Tài liệu môn Chuyển giao công nghệ quốc tế

Đây là 1 tài liệu rất hay về Sở hữu trí tuệ, được dịch từ 1 tài liệu nước ngoài: CURRICULUM ON INTELLECTUAL PROPERTY Professor Michael Blakeney Queen Mary Intellectual Property Research Institute University of London

pdf40 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1972 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu môn Chuyển giao công nghệ quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ển biến quan trọng đầu tiên từ phía các nước đang phát triển trong nhận thức về hoàn cảnh đặc biệt của mình. Trong quá trình chuẩn bị cho Hội nghị Stockholm, người ta đã đề xuất rằng các vấn đề quan tâm của các nước đang phát triển có thể được đưa vào một nghị định thư riêng. Các vấn đề gây tranh cãi đối với các nước đang phát triển là định nghĩa về các quyền chuyển tiếp của nước đang phát triển và vấn đề li xăng cưỡng bức. Việc thiết lập một chế độ bảo hộ đối với tác phẩm dân gian là vấn đề được cân nhắc nhiều. Mặc dù Nghị định thư được thông qua một cách miễn cưỡng trong phiên họp cuối cùng của Hội nghị Stockholm, nhưng nó cũng đã không có hiệu lực bởi không đảm bảo số lượng phê chuẩn. Nghị định thư này trở thành một Phụ lục của Văn bản Paris, được thông qua bởi Hội nghị Sửa đổi Paris năm 1971. Hiệu lực lâu dài của Nghị định thư này là hoàn toàn chậm, khi Điều 9 Thỏa ước TRIPs buộc các quốc gia thành viên WTO phải tuân thủ từ “Điều 1 đến Điều 21 Công ước Berne (1971) và Phụ lục đính kèm”. Sự thất bại của các nước đang phát triển trong việc đảm bảo việc bảo hộ có hiệu quả đối với tác phẩm dân gian theo một cơ chế được điều hành bởi Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới đã lý giải các sáng kiến được đưa ra giữa các tổ chức quốc tế khác. Tháng 4 năm 1973, Chính phủ Bolivia đã gửi một Bản ghi nhớ tới Tổng Giám đốc Tổ chức UNESCO yêu cầu tổ chức này xem xét cơ hội soạn thảo một công cụ quốc tế về bảo hộ các tác phẩm sáng tạo của người bản địa dưới hình thức một Nghị định thư kèm theo Công ước toàn cầu về quyền tác giả được UNESCO điều hành. Tiếp theo đề nghị đó, năm 1975, Ban thư ký UNESCO đã tiến hành khảo sát các ý kiến mong muốn có được sự bảo hộ đối với các hình thức văn hóa của người bản địa trên bình diện quốc tế. Do tầm nhận thức ở quy mô rộng của phân tích này, năm 1977, Tổng Giám đốc UNESCO đã triệu tập một Hội đồng chuyên gia về bảo hộ pháp lý đối với tác phẩm dân gian. Trong báo cáo năm 1977, Hội đồng đã kết luận rằng, vấn đề này đòi hỏi phải có sự khảo sát về xã hội học, tâm lý học, dân tộc học và lịch sử - chính trị trên “cơ sở đa ngành trong khuôn khổ cách tiếp cận tổng thể và có tính lồng ghép”. Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 22 Theo nghị quyết được thông qua bởi Hội nghị toàn thể UNESCO tại Belgrade, vào tháng 9 - tháng 10 năm 1980 và quyết định ban hành bởi Cơ quan lãnh đạo Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) tháng 11 năm 1981, một Hội đồng chuyên gia chính phủ về các khía cạnh sở hữu trí tuệ của việc bảo hộ tác phẩm dân gian đã được triệu tập. Sau một loạt các cuộc họp, Hội đồng này đã xây dựng nên Quy định mẫu của WIPO/UNESCO cho luật quốc gia về bảo hộ tác phẩm dân gian chống lại việc khai thác bất hợp pháp và các hành vi gây tổn hại khác, được thông qua bởi hai tổ chức này vào năm 1985. Hội nghị toàn thể UNESCO trong phiên họp thứ 25 năm 1989 đã thông qua một Bản khuyến nghị về bảo hộ văn hóa truyền thống và tác phẩm dân gian, theo đó, đã đề xuất một chương trình các biện pháp cần triển khai ở cấp quốc gia nhằm xác định, gìn giữ, bảo hộ và truyền bá các tác phẩm văn hóa của người bản địa. (iv) Quy định mẫu của WIPO/UNESCO cho luật quốc gia về bảo hộ tác phẩm dân gian chống lại việc khai thác bất hợp pháp và các hành vi gây tổn hại khác Các nguyên tắc cơ bản Yêu cầu cơ bản trong quy định về bảo hộ pháp lý đối với các hình thức thể hiện dân gian là việc cần thiết duy trì sự cân bằng hợp lý giữa một bên là việc bảo hộ chống lại sự lạm dụng tác phẩm dân gian, và bên kia là việc tự do, khuyến khích sự phát triển tiếp theo của chúng, việc truyền bá cũng như sửa đổi các tác phẩm sáng tạo nguyên gốc của tác giả lấy cảm hứng từ dân gian. Quy định mẫu được thiết kế với ý định dành một khoảng trống cho pháp luật quốc gia thông qua hệ thống bảo hộ phù hợp nhất với các điều kiện hiện có của nước mình. Đối tượng bảo hộ Chưa có một định nghĩa được chấp nhận chung cho tác phẩm dân gian. Tuy nhiên, theo mục đích của Quy định mẫu, Mục 2 đã giải thích thuật ngữ “hình thức thể hiện dân gian” tương tự như đề xuất của Hội đồng chuyên gia chính phủ về bảo hộ các tác phẩm dân gian, họp tại Paris tháng 2 năm 1982, và quy định rằng “các hình thức thể hiện dân gian” được hiểu là các sản phẩm chứa đựng các thành tố đặc thù của di sản nghệ thuật truyền thống được phát triển và duy trì bởi một cộng đồng trong quốc gia hoặc bởi các cá nhân, phản ánh ước vọng nghệ thuật truyền thống của cộng đồng đó. Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 23 Định nghĩa về các hình thức thể hiện dân gian này bao trùm cả các khái niệm phát triển cá nhân và tập thể của di sản nghệ thuật truyền thống, bởi vì tiêu chí áp dụng chung cho tính sáng tạo “khách quan” không phải lúc nào cũng tương thích với hiện thực phát triển của tác phẩm dân gian. Việc sử dụng các từ “các hình thức thể hiện" và “các sản phẩm” chứ không phải là “các tác phẩm” nhằm nhấn mạnh một thực tế là các quy định này mang tính đặc thù (sui generis) so với các quy định của quyền tác giả, vì “các tác phẩm” là đối tượng của quyền tác giả. Về thực chất, các hình thức thể hiện dân gian có thể và phần-lớn-trên-thực-tế có hình thức nghệ thuật tương tự như “các tác phẩm”. Việc chỉ có các di sản “nghệ thuật” được xem xét nghĩa là trong số nhiều thứ khác thì tín ngưỡng truyền thống, quan điểm khoa học (ví dụ, thuyết về nguồn gốc vũ trụ), bản chất của các truyền thuyết hoặc các tập tục truyền thống đơn thuần, tách rời với các hình thức thể hiện nghệ thuật truyền thống có thể có, sẽ không thuộc phạm vi định nghĩa đề xuất về “các hình thức thể hiện dân gian”. Mặt khác, di sản “nghệ thuật” được hiểu theo nghĩa rộng nhất của từ này và bao hàm tất cả các di sản truyền thống lôi cuốn óc thẩm mỹ của con người. Các hình thức thể hiện bằng miệng sẽ được xem như văn học nếu như nó được tạo ra một cách cá nhân bởi một tác giả, các hình thức thể hiện âm nhạc, thể hiện bởi hành động và các thể hiện hữu hình đều có thể bao gồm các thành tố đặc thù của di sản nghệ thuật truyền thống và được xem như các hình thức thể hiện dân gian được bảo hộ. Bên cạnh định nghĩa, theo mục đích của Quy định mẫu, còn có danh mục minh họa phần lớn các thể loại đặc thù của hình thức thể hiện dân gian. Các hình thức thể hiện này được chia thành bốn nhóm phụ thuộc vào hình thức “thể hiện”, ví dụ, thể hiện bằng lời (“miệng”), thể hiện bằng âm thanh nhạc (“âm nhạc”), thể hiện “bằng hành động” (của cơ thể con người) và thể hiện trong một dạng vật chất (“thể hiện hữu hình”). Mỗi một thể loại cần chứa đựng các thành tố đặc thù lấy từ tổng thể của di sản nghệ thuật truyền thống. Ba loại thể hiện đầu tiên phải không “tạo thành hình thức vật chất”, nghĩa là, lời không được viết ra, âm nhạc không được tồn tại dưới dạng các nốt nhạc và các hành động của cơ thể, ví dụ như múa, không được tồn tại dưới dạng các nốt đạo diễn múa. Trong khi đó, các thể hiện hữu hình phải được biểu hiện dưới một dạng vật chất cố định, như đá, gỗ, vàng, v.v… Quy định mẫu còn đưa ra ví dụ về các hình thức thể hiện khác nhau. Thứ nhất, đó là “truyện cổ tích dân gian, thơ và câu đố dân gian”; thứ hai là "các bài hát và âm nhạc theo nhạc cụ dân gian”; thứ ba là “các điệu nhảy, trò chơi và các hình thức nghệ thuật nghi lễ dân gian"; và thứ tư là “các bức vẽ, tranh, chạm trổ, điêu khắc, Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 24 gốm sứ, khảm, đồ gỗ, đồ kim loại, đồ trang sức, đan rổ, thêu, dệt, thảm, quần áo, nhạc cụ, các hình thức kiến trúc dân gian”. Đối tượng được liệt kê cuối cùng trong Quy định mẫu được đặt trong dấu ngoặc vuông nhằm thể hiện sự ngần ngại, dành cho các quốc gia tự quyết định về việc đưa hay không đưa nó vào phạm vi các hình thức thể hiện dân gian được bảo hộ. Việc xác định các hình thức thể hiện dân gian phát sinh và được phát triển bởi một cộng đồng có thể đạt được bằng cách duy trì bảng liệt kê chúng. Tuy nhiên, bảng liệt kê này chủ yếu liên quan đến việc gìn giữ văn hóa nghệ thuật dân gian, nên việc điều chỉnh nó không thuộc phạm vi của các Quy định mẫu này. Các hành vi gây tổn hại Như được phản ánh trong Quy định mẫu, có hai loại hành vi chủ yếu mà các hình thức thể hiện dân gian cần được bảo hộ chống lại chúng. Đó là "khai thác bất hợp pháp" và “các hành vi gây tổn hại khác” (Mục 1). "Khai thác bất hợp pháp" hình thức thể hiện dân gian được hiểu trong các Quy định mẫu là bất kỳ việc sử dụng nào được thực hiện nhằm mục đích thu lợi, ngoài phạm vi truyền thống hay tập quán và không được sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền hoặc cộng đồng liên quan tới nó. Nghĩa là, việc sử dụng - kể cả nhằm mục đích thu lợi - trong phạm vi truyền thống hoặc tập quán thì cũng không phải là đối tượng được phép. Mặt khác, việc sử dụng, kể cả bởi các thành viên của cộng đồng nơi sự thể hiện dân gian được phát triển và duy trì, cũng đòi hỏi phải được đồng ý nếu nó được tiến hành ngoài phạm vi đó và với mục đích thu lợi. "Phạm vi truyền thống" được hiểu là cách thức sử dụng hình thức thể hiện dân gian trong khuôn khổ nghệ thuật phù hợp của nó dựa trên cơ sở cộng đồng sử dụng liên tục. Ví dụ, sử dụng một điệu nhảy mang tính nghi lễ trong phạm vi truyền thống của nó có nghĩa là trình diễn nó trong khuôn khổ thực tế của một nghi lễ tương ứng. Mặt khác, thuật ngữ “phạm vi tập quán” liên quan nhiều hơn tới việc sử dụng các hình thức thể hiện dân gian phù hợp với các tập quán trong cuộc sống hàng ngày của cộng đồng, ví dụ, cách thức thông thường những người thợ thủ công địa phương bán các bản sao hình thức thể hiện dân gian hữu hình. Phạm vi tập quán có thể phát triển và thay đổi nhanh hơn so với các phạm vi truyền thống. Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 25 Mục này cân nhắc việc xác định các hành vi sử dụng phải xin phép khi nảy sinh các trường hợp đó. Bằng cách này, nó phân biệt giữa trường hợp có các bản sao hình thức thể hiện dân gian và trường hợp không nhất thiết có các bản sao. Trong trường hợp thứ nhất, các hành vi cần xin phép gồm việc công bố (theo nghĩa rộng nhất của thuật ngữ này, bao gồm tất cả các hình thức đưa đến công chúng bản gốc, bản sao hoặc các bản sao hình thức thể hiện dân gian được trình bày ở bất kỳ dạng vật chất nào, kể cả các bản ghi), nhân bản và phân phối; trong trường hợp thứ hai, các hành vi cần xin phép bao gồm việc trình tấu trước công chúng, trình diễn trước công chúng, truyền bằng phương tiện không dây hoặc có dây và “bất kỳ hình thức nào khác truyền bá tới công chúng”. Sử dụng được phép. Quy định mẫu không ngăn chặn được các cộng đồng bản địa sử dụng các di sản văn hóa truyền thống của họ theo các cách truyền thống và tập quán, và phát triển nó thông qua việc mô phỏng không ngừng. Việc giữ cho nghệ thuật truyền thống bình dân sống mãi có mối liên hệ gần gũi với việc nhân bản, trình tấu hoặc trình diễn, trong một lối trình bày phong phú và có phong cách, các hình thức thể hiện truyền thống trong cộng đồng khởi thủy. Một yêu cầu không hạn chế cần xin phép để sửa chữa, sắp xếp, nhân bản, trình tấu hoặc trình diễn các sáng tạo này có thể tạo một rào chắn trên con đường phát triển tự nhiên của văn hóa dân gian và không thể bị cưỡng chế trong các xã hội, nơi văn hóa dân gian là một phần của cuộc sống hàng ngày. Vì vậy, Quy định mẫu cho phép bất kỳ thành viên nào trong cộng đồng của một quốc gia được tự do nhân bản hoặc trình diễn các hình thức thể hiện dân gian của cộng đồng mình trong phạm vi truyền thống và tập quán của họ, bất kể anh ta làm việc đó nhằm hoặc không nhằm mục đích thu lợi, thậm chí được thực hiện bằng phương tiện công nghệ hiện đại nếu công nghệ đó được cộng đồng chấp nhận như một trong các phương tiện dẫn tới sự phát triển của nền văn hóa dân gian sống động của họ. Mục 4 quy định bốn trường hợp đặc biệt không cần xin phép, kể cả khi việc khai thác hình thức thể hiện dân gian được thực hiện để lấy tiền và ngoài phạm vi truyền thống hay tập quán. Các trường hợp đặc biệt này bao gồm: – sử dụng hoặc khai thác nhằm mục đích giáo dục; – sử dụng “bằng cách minh họa” trong bất kỳ tác phẩm gốc nào của một tác giả, với điều kiện việc sử dụng đó thích hợp với thực tiễn hợp lý như được hiểu ở quốc gia liên quan; Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 26 – khi hình thức thể hiện dân gian được “vay mượn” để sáng tạo nên tác phẩm gốc của một tác giả. Ngoại lệ quan trọng này phục vụ mục đích cho phép phát triển tự do khả năng sáng tạo cá nhân lấy cảm hứng từ dân gian. – "sử dụng ngẫu nhiên", đặc biệt bao gồm việc sử dụng để làm báo cáo về các sự kiện hiện tại và sử dụng các hình ảnh nơi hình thức thể hiện dân gian được đặt cố định tại một địa điểm công cộng. Các hành vi gây tổn hại khác, có hại cho các lợi ích liên quan tới việc sử dụng các hình thức thể hiện dân gian, theo Quy định mẫu, bao gồm bốn hành vi xâm phạm khác nhau và là đối tượng chịu các chế tài hình sự (Mục 6). Mục 5 yêu cầu, như một nguyên tắc, rằng trong tất cả các xuất bản phẩm dạng in và bất kỳ sự truyền bá nào tới công chúng đối với bất kỳ hình thức thể hiện dân gian nào có thể nhận biết được, thì nguồn của nó phải được chỉ rõ một cách thích hợp, thông qua việc lưu ý về cộng đồng và/hoặc địa điểm địa lý nơi phát sinh hình thức thể hiện dân gian được sử dụng. Mục 6 quy định, việc không tuân thủ yêu cầu chỉ dẫn về nguồn sẽ bị phạt. Việc sử dụng không xin phép đối với các hình thức thể hiện dân gian khi việc xin phép là bắt buộc cũng cấu thành hành vi xâm phạm. Điều này được hiểu là, nếu việc sử dụng vượt quá giới hạn hoặc trái với các điều kiện đã được cấp phép thì cũng được coi là hành vi xâm phạm về sử dụng hình thức thể hiện dân gian trái phép. Việc lừa gạt công chúng bằng cách tạo ra ấn tượng rằng một vật nào đó là hình thức thể hiện dân gian của một cộng đồng mà trên thực tế không phải vậy, thì cũng sẽ bị phạt. Việc sử dụng nhằm mục đích công làm méo mó hình thức thể hiện dân gian, với bất kỳ cách thức trực tiếp hay gián tiếp nào “gây tổn hại tới các lợi ích văn hoá của cộng đồng liên quan”, đều là hành vi xâm phạm. Khái niệm “làm méo mó” bao gồm bất kỳ hành động nào làm sai lệch, cắt xén hoặc làm giảm giá trị của hình thức thể hiện dân gian được công bố, nhân bản, phân phối, trình diễn hoặc truyền bá bằng cách nào đó khác tới công chúng bởi người vi phạm. Tất cả bốn loại hành vi xâm phạm này phải với điều kiện là đó hành động cố ý. Tuy nhiên, liên quan tới việc không tuân thủ yêu cầu về chỉ dẫn nguồn và yêu cầu xin phép sử dụng hình thức thể hiện dân gian, Quy định mẫu cũng cho phép xử phạt các hành vi được thực hiện do vô ý. Điều này cũng tính đến bản chất của hành vi vi phạm liên quan và các khó khăn trong việc chứng minh sự cố ý trong các trường hợp bỏ sót. Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 27 Cấp phép sử dụng các hình thức thể hiện dân gian Liên quan tới thực thể có thẩm quyền cấp phép sử dụng hình thức thể hiện dân gian, Quy định mẫu quy định cả hai ("cơ quan có thẩm quyền” và "cộng đồng liên quan”) mà né tránh khái niệm “chủ sở hữu” hình thức thể hiện dân gian. Các cơ quan này không xử lý vấn đề về quyền sở hữu hình thức thể hiện dân gian vì khía cạnh này có thể được điều chỉnh theo cách thức khác nhau ở mỗi nước. Ở một số nước, các hình thức thể hiện dân gian có thể được coi là tài sản quốc gia, ở một số nước khác, ý nghĩa của quyền sở hữu đối với di sản nghệ thuật truyền thống có thể được phát triển mạnh mẽ hơn trong bản thân các cộng đồng liên quan. Ai sẽ có quyền cấp phép sử dụng các hình thức thể hiện dân gian phụ thuộc rất nhiều vào tình huống sở hữu chúng và tất yếu thay đổi theo pháp luật điều chỉnh khác nhau về vấn đề này. Ở các quốc gia, nơi các cộng đồng thổ dân hoặc cộng đồng truyền thống khác được thừa nhận như các chủ sở hữu được trao quyền đầy đủ trong việc tùy ý sử dụng văn hóa dân gian của họ, nơi các cộng đồng được tổ chức một cách hiệu quả để quản lý khai thác các hình thức thể hiện dân gian của mình, thì việc sử dụng như vậy có thể được chính cộng đồng đó cho phép. Cộng đồng cấp phép cho người sử dụng theo cách tương tự như các tác giả cấp phép. Ở các nước khác, nơi di sản nghệ thuật truyền thống của cộng đồng về cơ bản được xem như một phần của di sản văn hóa dân tộc, hoặc nơi mà các cộng đồng liên quan không thể tự quản lý một cách có hiệu quả việc sử dụng các hình thức thể hiện dân gian của mình, thì “các cơ quan có thẩm quyền” có thể được chỉ định để tiến hành cấp phép dưới hình thức các quyết định theo luật công. Các cơ quan giám sát. Mục 9 của Quy định mẫu quy định việc chỉ định cơ quan có thẩm quyền, nếu sự lựa chọn này được các nhà lập pháp đưa ra. Mục này cũng quy định việc chỉ định một “cơ quan giám sát”, nếu việc này trở nên cần thiết theo các quy định tiếp đó, và đề xuất các hoạt động cần được thực hiện bởi cơ quan này. Theo Quy định mẫu, nhiệm vụ của cơ quan có thẩm quyền (với điều kiện cơ quan này đã được chỉ định) là cấp phép cho các loại hình sử dụng nhất định đối với các hình thức thể hiện dân gian, tiếp nhận đơn xin phép sử dụng, xem xét và quyết định, xác định lệ phí và thu lệ phí sau khi cấp phép, nếu pháp luật có quy định. Liên quan tới cơ quan giám sát, Quy định mẫu đưa ra khả năng quy định trong luật rằng cơ quan giám sát sẽ lập định mức lệ phí cho việc cấp phép sử dụng, hoặc phê duyệt định mức phí đó (Quy định mẫu không chỉ rõ trong trường hợp này thì ai sẽ đề xuất mức lệ phí, mặc dù các chuyên gia khi thông qua Quy định mẫu hiểu rõ rằng trong trường hợp Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 28 đó, cơ quan có thẩm quyền sẽ đề xuất mức lệ phí) (Mục 10), và quyết định của cơ quan giám sát có thể bị khiếu nại tới tòa án (Mục 11, khoản 1). Việc cơ quan hay các cơ quan nào sẽ được chỉ định trong một quốc gia nhất định sẽ phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống pháp luật hiện hành của quốc gia đó. Giải pháp có thể là thiết lập một cơ quan đặc biệt để thực hiện các nhiệm vụ quy định trong Quy định mẫu và chỉ định một Bộ, ví dụ, Bộ Văn hóa, là cơ quan giám sát. Cơ quan giám sát có thẩm quyền có thể là Bộ Văn hóa hay bất kỳ tổ chức nào liên quan tới văn hóa dân gian, tổ chức xã hội của các tác giả hoặc tương tự. Cơ quan đại diện của cộng đồng liên quan cũng có để được chỉ định theo cách tương tự, kể cả khi vì lý do nào đó mà các nhà lập pháp không thừa nhận bản thân cộng đồng có đủ tư cách làm chủ sở hữu các hình thức thể hiện dân gian của mình để được trao quyền trực tiếp cấp phép sử dụng chúng. Nếu nhà lập pháp quyết định rằng cộng đồng sẽ được trao quyền cho phép hoặc ngăn chặn việc sử dụng các hình thức thể hiện dân gian cần xin phép, thì cộng đồng sẽ hoạt động với tư cách chủ sở hữu các hình thức thể hiện dân gian liên quan và có thể tự do quyết định phương thức thực hiện. Sẽ không có cơ quan giám sát nào kiểm tra việc cộng đồng này thực thi các quyền liên quan của mình như thế nào. Tuy nhiên, các chuyên gia đều cho rằng, nếu đó không phải là cộng đồng mà là một cơ quan đại diện được chỉ định được pháp luật trao quyền cấp phép, thì cơ quan đó được xem như là một cơ quan có thẩm quyền cần tuân thủ các quy tắc trình tự liên quan như quy định tại Quy định mẫu. Quy trình cấp phép. Quy trình cấp phép được quy định tiếp sau từ Mục 10(1) của Quy định mẫu, theo đó, việc cấp phép phải được tiến hành trên cơ sở “đơn” nộp cho cơ quan có thẩm quyền. Giấy phép có thể mang tính chất “đơn lẻ” hoặc “chung”. Giấy phép đơn lẻ là giấy phép đặc biệt không theo thể thức, còn giấy phép chung dành cho những người sử dụng thông thường như các tổ chức văn hóa, nhà hát, nhóm ba lê và các tổ chức phát thanh truyền hình. Nếu là giấy phép chung, các nhà lập pháp cũng có thể cân nhắc khả năng áp dụng hệ thống li xăng không tự nguyện, có thể tồn tại ở các nước quan tâm đặc biệt tới việc sử dụng các tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả như các dạng sử dụng nhất định của các tổ chức phát sóng và các hệ thống cáp. Tiền thù lao. Quy định mẫu (Mục 10, khoản 2) cho phép, nhưng không bắt buộc, việc thu lệ phí cấp phép. Có lẽ, khi đã quy định về lệ phí thì sự cấp phép sẽ chỉ có hiệu lực trên cơ sở đã nộp lệ phí. Giấy phép cũng có thể được cấp miễn phí. Kể cả trong trường hợp này, thì hệ thống xin phép cũng là thỏa đáng bởi vì nó có thể ngăn chặn việc sử dụng làm sai lệnh các hình thức thể hiện dân gian hoặc làm giảm giá trị của chúng. Lệ phí phải nộp Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 29 cần tuân thủ theo đúng bảng định mức được lập và phê duyệt - như nêu trên - bởi cơ quan giám sát. Cũng trong khoản 2 này, Quy định mẫu xác định mục đích sử dụng lệ phí đã thu, theo đó, đưa ra một lựa chọn giữa việc thúc đẩy hoặc bảo vệ nền văn hóa dân tộc hay nền dân gian dân tộc. Thông thường, nền dân gian dân tộc là một bộ phận của văn hóa dân tộc, nhưng so với dân gian dân tộc, văn hóa dân tộc liên quan tới một lượng lớn hơn những người hưởng lợi tiềm năng. Trong bất kỳ trường hợp nào, cũng nên bảo đảm (bằng sắc lệnh) dành một tỷ lệ nhất định lệ phí thu được bởi cơ quan có thẩm quyền cho cộng đồng nơi phát sinh các hình thức thể hiện dân gian đã được sử dụng và nộp lệ phí. Sắc lệnh này có thể cho phép cơ quan có thẩm quyền giữ lại một phần lệ phí thu được để trang trải các chi phí quản lý hệ thống cấp phép. Khi không có cơ quan thẩm quyền được chỉ định và cả hai việc cấp phép và thu lệ phí đều được thực hiện bởi cộng đồng, thì đương nhiên, việc sử dụng lệ phí thu được phải được quyết định bởi cộng đồng. Nhà nước cần đảm bảo có sự chia sẻ lợi nhuận bằng cách đánh thuế hoặc đưa ra các biện pháp thích hợp khác. Các chế tài Hai hình thức phạt chủ yếu là phạt tiền và phạt tù. Quy định mẫu không khuyến nghị bất kỳ hình thức phạt đặc biệt nào đối với các hành vi vi phạm đặc biệt mà chỉ giới hạn ở yêu cầu phải có biện pháp hình sự, dành cho luật quốc gia việc xác định hình thức và mức phạt. Tuy nhiên, đối với biện pháp tịch thu và các hành vi khác, Quy định mẫu có phần quy định rõ ràng hơn. Mục 7 áp dụng đối với bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật nào liên quan tới cả đối tượng và lợi tức thu được. 11. Các công ước, thỏa ước, hiệp định trong lĩnh vực quyền tác giả và các quyền kề cận Cơ sở quan trọng của bảo hộ quốc tế về quyền tác giả là Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật. Tại thời điểm hình thành năm 1883, các quy định cơ bản của Công ước tất yếu phải lệ thuộc vào các công nghệ nhân bản in thời đó. Trên cơ sở tính đến các tiến bộ công nghệ trong lĩnh vực này, nhiều hội nghị sửa đổi dẫn đến các bổ sung Công ước đã được tiến hành. Công ước Berne, từng là một tổ chức mà khởi đầu là của nhiều nước Châu Âu, song hành với Công ước toàn cầu về quyền tác giả (UCC) năm 1952 trên Tây bán cầu. Sau sự gia nhập của Hoa Kỳ vào Công ước Berne và sự phê chuẩn Thỏa ước TRIPs, tạo thành một phần quan trọng của Công ước Berne, Công ước toàn cầu Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 30 về quyền tác giả trở nên tiếp tục có hiệu lực rộng rãi. Ảnh hưởng của các công nghệ kỹ thuật số tới vấn đề bản quyền đã được ghi nhận trong Hiệp định WIPO về quyền tác giả năm 1996. Các đổi mới trong công nghệ nhân bản in và truyền thông dẫn tới việc bắt buộc phải thừa nhận các quyền kề cận với quyền tác giả. Công ước Berne ban đầu tập trung vào các quyền của tác giả, nghệ sỹ và nhà soạn nhạc. Sự phát triển của bản ghi âm được ghi nhận trong Công ước Rome (Công ước quốc tế năm 1961 về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và các tổ chức phát sóng) và Công ước Geneva về các bản ghi âm (Công ước năm 1971 về bảo hộ các nhà sản xuất bản ghi âm chống lại việc nhân bản trái phép các bản ghi âm của mình). Giới thiệu việc truyền phát tác phẩm qua vệ tinh được ghi nhận tại Công ước năm 1974 về phân phối các tín hiệu mang chương trình được truyền qua vệ tinh. Một vấn đề đặc biệt liên quan tới việc ghi trái phép đối với người biểu diễn (bootlegging) được nêu tại Hiệp định WIPO năm 1996 về người biểu diễn và bản ghi âm. (a) Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật 1886 Công ước Berne (1886), hoàn thiện tại Paris (1896), chỉnh lý tại Berlin (1908), hoàn thiện tại Berne (1914), chỉnh lý tại Rome (1928), tại Bỉ (1948), tại Stockholm (1967), tại Paris (1971), và bổ sung năm 1979 (Liên hiệp Berne) Hiệp định về quyền tác giả đầu tiên là Công ước Berne 1886 về bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật. Nguyên tắc cơ bản của “đối xử quốc gia” là các tác phẩm phát sinh ở một trong các quốc gia thành viên phải được nhận được sự bảo hộ ở mỗi quốc gia thành viên đó tương tự như sự bảo hộ mà quốc gia này dành cho các tác phẩm của công dân nước họ. Việc bảo hộ đó phải là tự động và không kèm theo bất kỳ điều kiện tuân thủ thủ tục nào. Bảo hộ quốc tế về quyền tác giả cũng phải “độc lập” (độc lập với việc bảo hộ hiện có ở nước nơi tác phẩm phát sinh). Các tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu có liên quan đến tác phẩm được bảo hộ và tới thời hạn bảo hộ. Công ước Berne quy định rằng, việc bảo hộ phải được mở rộng đến “tất cả các sản phẩm trong lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật, bất kể hình thức thể hiện của nó là gì”. Là đối tượng chịu sự bảo vệ, hạn chế hoặc ngoại trừ nhất định và phải được cho phép, các quyền cần được thừa nhận bao gồm: quyền dịch tác phẩm; quyền sửa chữa hoặc sắp xếp tác phẩm; quyền truyền bá cho công chúng sự trình diễn các tác phẩm đó; quyền phát sóng; quyền nhân bản tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào; quyền sử dụng tác phẩm như Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 31 cơ sở cho tác phẩm nghe nhìn; quyền nhân bản, phân phối, trình diễn trước công chúng hoặc truyền bá tới công chúng tác phẩm nghe nhìn đó. Công ước cũng quy định “các quyền tinh thần”, đó là quyền khiếu nại về quyền sở hữu tác phẩm, quyền phản đối bất kỳ sự cắt xén, làm biến dạng hoặc sửa chữa tác phẩm, hoặc làm giảm giá trị của tác phẩm, gây tổn hại cho danh dự và uy tín của tác giả. Nguyên tắc chung liên quan tới thời hạn bảo hộ là việc bảo hộ phải được kéo dài cho tới hết 50 năm kể từ sau khi tác giả qua đời. Các ngoại lệ chỉ trong trường hợp đối với tác phẩm khuyết danh và có bút danh, khi đó thời hạn bảo hộ kéo dài hết 50 năm sau khi tác phẩm được công bố, trừ phi bút danh cho thấy không có nghi vấn gì về việc nhận dạng tác giả hoặc trừ phi tác giả che giấu nhân thân của mình trong suốt giai đoạn đó, trường hợp này sẽ áp dụng nguyên tắc chung. Đối với các tác phẩm nghe nhìn (điện ảnh), thời hạn bảo hộ tối thiểu là 50 năm sau khi tác phẩm được công bố hoặc tính từ thời điểm tạo ra tác phẩm nếu nó không được công bố. Đối với các tác phẩm nhiếp ảnh và nghệ thuật ứng dụng, thời hạn bảo hộ tối thiểu là 25 năm kể từ khi tác phẩm được tạo ra. (b) Thỏa ước TRIPS Điều 9.1 Thỏa ước TRIPS bắt buộc các nước thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới “tuân thủ từ Điều 1 đến Điều 21 Công ước Berne (1971) và Phụ lục kèm theo”. Tuy nhiên, liên quan tới các quyền tinh thần nêu tại Điều 6bis Công ước Berne, Điều 9.1 của Thỏa ước TRIPS quy định rằng “các nước thành viên không có các quyền và nghĩa vụ theo Thỏa ước này đối với các quyền theo Điều 6bis của Công ước Berne hoặc các quyền phát sinh từ đó”. Sự loại trừ các quyền tinh thần này là do sự hối thúc của Hoa Kỳ, nước có các vấn đề với quan niệm này. Nguyên tắc đối xử quốc gia theo Công ước Berne được thông qua bởi Điều 3 Thỏa ước TRIPS; và Điều 2.2 của Thỏa ước TRIPS quy định: không gì quy định tại các Phần I đến IV của Thỏa ước (liên quan tới các nguyên tắc cơ bản, lợi ích, phạm vi, sử dụng và thực thi các quyền sở hữu trí tuệ, cũng như việc có được và duy trì quyền này) được “làm giảm các nghĩa vụ hiện hành mà các nước thành viên buộc phải cư xử đối với nhau” theo Công ước Berne. Cuối cùng, các quy định về quyền tác giả của Thỏa ước TRIPS mở rộng đến nhiều quy định cơ bản của Công ước Berne. Ví dụ Điều 10.1 quy định rằng “các chương trình máy tính, cho dù là nguồn hay là hệ thống mã số, sẽ được bảo hộ như các tác phẩm văn học Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 32 theo Công ước Berne (1971)”. Các điều khoản đặc biệt quy định về các quyền cho thuê, thời hạn bảo hộ, các hạn chế và ngoại lệ, và việc bảo hộ đối với người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi (ghi âm) và các tổ chức phát sóng. (c) Công ước toàn cầu về quyền tác giả 1952 Chỉnh lý tại Paris (1971) Tổ chức UNESCO mới được thành lập, với sự ủng hộ của Hoa Kỳ đã triệu tập hàng loạt các cuộc họp trù bị giữa những năm 1947 và 1951, tại đó các dự thảo của Công ước toàn cầu về quyền tác giả (UCC) đã được xem xét. Các dự thảo này được đệ trình ra Hội nghị Ngoại giao được tổ chức tại Geneva từ ngày 18/8 đến ngày 6/9/1952, ở đó Công ước toàn cầu về quyền tác giả được thông qua. Hội nghị có sự tham dự của các đoàn đại biểu đến từ 50 quốc gia cũng như các đại diện đến từ 9 tổ chức liên chính phủ và 6 tổ chức phi chính phủ. Không như Công ước Berne, Công ước toàn cầu về quyền tác giả không chứa đựng danh mục chi tiết các tác phẩm được bảo hộ. Câu hỏi gây tranh cãi về thủ tục được giải quyết trong Điều III. Điều này qụy định rằng, việc đặt biểu tượng © trong một tác phẩm được công bố, tiếp theo là tên của chủ sở hữu quyền tác giả và năm xuất bản đầu tiên, cho thấy sự tuân thủ các yêu cầu về thủ tục của các quốc gia có quy định về chúng đối với các tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả. Không thể yêu cầu bất cứ thủ tục nào đối với các tác phẩm chưa công bố. Thời hạn bảo hộ theo Công ước toàn cầu về quyền tác giả tối thiểu là 25 năm sau khi tác giả qua đời, nhưng với thời hạn ngắn hơn đối với một số loại tác phẩm nhất định, bao gồm thời hạn không ngắn hơn 10 năm đối với các bức ảnh và tác phẩm nghệ thuật. Quyền dịch thuật là đối tượng của li xăng cưỡng bức có thể được các quốc gia ký kết áp đặt sau 7 năm kể từ lần công bố đầu tiên khi bản dịch ra ngôn ngữ hoặc các ngôn ngữ quốc gia chưa được công bố. Không có một liên minh nào được thành lập theo Công ước toàn cầu về quyền tác giả, nhưng đã thành lập một Ủy ban liên chính phủ để nghiên cứu việc thực thi Công ước và chuẩn bị cho sự chỉnh lý định kỳ đối với Công ước này. Điều XI quy định Ban Thư ký của Ủy ban này do UNESCO đề cử. Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 33 (d) Công ước quốc tế năm 1961 về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và các tổ chức phát sóng (Công ước Rome) Công ước Rome có hiệu lực từ 26/10/1961. Lần đầu tiên, Công ước này mở rộng việc bảo hộ quyền tác giả từ tác giả của tác phẩm cho đến những người sáng tạo và chủ sở hữu của các trình diễn dưới dạng vật chất đặc thù của sở hữu trí tuệ, như các băng ghi âm cát xét hoặc đĩa DVD. Công ước quy định sự bảo hộ đối với: 1. Những người biểu diễn (diễn viên, ca sỹ, nhạc công, vũ công và những người trình diễn các tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật khác) chống lại các hành vi nhất định mà họ chưa cho phép. Các hành vi đó là: phát sóng và truyền bá tới công chúng buổi biểu diễn trực tiếp của họ; ghi lại buổi biểu diễn trực tiếp của họ; nhân bản bản ghi đó nếu bản ghi gốc được làm không xin phép họ hoặc nếu việc nhân bản được tiến hành nhằm mục đích khác với các mục đích mà họ cho phép ban đầu. 2. Các nhà sản xuất bản ghi âm có quyền cho phép hoặc cấm nhân bản trực tiếp hoặc gián tiếp các bản ghi của mình. Khi một bản ghi âm được công bố vì mục đích thương mại làm phát sinh việc khai thác sử dụng tiếp theo (như phát sóng hoặc truyền bá tới công chúng dưới bất kỳ hình thức nào) thì người sử dụng cần trả một khoản tiền thù lao hợp lý cho người biểu diễn hoặc nhà sản xuất bản ghi âm hoặc cho cả hai; tuy nhiên, các quốc gia ký kết được tự do áp dụng nguyên tắc này hoặc hạn chế việc áp dụng nó. 3. Các tổ chức phát sóng có quyền cho phép hoặc cấm các hành vi nhất định, như phát lại các chương trình phát sóng của họ; ghi lại các chương trình phát sóng của họ; nhân bản các bản ghi đó; truyền bá tới công chúng các chương trình truyền hình của họ nếu sự truyền bá đó được thực hiện ở các địa điểm tiếp cận được với công chúng mà có thu tiền vé vào xem. Đối với các quyền nêu trên, Công ước Rome cho phép có các ngoại lệ sau trong các luật quốc gia: • Sử dụng cá nhân • Sử dụng trích đoạn ngắn để báo cáo về các sự kiện hiện tại • Ghi nhanh tạm thời bởi một tổ chức phát sóng bằng phương tiện của chính họ và dùng cho việc phát sóng của riêng họ • Sử dụng duy nhất cho mục đích giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 34 • Bất kỳ trường hợp khác, trừ các li xăng cưỡng bức tuân thủ theo Công ước Berne, mà luật quốc gia quy định là các ngoại lệ đối với quyền tác giả của các tác phẩm văn học và nghệ thuật. Ngoài ra, một khi người biểu diễn đã đồng ý hợp tác ghi âm hoặc ghi hình buổi trình diễn của mình, thì các quy định về các quyền của người biểu diễn sẽ không được tiếp tục áp dụng nữa. (e) Công ước năm 1974 về phân phối các tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh (Công ước Vệ tinh) Các điều khoản của Công ước về phân phối các tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh, thường được biết đến như Công ước Vệ tinh, được thông qua tại Bỉ ngày 21/5/1974. Công ước Vệ tinh được thiết kế nhằm bổ sung cho việc bảo hộ mà Công ước Rome quy định. Việc bảo hộ bổ sung này khởi đầu được dành cho các tổ chức phát sóng, mặc dù những người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và chủ sở hữu quyền tác giả cũng được coi như các bên thụ hưởng trong lời nói đầu của Công ước. Nhu cầu có thể nhận biết được của Công ước phát sinh như một hệ quả của sự phát triển công nghệ vệ tinh như một phương tiện truyền dẫn các tín hiệu mang chương trình không dự định để công chúng tiếp nhận được một cách trực tiếp, và sự phát triển đồng thời của công nghệ có thể bắt được các tín hiệu đó và phát lại chúng. Điều này dẫn tới mối quan ngại về một thực tế là, không chỉ có người phát sóng gốc tiếp nhận được các tín hiệu phát lại này miễn phí, mà nó còn gây bất lợi cho nhà phát sóng trong việc thương lượng với những người biểu diễn, tác giả và các chủ sở hữu quyền khác. Sở dĩ như vậy là vì việc không thể có khả năng bảo đảm cho việc kiểm soát việc truyền phát qua vệ tinh trong các khu vực địa lý đặc biệt, nhất là những nơi không bảo hộ quyền tác giả và các quyền liên quan, dẫn tới việc làm tăng số tiền phải trả cho chủ sở hữu quyền nhằm đảm bảo cho việc sử dụng tư liệu của họ. Công ước Vệ tinh có ý định ngăn chặn sự xâm phạm đó cả bằng các phương tiện không dây và có dây. Việc Công ước Vệ tinh vì vậy mà bảo hộ việc phát lại bằng phương tiện dây cáp cũng phản ánh các phát triển công nghệ từ Công ước Rome khi đó chỉ trao quyền cho các nhà phát sóng trong lĩnh vực truyền phát bằng phương tiện không dây. (f) Hiệp định WIPO về quyền tác giả năm 1996 (Geneva) Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 35 Hiệp định WIPO về quyền tác giả là một thỏa ước đặc biệt theo Điều 20 của Công ước Berne, chỉ ràng buộc đối với các quốc gia thành viên Liên minh Berne đã phê chuẩn nó. Cùng với công ước anh em này của nó - Hiệp định WIPO về trình diễn và các bản ghi âm, Hiệp định WIPO về quyền tác giả được thông qua tại Hội nghị Ngoại giao WIPO về các vấn đề quyền tác giả và quyền kề cận tại Geneva ngày 20/12/1996. Nguồn gốc dẫn tới Hội nghị Ngoại giao nằm ở quan niệm rằng Công ước Berne đã không thể đáp ứng được đầy đủ trước sự đe dọa đối với sự toàn vẹn của luật về quyền tác giả và quyền kề cận do các loại hình mới của công nghệ thông tin và truyền thông gây ra. Đặc biệt, hai lĩnh vực liên quan trong phát triển công nghệ kể từ các lần sửa đổi Công ước Berne tại Stockholm và Paris vào các năm 1967 và 1971 đã hối thúc việc triệu tập Hội nghị Ngoại giao dẫn đến Hiệp định WIPO về quyền tác giả và Hiệp định WIPO về trình diễn và các bản ghi âm. Thứ nhất, đã có khả năng sản xuất ra các tác phẩm có quyền tác giả ở dạng kỹ thuật số; và thứ hai, đã có các phương tiện mới trong truyền dẫn và phân phối tác phẩm, đặc biệt. là sự phát triển và sử dụng rộng rãi Internet. Kỹ thuật số khiến cho việc tạo ra các bản sao tuyệt vời của tác phẩm trở nên vô cùng rẻ, dễ và nhanh cũng như việc phân phối chúng được rộng rãi. Điều này có nghĩa là mức độ tổn thất kinh tế của chủ sở hữu quyền tác giả cũng tăng lên đáng kể. Cùng với việc gia tăng phổ rộng và tốc độ phân phối trên Internet, thì các tổn thất kinh tế này cũng tăng theo cấp lũy thừa. Tiềm năng của loại hành vi này gây hại cho các tác giả và người sáng tạo trong khả năng kiểm soát sự truyền bá tác phẩm của mình và thu được các bù đắp tài chính nhờ việc khai thác tác phẩm và đã đánh trúng vào cốt lõi của luật về quyền tác giả và các quyền kề cận. Đáp lại sự khiếm khuyết trong Công ước Berne và các thách thức do sự phát triển nhanh chóng của công nghệ gây nên, WIPO đã thành lập Hội đồng chuyên gia về Nghị định thư có thể thi hành đối với Công ước Berne vào năm 1991, và trong năm 1992, thành lập Hội đồng chuyên gia về Công cụ có thể thi hành đối với việc bảo hộ các quyền của người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm. Giữa năm 1992 và 1996, hai Hội đồng chuyên gia này đã tiến hành hàng loạt cuộc họp, ba cuộc họp cuối được đồng tổ chức và các phần thảo luận của họ cũng được tổ chức chung. Tháng hai năm 1996, phiên họp chung áp chót của các Hội đồng chuyên gia đã đưa ra khuyến nghị triệu tập một Hội nghị Ngoại giao để quyết định các điều khoản của các hiệp định trên cơ sở kết quả làm việc của các Hội đồng. Kết quả là, tháng 5/1996, Ủy ban trù bị cho Hội nghị Ngoại giao, Đại hội đồng WIPO và Hội nghị toàn thể Liên minh Berne đã quyết định triệu tập Hội nghị Ngoại giao vào cuối năm đó. Các Hội đồng chuyên gia có trách nhiệm xây dựng nội dung dự thảo của các hiệp định được đề xuất, nhưng câu hỏi cần chuẩn bị bao nhiêu dự thảo hiệp định thì còn bỏ ngỏ. Các Hội đồng chuyên gia đưa ra đề xuất dự thảo cho 3 hiệp định tạo cơ sở Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 36 cho các thương lượng tại Hội nghị Ngoại giao. Ba dự thảo hiệp định này bao gồm: Hiệp định về các vấn đề liên quan tới việc bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật; Hiệp định về bảo hộ quyền của người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm; Hiệp định về sở hữu trí tuệ đối với cơ sở dữ liệu. (g) Hiệp định WIPO về trình diễn và các bản ghi âm (WPPT) Hiệp định WIPO về trình diễn và các bản ghi âm (WPPT) được thông qua bởi Hội nghị Ngoại giao WIPO về các vấn đề quyền tác giả và các quyền kề cận, được tổ chức vào tháng 12/1996. Các quy định của Hiệp định này liên quan tới “chương trình nghị sự kỹ thuật số” bao gồm: các quyền áp dụng đối với việc lưu giữ và truyền các buổi trình diễn và bản ghi âm trong các hệ thống kỹ thuật số, các giới hạn và ngoại lệ đối với các quyền trong một môi trường kỹ thuật số, các giải pháp công nghệ của việc bảo hộ các quyền quản lý thông tin. Trong Hiệp định WIPO về trình diễn và các bản ghi âm, các quy định liên quan tới sự truyền dẫn trong các mạng kỹ thuật số được nêu tại các Điều 10 và 14, theo đó, người trình diễn và nhà sản xuất bản ghi âm phải có “quyền tuyệt đối trong việc cho phép truyền bá tới công chúng” các buổi trình diễn định hình trong các bản ghi âm và các bản ghi âm của mình, “bằng phương tiện có dây hoặc không dây, theo cách thức mà công chúng có thể tiếp cận được từ địa điểm và vào thời gian mà họ lựa chọn riêng“. Phạm vi các quyền của người biểu diễn cũng tương tự như quy định tại Thỏa ước TRIPS; nó chỉ mở rộng tới các trình diễn nghe trực tiếp và các trình diễn định hình trong các bản ghi âm, ngoại trừ quyền phát sóng và truyền bá tới công chúng các buổi trình diễn trực tiếp mà theo Điều 6(i) thì được mở rộng tới tất cả các loại trình diễn trực tiếp, không chỉ là các trình diễn cho thính giả (như quy định tại câu thứ hai của Điều 14.1 Thỏa ước TRIPS). Hiệp định WIPO về trình diễn và các bản ghi âm trên thực tế quy định các quyền kinh tế đối với người biểu diễn - quyền phát sóng và truyền bá tới công chúng các buổi trình diễn chưa được định hình, quyền nhân bản và quyền cho thuê (Các Điều 6, 7 và 9) – tương tự như các quyền được quy định trong Thỏa ước TRIPS (các Điều 14.1 và 14.4). Điều 8(1) quy định rằng, người biểu diễn có quyền tuyệt đối trong việc cho phép truyền bá tới công chúng bản gốc hoặc các bản sao buổi trình diễn của mình được định hình Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 37 trong các bản ghi, thông qua bán lẻ hoặc hình thức chuyển giao khác đối với quyền sở hữu. Hiệp định WIPO về trình diễn và các bản ghi âm quy định các quyền đối với nhà sản xuất các bản ghi âm - quyền nhân bản và quyền cho thuê (các Điều 11 và 13) - tương tự như các quyền đã được quy định theo Thỏa ước TRIPS (các Điều 14.2 và 14.4). Điều 15 trên thực tế quy định một loại quyền tương tự về tiền thù lao đối với người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm như Điều 12 của Công ước Rome (trừ trường hợp, trong khi Hiệp định thì dành điều này cho luật quốc gia quyết định quyền này sẽ được trao cho người biểu diễn, người sản xuất hay cả hai, thì Công ước lại quy định rằng quyền này phải được trao cho cả hai, dưới hình thức một lần trả thù lao hợp lý) và với một phạm vi các hạn chế tương tự như theo quy định tại Điều 16.1(a) của Công ước Rome. Theo Điều 16(1) Hiệp định WIPO về trình diễn và các bản ghi âm, các quốc gia ký kết có thể “quy định các hạn chế và ngoại lệ tương tự đối với việc bảo hộ người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm như quy định trong các luật quốc gia của mình đối với việc bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật”. Quy định này giống như bản chất của Điều 15.2 Công ước Rome. Tuy nhiên, có một khác biệt quan trọng là Công ước Rome, tại Điều 15.1, còn quy định các hạn chế đặc biệt, độc lập so với các quy định trong các luật quốc gia liên quan tới việc bảo hộ quyền tác giả. Ví dụ, việc sử dụng các trích đoạn ngắn để báo cáo về các sự kiện hiện tại và việc ghi nhanh tạm thời của các tổ chức phát sóng, như cũng quy định trong Công ước Berne, và khả năng hạn chế đối với việc sử dụng cá nhân mà không có bất kỳ điều kiện gì tiếp theo, thì không phải là đối tượng phải “kiểm tra ba bước” (“three-step test”). Theo Điều 17 Hiệp định WIPO về trình diễn và các bản ghi âm, “thời hạn bảo hộ đối với người biểu diễn sẽ kéo dài ít nhất đến hết 50 năm tính từ khi kết thúc năm mà buổi trình diễn được định hình trong một bản ghi”. Thời hạn bảo hộ các bản ghi âm này khác với thời hạn được quy định tại Thỏa ước TRIPS. Theo Điều 14.5 Thỏa ước TRIPS, thời hạn 50 năm luôn được tính từ khi kết thúc năm mà việc ghi âm được thực hiện, trong khi theo Điều 17(2) Hiệp định WIPO về trình diễn và các bản ghi âm, thì thời hạn này được tính từ khi kết thúc năm mà bản ghi âm được công bố, và chỉ khi không có công bố thì nó mới được tính theo Thỏa ước TRIPS. Do việc công bố thông thường sẽ được thực hiện sau khi định vị bản ghi, nên nhìn chung, thời hạn theo Hiệp định có phần dài hơn. Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 38 Tài liệu tham khảo Quyền tác giả và các quyền liên quan Văn phòng quốc tế của WIPO, Các khái niệm cơ bản về quyền tác giả và các quyền liên quan, WIPO/CR/GE/00/1, Tháng 10/2000 (International Bureau of WIPO, Basic Notions of Copyright and Related Rights WIPO/CR/GE/00/1, October 2000) Văn phòng quốc tế của WIPO, Các luật và hiệp định về quyền tác giả và các quyền liên quan: (International Bureau of WIPO, Copyright and Related Rights Laws and Treaties: Văn phòng quốc tế của WIPO, Quyền tác giả và các quyền liên quan trong kỷ nguyên kỹ thuật số, WIPO/CR/JKT/02/4, Tháng 4/2002 (International Bureau of WIPO, Copyright and Related Rights in the Digital Era, WIPO/CR/JKT/02/4, April 2002) Văn phòng quốc tế của WIPO, Âm nhạc trong kỷ nguyên kỹ thuật số, Ấn phẩm của WIPO số 443, năm 2001 (International Bureau of WIPO, Music in the Digital Age, WIPO Pub. No. 443, 2001) Các hình thức thể hiện văn hóa truyền thống M. Ficsor, Các nỗ lực cung cấp bảo hộ quốc tế cho tác phẩm dân gian bằng các quyền sở hữu trí tuệ, Diễn đàn thế giới của WIPO-Unesco về bảo hộ các tác phẩm dân gian, Phuket, Thailand, Tháng 4/1997 (M. Ficsor, Attempts to Provide International Protection for Folklore by Intellectual Property Rights, WIPO-Unesco World Forum on the Protection of Folklore, Phuket, Thailand, April 1997) T. Janke, Ghi nhớ nền văn hóa - Nghiên cứu các trường hợp cụ thể về sở hữu trí tuệ và các hình thức thể hiện văn hóa truyền thống, WIPO/GRTKF/Study/2, Tháng 12/2002 (T. Janke, Minding Culture – Case Studies on Intellectual Property and Traditional Cultural Expressions, WIPO/GRTKF/Study/2, December 2002) P. V. Kutty, Nghiên cứu về bảo hộ các hình thức thể hiện dân gian, WIPO/GRTKF/Study/1, Tháng 11/2002 (P. V. Kutty, Study on the Protection of Expressions of Folklore, WIPO/GRTKF/Study/1, November 2002) Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 39 S. Ricketson, Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật: 1886-1986, London, 1987 (S. Ricketson, The Berne Convention for the Protection of Literary and Artistic Works: 1886-1986, London, 1987) W. Wendland, Sở hữu trí tuệ và bảo hộ các hình thức thể hiện văn hóa: Công việc của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO), Molengrafica Series, Viện nghiên cứu tư pháp Molengraaf, Trung tâm Luật Sở hữu trí tuệ (CIER), Utrecht, 2002 (W. Wendland, Intellectual Property and the Protection of Cultural Expressions: The Work of the World Intellectual Property Organization (WIPO), Molengrafica Series, Molengraaf Institute for Private Law, Centre for Intellectual Property Law (CIER), Utrecht, 2002) Diễn đàn thế giới của WIPO-Unesco về bảo hộ các tác phẩm dân gian, Phuket, Thailand, Ấn phẩm của WIPO số 758, Tháng 4/1997 (WIPO-Unesco World Forum on the Protection of Folklore, Phuket, Thailand, WIPO Pub. No 758, April 1997) Văn phòng quốc tế của WIPO, Các yêu cầu và triển vọng về sở hữu trí tuệ đối với những người nắm giữ tri thức truyền thống: Báo cáo của WIPO về các nhiệm vụ tìm kiếm thực tế (1998-1999), Ấn phẩm của WIPO số 768, Tháng 4/2001 (International Bureau of WIPO, Intellectual Property Needs and Expectations of Traditional Knowledge Holders: WIPO Report on Fact-finding Missions (1998-1999), WIPO Pub. No 768, April 2001) Văn phòng quốc tế của WIPO, Các phân tích vững chắc về bảo hộ pháp lý đối với các hình thức thể hiện văn hóa truyền thống, WIPO/GRTKF/IC/5/3, Tháng 5/2003 (International Bureau of WIPO, Consolidated Analysis of the Legal Protection of Traditional Cultural Expressions, WIPO/GRTKF/IC/5/3, May 2003) Các hiệp định Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật - Berne Convention for the Protection of Literary and Artistic Works Văn phòng quốc tế của WIPO, Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật 1886, sửa đổi tháng 9/1979, Ấn phẩm của WIPO số 287 (International Bureau of WIPO, Berne Convention for the Protection of Literary and Artistic Works 1886, as amended up to September 1979, WIPO Pub. No. 287) Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 40 Hiệp định WIPO về quyền tác giả (WCT) và Hiệp định WIPO về trình diễn và các bản ghi âm (WPPT) - WIPO Copyright Treaty (WCT) and WIPO Performances and Phonograms Treaty (WPPT) Văn phòng quốc tế của WIPO, Hiệp định WIPO về quyền tác giả (WCT), Ấn phẩm WIPO số 226, 1996 (International Bureau of WIPO, WIPO Copyright Treaty (WCT), WIPO Pub. No. 226, 1996) Văn phòng quốc tế của WIPO, Giới thiệu về Hiệp định WIPO về quyền tác giả (WCT) và Hiệp định WIPO về trình diễn và các bản ghi âm (WPPT), WIPO/CR/GE/00/3, Tháng 10/2000 (International Bureau of WIPO, Introduction to the WIPO Copyright Treaty (WCT) and the WIPO Performances and Phonograms Treaty (WPPT), WIPO/CR/GE/00/3, October 2000) H. Olsson, Các hiệp định mới của WIPO. Hiệp định WIPO về quyền tác giả (WCT) và Hiệp định WIPO về trình diễn và các bản ghi âm (WPPT) và ảnh hưởng của chúng tới việc bảo hộ quyền tác giả, thực thi và đấu tranh chống lại nạn sao chép lậu trong môi trường kỹ thuật số, WIPO/CR/BAK/00/1, Tháng 5/2000 (H. Olsson, The New WIPO Treaties.WIPO Copyright Treaty (WCT) and WIPO Performances and Phonograms Treaty (WPPT).and their Impact on Copyright Protection, Enforcement and Fighting Piracy in the Digital Environment, WIPO/CR/BAK/00/1, May 2000) Công ước Rome - Rome Convention Văn phòng quốc tế của WIPO, Công ước quốc tế về bảo hộ người trình diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và các tổ chức phát sóng (Công ước Rome), Ấn phẩm WIPO số 328, 1961 (International Bureau of WIPO, International Convention for the Protection of Performers, Producers of Phonograms and Broadcasting Organizations (Rome Convention), WIPO Pub. No. 328, 1961) Văn phòng quốc tế của WIPO, Công ước về bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm chống lại việc nhân bản trái phép các bản ghi của họ (Công ước Geneva về bản ghi), Ấn phẩm WIPO số 288, 1971 (International Bureau of WIPO, Convention for the Protection of Producers of Phonograms Against Unauthorized Duplication of Their Phonograms (Geneva Phonograms Convention), WIPO Pub. No. 288, 1971)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfvn_final_unit2_copyright.pdf
  • pdfvn_final_unit1_basic_concepts_ip.pdf
  • pdfvn_final_unit3_patents_and_utility_models.pdf
  • pdfvn_final_unit4_trademarks.pdf
  • pdfvn_final_unit5_ic.pdf
  • pdfvn_final_unit6_tradesecret.pdf
  • pdfvn_final_unit7_ipr_transfer.pdf
  • pdfvn_final_unit8__international_law_intellectual_property.pdf
  • pdfvn_final_unit9_enforcement.pdf
Tài liệu liên quan