện mà cả năng lực sáng tạo. Đặc biệt cần chú ý đến các angorít nhận biết nhằm chiếm lĩnh khái niệm và vận dụng khái niệm. 1. ANGORÍT LÀ GÌ? 1.1. Trong cuộc sống hàng ngày, mọi hoạt động trí óc chân tay của ta đều được thực hiện theo các qui trình thao tác, dù ở trình độ có ý thức hay chỉ do thói quen. Có những qui trình đơn giản như qui trình bật điện (chỉ cần một thao tác) đến các qui trình phức tạp hơn như qui trình sử dụng máy thu thanh, truyền hình, băng video, làm văn, xây dựng các văn bản... Các qui trình thao tác để hoạt động trong đời sống, nếu là đơn giản thì con người có thể tự mày mò (có thể mất thời gian) nhưng với các quy trình phức tạp trong cuộc sống sinh hoạt hiện nay thì con người phải học tập để hiểu biết và sử dụng các qui trình đó. Có thể nói, trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta không ngừng vận dụng angorít và nâng cao năng lực vận dụng cho phù hợp với cuộc sống hiện đại. 1.2. Angorít được phiên âm từ thuật ngữ toán học “algorithme” dùng để chỉ một qui trình thao tác (chân tay hay trí óc) được xác định, có tính đơn giá nhằm thực hiện một cách có hiệu lực các “bài toán” thuộc một loại nhất định trong đời sống *. Nói đến angorít là nói đến các yếu tố sau: thao tác, qui trình thao tác (sự sắp xếp trước sau của các thao tác theo trật tự xác định), thao tác mở đầu, thao tác kết thúc, tính đơn giá của thao tác, hiệu quả của hành động do angorít đem lại. 1.3. Cần phân biệt angorít hoạt động trí tuệ và angorít hoạt động thực hành: Trong nhiều trường hợp, người ta biết rõ cơ chế của hoạt động trí tuệ nhất định. Lý do là vì nhiều quá trình trí tuệ không biểu hiện ra ngoài, không thể quan sát được. Do đó, ý thức được và mô tả được nó là rất khó khăn. 1.4. Cũng cần phân biệt angorít hành động và qui tắc hoạt động. Qui tắc là khái niệm rộng lớn (có khi kém xác định hơn). Một angorít có thể xem là qui tắc, nhưng không phải mọi qui tắc đều là angorít. 1.5. Angorít và kỹ năng, kỹ xảo. Hiện nay, khái niệm kỹ năng và kỹ xảo không phải là khái niệm được xác định trong tâm lý học và giáo dục học. Khái niệm “angorít”, “lệnh angorít”, “quá trình angorít” là khái niệm chính xác hơn nhiều. Nó nêu ra những lệnh và quá trình hoàn toàn xác định, có tính đơn giá hơn. Khái niệm “angorít”, thuộc diện những lệnh thực hiện các thao tác nhất định, còn các khái niệm “kỹ năng, kỹ xảo” thuộc diện thực hiện angorít thành thục hiệu quả. Có qui trình được mệnh danh là kỹ năng (kỹ năng toán, nghiên cứu khoa học) về mặt cơ chế không có tính chất angorít, ngược lại, một người đầu tiên thực hiện một quá trình angorít chưa phải là người có kỹ năng, kỹ xảo tương ứng. Nói đến kỹ năng, kỹ xảo là nói đến không chỉ biết angorít mà còn nắm được angorít (vận dụng được) ở mức thành thạo. Kỹ xảo là giai đoạn phát triển cao nhất của quá trình angorít, khi qui trình angorít đạt đến trình độ tự động. * L.N. Lan da (1966). Angorít hóa trong dạy học. NXBGiáo dục Mạc Tư Khoa (Bản tiếng Nga) ANGORÍT VÀ VIỆC DẠY TIẾNG VIỆT 141 1.6. Cần phân biệt angorít đối với con người khác về bản chất đối với Angorít lập cho máy tính. Đối với máy tính, angorít được quyết định bởi cấu tạo của máy đó và các thao tác sơ cấp của máy đó. Thường là hệ thống thao tác hết sức chi li để máy có thể hoàn thiện hành động giải. Đối với con người, thao tác còn phụ thuộc vào “Cấu tạo” của não. Não là một hệ thống tự hoàn thiện bản thân. Trong quá trình hoạt động, não cũng phát triển các đặc tính của bản thân mình. Chính vì thế một thao tác sơ cấp của máy tính có thể không là sơ cấp với người, một thao tác sơ cấp của người không là sơ cấp đối với người khác. Angorít trong dạy học là angorít dạy học sinh. Lệnh angorít học tập phải phù hợp với đặc điểm và trình độ tư duy của học sinh. Từ đó có sự phân biệt angorít đơn giản và Angorít phức tạp (thao tác nhiều, sự chuyển thao tác khó khăn, mỗi thao tác là một hành động tư duy cao). 2. Ý NGHĨA VÀ CÁC BIỆN PHÁP DẠY HỌC ANGORÍT TRONG NHÀ TRƯỜNG 2.1. Ý nghĩa 1. Trong thời gian gần đây, vấn đề dạy các thao tác trí tuệ cho học sinh đang thu hút sự quan tâm đặc biệt của các nhà tâm lý học và giáo dục học cũng như các phương pháp giảng dạy bộ môn. Người ta đã tìm ra các thao tác trí tuệ dành cho việc dạy toán (các angorít giải toán). Việc khám phá ra angorít giải toán đã dẫn đến một cuộc cách mạng trong thực tiễn dạy học môn toán. Ngoài ra, người ta cũng đã nghiên cứu việc angorít hóa trong việc dạy ngôn ngữ (tiếng Nga). Và cũng nhận thấy rằng dạy qui trình thao tác trí tuệ không chỉ áp dụng cho môn toán và ngôn ngữ mà có thể cho tất cả các môn học. Việc tìm ra các angorít giải các “bài toán” khác nhau thuộc các môn học không chỉ giúp học sinh giải bài toán đó một cách nhanh chóng mà còn cho phép học sinh nắm môn học một cách dễ dàng hơn. Điều này có ý nghĩa lớn khi học sinh hiện nay đang phải học một lượng tri thức quá tải. 2. Có thể nói nhiệm vụ cơ bản của việc dạy angorít cho học sinh là làm sao cho học sinh nắm được angorít. Còn biết angorít chỉ là phương diện để đạt mục đích đó. Các công trình nghiên cứu tâm lý cho thấy rằng điều quan trọng không chỉ là làm cho học sinh hiểu rõ các sự vật và hiện tượng của thế giới bên ngoài mà còn là làm sao cho họ hiểu cần phải hành động như thế nào đối với các sự vật và hiện tượng đó. Tri thức về hành động biểu hiện như một hệ thống điều khiển cấp cao, nó điều chỉnh quá trình thao tác trí tuệ, nó hướng dẫn cho quá trình tư duy hình thành nhanh hơn, dễ hơn, ít chệch khỏi con đường đúng. Nhờ ý thức rõ thao tác nên có thể dễ dàng chuyển các thao tác đó sang các điều kiện mới. Khả năng chuyển sang các điều kiện mới đó đến lượt nó giúp khái quát hóa mới. Khả năng chuyển sang các điều kiện mới đó đến lượt nó lại giúp khái quát hóa các thao tác được rộng hơn và nhanh chóng hơn, điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển trí tuệ học sinh. Phạm vi chuyển càng rộng thì càng có nhiều khả năng tiến hành những “qui trình” suy nghĩ độc đáo mới. Chúng ta đều biết: các phát minh khoa học và kỹ thuật phần nhiều là dựa trên cơ sở chuyển hóa các phương pháp đã biết vào những đối tượng mà trước đây ta chưa áp dụng. TRƯƠNG DĨNH 142 3. Dạy học angorít còn có ý nghĩa hệ thống hóa các thao tác về nhiều phương diện. Ví dụ: Có thể lập angorít nhận biết chủ ngữ, từ angorít nhận biết chủ ngữ, lập angorít nhận biết câu đơn, từ angorít nhận biết câu đơn lập angorít nhận biết câu phức, học sinh phải đi sâu vào cấu trúc đối tượng cần nhận biết, vào quá trình tư duy tổng quát, phải biết phân tích - tổng hợp... tất cả các điều đó có tác dụng rất lớn trong việc phát triển học sinh. 4. Có thể nảy ra câu hỏi: Liệu dạy angorít cho học sinh (mối liên hệ đơn trị giữa điều kiện và hành động) có thể dẫn đến tình trạng “rập khuôn” tư duy học sinh không, có nguy cơ tạo sự kìm hãm sức sáng tạo của học sinh hay không? Có thể trả lời như sau: - Dạy học không chỉ dạy tư duy sáng tạo mà còn dạy tư duy tái hiện làm cơ sở cho tư duy sáng tạo, không thể có quá trình sáng tạo nếu từng khâu của quá trình đó (khâu cơ sở) không được tự động hóa. Ví dụ: kỹ năng đọc sáng tạo và các thao tác đọc cơ bản. - Dạy học angorít đúng đắn nhất thiết phải dạy học sinh tự lực khám phá angorít, xây dựng angorít, phát biểu angorít, thực hiện angorít... về mặt tâm lý, đó là quá trình sáng tạo. - Dạy học angorít không hề kìm hãm óc sáng tạo của học sinh khi giải các “bài toán” không có angorít hay chưa biết angorít. - Điều quan trọng không phải là dạy học angorít kìm hãm tư duy sáng tạo mà là trong thời đại phát triển khoa học - kỹ thuật như vũ bão hiện nay, tư duy sáng tạo của việc dạy học angorít chưa chiếm được một vị trí quan trọng trong dạy học, nhất là đối với các môn không phải là toán. - Chắc chắn là dạy học angorít sẽ giúp cho học sinh tránh được quá trình “làm thử và sai” trong việc giải các “bài toán”. Điều đó sẽ rất rõ ràng trong việc dạy chính tả và viết câu cho học sinh. - Mối liên hệ đơn trị giữa điều kiện và hành động là cần thiết cho việc giải các “bài toán” có thể áp dụng angorít. Còn với các “bài toán” khác mà trình tự thao tác có thể biến đổi khi giải hoặc có khi trình tự thao tác không cần thiết thì việc vận dụng angorít đơn trị không đồi hỏi phải áp dụng vững chắc hay là một điều kiện bắt buộc. Ở đây, còn cần phải nói đến khả năng cá biệt hóa các phương thức áp dụng Angorít, tức là áp dụng angorít tùy theo năng lực của mỗi học sinh. 5. Thực tiễn nghiên cứu angorít hóa dạy học đang còn nhiều nhược điểm: quá trình hoạt động tư duy thường không được phân tích thành một số nhất định những thao tác sơ cấp đơn giản đủ mức, chưa tìm ra được các trình tự thao tác hợp lý nhất trong các điều kiện cụ thể nào đó, chưa phát hiện được angorít, lập angorít và mô tả angorít nhằm mục đích dạy học, chưa phát hiện được các hệ thống angorít, phát hiện mối quan hệ giữa các hệ thống đó đi đến các angorít tổng quát nhất, tức là đi đến được phương pháp tư duy tổng quát đủ mức, giúp học sinh thu nhận kiến thức và vận dụng kiến thức vào các điều ANGORÍT VÀ VIỆC DẠY TIẾNG VIỆT 143 kiện cực kỳ muôn vẻ. Tóm lại, việc vạch ra các hệ thống thao tác trí tuệ, tổng quát làm cơ sở cho việc lĩnh hội các tri thức nhất định và giải các bài toán nhất định vẫn chưa trở thành nguyên tắc chỉ đạo của việc xây dựng hệ phương pháp dạy học hiện nay. 2.2. Những biện pháp dạy học theo angorít 1. Có thể bắt đầu bằng cách truyền đạt cho học sinh lệnh angorít, rồi sau đó luyện tập cho họ thực hiện các hành động theo lệnh angorít. Thí dụ: truyền đạt cho học sinh angorít tìm hiểu đề tài văn và sau đó phân tích để hiểu một đề văn. 2. Có thể luyện cho học sinh thực hiện giải một bài tập rồi sau đó, yêu cầu học sinh khái quát thành lệnh angorít. Thí dụ, hướng dẫn làm dàn ý đại cương cho bài văn rồi sau đó yêu cầu các em khái quát về trình tự các thao tác xây dựng một dàn ý. 3. Có thể cho một bài tập và để học sinh tìm angorít giải sau đó thực hiện angorít đó. Thí dụ: Yêu cầu học sinh chữa một lỗi về ngữ pháp và sau đó các em khái quát angorít chữa lỗi và thực hiện angorít đó. 4. Có thể cho một bài tập và cho hai học sinh giải, một em mò mẫm cách giải, một em đã có sẵn angorít và so sánh tốc độ giải, kết quả giải. 5. Có thể cho một bài tập, truyền đạt các angorít giải khác nhau để hai em học sinh thực hiện sau đó đối chiếu để tìm ra angorít hợp lý nhất để giải bài toán đó. Thí dụ: Cho một bài tập dựng đoạn, giới thiệu một angorít dựng theo lối quy nạp, một angorít dựng theo lối diễn dịch, sau đó đối chiếu tốc độ và chất lượng đoạn văn. 6. Có thể cho một bài tập và một angorít giải, sau đó cho học sinh thảo luận để cải tiến angorít đó. Thí dụ: đối chiếu cách thực hiện angorít tối đa và angorít tối thiểu đối với việc thiết kế một bài giảng văn hay bài dạy Tiếng Việt. 7. Đối chiếu hiệu quả bài dạy không áp dụng angorít và bài dạy áp dụng angorít để thấy rõ lợi ích của việc dạy theo angorít - (truyền đạt căn cứ vào angorít và luyện tập căn cứ vào angorít với việc thuyết giảng và luyện tập chỉ căn cứ vào đáp số). 8. Cho một bài tập, cho một angorít giải và luyện tập để tăng dần tốc độ vận dụng angorít. Thí dụ angorít chữa lỗi câu, luyện tập nhiều lần để chữa câu nhanh mà vẫn đúng. 3. ANGORÍT HÓA TRONG VIỆC DẠY TIẾNG VIỆT 2.1. Cấu trúc bài học tiếng việt trong sách giáo khoa Nhìn chung, cấu trúc bài học tiếng việt hiện nay gồm phần: Khái niệm (gắn với thuật ngữ) cần cung cấp và luyện tập. Có một số bài có kiến thức phân loại. 1. Khái niệm được diễn đạt bằng các định nghĩa theo các cách diễn đạt khác nhau nhưng nhìn chung chưa được định nghĩa theo công thức lô gích (A là B) trong đó B chứa đựng các yếu tố nội hàm của A. Cũng do cách dạy áp đặt (đọc định nghĩa, giải thích qua loa và cho chép mặc dù đã có sách) nên học sinh thường không nắm chắc khái niệm, do đó TRƯƠNG DĨNH 144 lúng túng trong việc giải bài tập. Thực ra thì bài tập là sự vận dụng khái niệm ngôn ngữ và ngược lại, bài tập cũng sẽ củng cố lại khái niệm. Vì vậy, việc hình thành khái niệm tiếng việt cho học sinh cần được giáo viên diễn đạt lại theo công thức lô gích của định nghĩa để làm rõ các dấu hiệu của khái niệm. 2. Thí dụ: “Khi nói hoặc viết, người ta có thể dùng biện pháp lặp lại từ ngữ (hoặc cả câu) để làm nổi bật ý, gây cảm xúc mạnh. Cách lặp lại như vậy gọi là phép điệp ngữ, từ ngữ được lặp lại gọi là điệp ngữ. (Ngữ văn 7. tập I trang 152) Cần chuyển đổi như sau: “Điệp ngữ là phép tu từ lặp lại từ ngữ (hoặc cả câu) để làm nổi bật ý, gây cảm xúc mạnh” (Công thức lô gíc: A ! X (a ∧ a’) & x (b) ) Dấu hiệu (a, á) là “lặp lại từ ngữ” (hoặc cả câu), dấu hiệu (b) là “làm nổi bật ý, gây cảm xúc mạnh”. Dấu hiệu (x) chỉ phép tu từ. Có thể nói khái niệm trong bài tiếng việt là tiền đề quan trọng của bài học tiếng việt, quyết định việc luyện tập được ý thức hóa, đưa đến hiệu quả đích thực của bài học tiếng việt cả về mặt lý thuyết và kĩ năng, 3. Phần luyện tập (theo thống kê sơ bộ) hầu hết thuộc các dạng sau đây: dạng nhận diện đối tượng thuộc khái niệm, dạng cải biến đối tượng thuộc khái niệm, dạng sáng tạo đối tượng thuộc khái niệm và dạng chỉnh đối tượng được sử dụng sai. Theo trình độ nêu ra thì bài “toán” nhận diện là bài tập đầu tiên có tác dụng củng cố lại khái niệm, còn các bài tập sau là tiếp nối các bài tập nhận diện ở các mức phức tạp hóa dần, nhưng bao giờ cũng không thoát khỏi việc tái hiện lại khái niệm. Có thể coi các bài tập là cái “bài toán” có mô hình: dữ kiện (tri thức đã biết), kết luận (đáp số bài tập) và angorít (quy trình thao tác) để từ dữ kiện đi đến kết luận. 3.2. Những angorít khả thi trong việc dạy Tiếng Việt 3.2.1. Angorít hình thành khái niệm: (thường được thực hiện phối hợp giữa thầy và trò. Mô hình “bài toán” a. Angorít quy nạp 1. Học sinh đọc thí dụ (hay câu hỏi) 2. Giáo viên góp ý phân tích (hay trả lời) các thí dụ (hay câu hỏi) 3. Giáo viên góp ý cho học sinh khái quát định nghĩa khái niệm 4. Giáo viên chỉnh sửa định nghĩa theo công thức lôgíc A ! B (chỉ ra các dấu hiệu của khái niệm). 5. Học sinh đọc phần ghi nhớ về định nghĩa khái niệm. b. Angorít diễn dịch Cho một số thí dụ (hoặc câu hỏi), hãy phân tích (hay trả lời) để tìm định nghĩa ANGORÍT VÀ VIỆC DẠY TIẾNG VIỆT 145 + Mô hình “bài toán” 1. Giáo viên cung cấp định nghĩa theo công thức A ! B 2. HS phân tích các thí dụ (hay trả lời câu hỏi) để minh họa các dấu hiệu của A. 3. Giáo viên củng cố lại định nghĩa. 4. Học sinh đọc định nghĩa trong phần ghi nhớ 3.2.2. Angorít nhận diện (thường dùng cho việc tự lực giải của học sinh) a. Angorít nhận diện Mô hình “ bài toán”: 1. Học sinh nhắc lại các dấu hiệu của khái niệm 2. Học sinh giả thiết các đối tượng thuộc khái niệm trong văn cảnh 3. Học sinh dựa vào khái niệm, phân tích các dấu hiệu của đối tượng 4. Học sinh khẳng định đối tượng thuộc khái niệm hay không 5. Giáo viên kết luận đáp số. b. Angorít cải biên Mô hình “bài toán” 1. Học sinh nhớ lại dấu hiệu của khái niệm 2. Học sinh xác định đối tượng cần cải biên (thay, thêm, bớt) 3. Học sinh giả thiết các đối tượng cải biên 4. Học sinh kiểm nghiệm tính hợp lý của đối tượng cải biên được chọn trong văn cảnh. 5. Giáo viên khẳng định đáp số. c. Angorít sáng tạo Mô hình “bài toán”: Cho một định nghĩa đã được chuyển đổi theo công thức A ! B, hãy minh họa định nghĩa đó bằng các thí dụ trong sách giáo khoa Từ khái niệm đã hiểu, hãy nhậ diện đối tượng thuộc khái niệm tro g văn cảnh Từ khái niệm đã hiểu, hãy biến đổi theo yêu cầ đối tượ g thuộc khái iệm đó trong văn cảnh “Từ khái niệm đã được hiểu, hãy tạo một văn cảnh có chứa đựng đối tượng thuộc khái iệm TRƯƠNG DĨNH 146 1. Học sinh nhớ lại dấu hiệu khái niệm 2. Giả thiết một văn cảnh (nhỏ hay lớn) có sử dụng đối tượng thuộc khái niệm. 3. Dựa vào dấu hiệu khái niệm, kiểm tra lại tính chính xác của sự sáng tạo. 4. Giáo viên đánh giá kết quả sáng tạo d. Angorít chỉnh sửa Mô hình “bài toán”: 1. Học sinh nhớ lại khái niệm 2. Học sinh phát hiện các đối tượng được sử dụng sai khái niệm 3. Học sinh tìm nguyên nhân của việc sử dụng sai 4. Học sinh chỉnh sửa theo các phương án khác nhau 5. Học sinh không khẳng định một phương án tối ưu 6. Giáo viên không khẳng định kết quả chỉnh sửa 3.3. Một số điều cần lưu ý khi vận dụng angorít - ý nghĩa tâm lý học với sự phát triển học sinh khi sử dụng angorít trong học tập Tiếng Việt Như đã nói ở trên, angorít dạy học tiếng việt là angorít trí tuệ (khác với angorít máy) về số lượng thao tác (có khi do tình huống học phải thêm thao tác), về quy trình thao tác (có khi do trình độ học sinh mà quay lại thao tác đã qua), đặc biệt là về tính đơn tri của angorít trí tuệ (chỉ có angorít đó mới giải quyết được bài toán và loại bài toán đó). Vì vậy vai trò của giáo viên khi dạy angorít là hết sức quan trọng, giáo viên phải biết sử dụng angorít tùy thuộc vào nội dung bài học, trình độ học sinh, đi từ dễ đến khó (theo 8 biện pháp đã nêu ở trên) bắt đầu từ angorít do thầy dắt dẫn angorít và học sinh thể hiện (dễ nhất) đến angorít tự học sinh xác lập và thực hiện (khó hơn cả). Từ đầu năm học, giáo viên phải công bố angorít cho học sinh qua bài dạy và duy trì vận dụng nhất quán từ đầu năm đến cuối năm học các angorít đó. Tuy không dễ thực hiện nhưng dạy học theo angorít là một hướng dạy học hiện đại đã được phổ biến ở Châu Âu, đặc biệt ở Liên Xô (cũ) từ thập niên cuối thế kỉ 19, nhưng ở ta vẫn là mới mẻ. Tâm lý học hoạt động đề cập đến khái niệm hoạt động, hành động và thao tác trong dạy học, coi trọng quy trình đi đến hiệu quả học tập hơn là hiệu quả học tập. Những hành động bên ngoài (hành động vật chất hóa) được thực hiện thường xuyên sẽ chuyển dần thành hành động bên trong, dẫn đến năng lực phản xạ tự nhiên mà đúng đắn trong hành động. Nếu từ đầu học sinh phải công bố angorít và thực hiện lệnh angorít để tìm lời giải bằng cách nói to lệnh angorít thì khi angorít hoạt động được thuần thục trở thành kỉ “Từ khái niệm đã được học, hãy chữa lại đối tượng trong văn cảnh sao cho đối tượng thể hiện đúng dấu hiệu của khái niệm ANGORÍT VÀ VIỆC DẠY TIẾNG VIỆT 147 năng, kỉ xảo, đó chính là lúc yếu tố tâm lý của học sinh được phát triển. Mà phát triển tâm lý là phát triển con người. KẾT LUẬN Angorít là một thuật toán được vận dụng vào việc dạy ngôn ngữ, chủ yếu được đặc trưng ở thao tác tư duy và quy trình thao tác tư duy (hỏi và trả lời) để giải quyết “bài toán” ngôn ngữ. Angorít cần được phân biệt với quy tắc và kỹ năng, kỹ xảo. Cần thấy rõ sự phân biệt giữa angorít trí tuệ và angorít thực hành có mối quan hệ chuyển hóa từ ý thức đến hành động. Chương trình ngôn ngữ chứa đựng nhiều quy tắc nhưng đó không phải là angorít tuy rằng có khi nó được xác lập theo “bước”. Ý nghĩa của việc dạy học theo angorít rất lớn đối với ngôn ngữ. Đó là những hướng hiện đại hóa dạy học tích hợp với tâm lý học hoạt động, lý luận ngôn ngữ và con đường phát huy vai trò chủ thể của học sinh. Dạy theo angorít là dạy tư duy tái hiện dẫn đến tư duy sáng tạo nhằm phát triển năng lực tâm trí từ hành động bên ngoài chuyển vào hành động bên trong. Dạy học theo angorít có tác dụng khắc phục cách dạy, ngôn ngữ áp đặt như hiện nay. Có rất nhiều con đường dạy theo angorít đối với ngôn ngữ theo cách luyện cho học sinh xác lập angorít rồi thực hiện angorít, đối chiếu angorít để tìm angorít tối ưu, sửa chữa angorít không phù hợp, tăng tốc độ thực hiện angorít... Trong bất cứ con đường nào, mối liên hệ đơn trị giữa điều kiện và hành động là cần thiết cho việc giải các “bài toán” có thể áp dụng angorít. Tuy nhiên không phải bất cứ “bài toán” ngôn ngữ nào (bài toán dễ) cũng cần áp dụng angorít. Dạy học ngôn ngữ theo angorít cần chú ý trước hết đến angorít hình thành khái niệm trên cơ sở biết xác lập công thức lô gích của định nghĩa khái niệm. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Lan da L. N. (1966), Angorít hóa trong dạy học, NXB Giáo dục, Mạc Tư Khoa (bản tiếng Nga). [2] Flores. C (1975), Trí nhớ xét từ tâm ý học thực nghiệm, Pari (bản tiếng Pháp). [3] Trương Dĩnh (1974), Hình thành khái niệm ngữ pháp trong việc dạy học ngôn ngữ. Tạp chí Ngôn ngữ. [4] Trương Dĩnh (1996), Giải bài tập theo angorít lớp 9, 10, 11, 12 (Sách chuyên ban), NXB Giáo dục. [5] Trương Dĩnh (1997), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về dạy học tiếng Việt ở trường trung học, NXB TP Hồ Chí Minh. [6] Trương Dĩnh (2002), Tổ chức và sử dụng tình huống có vấn đề theo angorít trong việc dạy ngữ pháp, trong tài liệu: Thiết kế mới về dạy học tiếng việt lớp 11, NXB Giáo dục. [7] Trương Dĩnh (2009), Giải câu hỏi và bài tập Ngữ văn 9 theo angorít, NXB Giáo dục. TRƯƠNG DĨNH 148 Title: ALGORITHM AND VIETNAMESE TEACHING Abstract: Being an integration of psychology, linguistics and pedagogy, algorithm is applied into teaching linguistics as a method of enhancing students’ ability of creativeness. Teaching a language by algorithm is rather diversified such as algorithm determination, algorithm practice and algorithm conversion... Thus, it is necessary to begin from the concept forming algorithm to the practising one with the condition that the students could grasp the concepts. PGS. TRƯƠNG DĨNH Nguyên Phó Trưởng Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf20_323_truongdinh_22_truong_dinh_5849_2021170.pdf
Tài liệu liên quan