Tài liệu lưu trữ Đảng và công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử

Mặt khác, trong việc đánh giá các công trình nghiên cứu sử học, giới sử học thường chưa thật nghiêm khắc xem xét tính xác thực và độ tin cậy của các nguồn sử liệu được sử dụng. Điều này dễ tạo cho các nhà viết sử thói quen coi nhẹ, thậm chí tùy tiện trong việc thu thập, xử lý và sử dụng các nguồn sử liệu. Vì vậy, trong thời gian tới phải làm tốt hơn công tác tuyên truyền cho việc sử dụng tài liệu lưu trữ Đảng vào các mục đích khác nhau, trong đó có mục đích nghiên cứu lịch sử dân tộc và lịch sử Đảng.

doc7 trang | Chia sẻ: phanlang | Lượt xem: 2236 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tài liệu lưu trữ Đảng và công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÀI LIỆU LƯU TRỮ ĐẢNG VÀ CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU, BIÊN SOẠN LỊCH SỬ Nguyễn Lệ Nhung TS. Trung tâm Nghiên cứu khoa học - Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước Nhìn lại tình hình nghiên cứu lịch sử của chúng ta trong vài thập kỷ gần đây, lịch sử Việt Nam vẫn là đối tượng thu hút sự quan tâm của giới sử học. Nhiều công trình nghiên cứu lịch sử được công bố như Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Lịch sử Việt Nam, Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nam Trung bộ kháng chiến (1945-1975), v.v... Các công trình sử học này đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của đất nước; góp phần xây dựng một thế giới quan khoa học cách mạng không những cho hiện tại mà còn cho các thế hệ tương lai. Chức năng chung của khoa học lịch sử là nhận thức xã hội, giáo dục con người, tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng, đóng góp tích cực vào công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, con người mới. Đó là việc nghiên cứu một cách khoa học để bằng cách miêu tả, dựng lại quá trình trưởng thành của Cách mạng Việt Nam; phân tích, đánh giá, giải thích các sự kiện và quá trình lịch sử của Đảng, và từ đó phát hiện quy luật phát triển chung và quy luật đặc thù của sự nghiệp cách mạng Việt Nam, của Đảng ta. Như vậy, chức năng nhận thức ở đây gồm hai vấn đề: một là, dựng lại lịch sử gần đúng như nó đã diễn ra; hai là, phát hiện quy luật, đúc kết lý luận và bài học kinh nghiệm từ lịch sử. Hai vấn đề này có quan hệ biện chứng với nhau: Có dựng lại lịch sử đúng như nó diễn ra mới có cơ sở để phát hiện quy luật của nó; đồng thời có nghiên cứu phát hiện được bản chất của sự kiện lịch sử, quy luật vận động khách quan của nó thì mới dựng lại được gần sát đúng như nó diễn ra. Đây là nét đặc trưng của khoa học lịch sử nói chung, khoa học lịch sử Đảng nói riêng. Quá trình nhận thức nói trên được lặp đi lặp lại, từ nông đến sâu, phát triển không ngừng. Không thể chỉ một lần đã có thể dựng lại được đúng bức tranh của lịch sử, cũng không thể nhận thức một lần là có thể phát hiện được đầy đủ bản chất và quy luật của lịch sử. Chúng ta nghiên cứu lịch sử không phải chỉ giản đơn là ôn lại quá khứ, mà chủ yếu là nhằm hiểu đúng, hiểu sâu cái đã qua, để có điều kiện hiểu được cái đang và sắp diễn ra, phục vụ tốt hơn cho việc xem xét và giải quyết những vấn đề của Đảng, của đất nước trong hiện tại và tương lai. Nghiên cứu lịch sử càng được tiến hành một cách khách quan và trung thực bao nhiêu, càng phù hợp với lợi ích của Đảng, của giai cấp công nhân, của toàn dân tộc bấy nhiêu. Trong quá trình nghiên cứu và biên soạn lịch sử, những người nghiên cứu phải sử dụng nhiều nguồn sử liệu khác nhau, trong đó tài liệu lưu trữ Đảng là nguồn sử liệu đóng vai trò quan trọng và chủ yếu. Bài viết này của chúng tôi xin nêu vài nét về nguồn tài liệu lưu trữ Đảng, về vai trò của tài liệu lưu trữ đảng trong nghiên cứu, biên soạn lịch sử. 1. Tài liệu lưu trữ Đảng với tư cách là nguồn sử liệu trong nghiên cứu, biên soạn lịch sử Có thể nói, đây là vấn đề nhận thức đúng đắn của các nhà nghiên cứu lịch sử. Chúng ta đều biết rằng, trong nghiên cứu lịch sử, các nhà sử học đã sử dụng nhiều nguồn sử liệu khác nhau: sử liệu chữ viết, sử liệu vật thật, sử liệu truyền miệng, sử liệu nghe nhìn, v. v... Để hiểu bản chất của nguồn sử liệu, chúng ta nên xác định thế nào là nguồn sử liệu nói chung và sử liệu - tài liệu lưu trữ Đảng nói riêng. Thực tế nghiên cứu lịch sử cho thấy, theo nghĩa rộng, nguồn sử liệu là tất cả những gì chứa đựng các thông tin về quá khứ hoạt động của con người trong điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định. Theo ý kiến của nhà sử học Ba Lan Topolski thì "Nguồn sử liệu là mọi thông tin về đời sống con người trong quá khứ cùng với các kênh thông tin". Có thể lấy thí dụ: Nghị quyết 15 của Trung ương ngày 13.01.1959 về đường lối cách mạng Việt Nam ở miền Nam là kênh chứa đựng thông tin về đường lối, phương hướng, phương châm đấu tranh cách mạng của Đảng ta, nhân dân ta trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước; Chỉ thị cuối năm 1958 của Liên khu ủy V về xây dựng căn cứ miền núi là kênh chứa đựng thông tin về chủ trương đẩy mạnh phong trào đấu tranh và xây dựng căn cứ địa ở miền núi để bảo toàn và phát triển lực lượng vũ trang ở miền Nam Trung bộ. Ta có thể khai thác thông tin trên một kênh dưới nhiều góc độ khác nhau và khai thác cùng một thông tin qua nhiều kênh khác nhau. Theo nghĩa hẹp, nguồn sử liệu - tài liệu lưu trữ Đảng là những tài liệu được hình thành trong quá trình hoạt động của các cơ quan, tổ chức Đảng từ trung ương đến địa phương, của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt và các đảng viên tiêu biểu của Đảng, được bảo quản cố định trong các kho lưu trữ Đảng. Chúng phản ánh chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, về tình hình cách mạng Việt Nam và về sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội. Trên cơ sở các khái niệm theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp về nguồn sử liệu, chúng ta có thể thấy tài liệu lưu trữ được sản sinh ra không phải nhằm mục đích để làm sử liệu, mà trước hết là do nhu cầu của thực tiễn cuộc sống đòi hỏi. Như vậy, chúng phải được xem xét như là những hiện tượng xã hội được sinh ra trong những hoàn cảnh nhất định. Thí dụ: Nhóm tài liệu văn kiện phản ánh những quyết sách quan trọng về đường lối cách mạng ở miền Nam của Đảng ta như Nghị quyết 15 ngày 13.01.1959 của Ban Chấp hành Trung ương, Đề cương cách mạng miền Nam của đồng chí Lê Duẩn, Nghị quyết hội nghị Liên khu ủy V năm 1958, Chỉ thị cuối năm 1958 của Liên khu ủy V về xây dựng căn cứ miền núi,... Những tài liệu văn kiện trên phản ánh rõ nét chủ trương, đường lối của Đảng ta trong thời kỳ đấu tranh giành thống nhất nước nhà, phản ánh con đường phát triển của cách mạng Việt Nam là con đường bạo lực của quần chúng, dựa vào lực lượng của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang đánh đổ đế quốc Mỹ và tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân. Chúng trở thành nguồn sử liệu khi ta đặt vấn đề thông qua chúng để nghiên cứu lịch sử kháng chiến ở các tỉnh miền Nam nói riêng và tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta nói chung. Từ đó ta thấy, khi chưa trở thành sử liệu, tài liệu văn kiện Đảng là phương tiện thực hiện những nhiệm vụ thực tiễn trong hoạt động có mục đích của con người, cho nên có thể nói: phục vụ thực tiễn là sự sống đầu tiên của sử liệu. Điều này có nghĩa là khi nghiên cứu sử liệu phải đặt nó vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể đã sản sinh ra nó và thấy được hoàn cảnh ấy đã tác động, chi phối như thế nào đối với nội dung và hình thức của sử liệu; và sử liệu đã phản ánh thực tại ấy ở mức độ nào. Có làm được như vậy mới nhận thức được bản chất của hiện tượng, sự kiện, đối tượng nghiên cứu của khoa học lịch sử. Đây chính là sự tồn tại khách quan, độc lập của sử liệu đối với chủ thể nhận thức và cho thấy sử liệu có một vị trí quan trọng trong quá trình nhận thức lịch sử. Với tư cách là một nguồn sử liệu quan trọng trong các công trình nghiên cứu lịch sử, tài liệu lưu trữ Đảng giúp chúng ta dựng lại một cách chính xác toàn bộ quá trình xây dựng và phát triển của cách mạng nước ta về tất cả các mặt vừa mang tính khái quát, vừa mang tính cụ thể. Thí dụ: Trong "cương lĩnh cách mạng" của Đảng ta ngay từ khi ra đời, đã khẳng định quan điểm bạo lực cách mạng, chỉ ra con đường vũ trang đấu tranh để giành chính quyền. Nhiều tài liệu văn kiện của các hội nghị Trung ương Đảng từ 1946 đến 1950 cung cấp nhiều thông tin trung thực phản ánh đường lối kháng chiến, xây dựng và phát triển đường lối chiến tranh, khoa học và nghệ thuật quân sự để chiến thắng thực dân Pháp xâm lược tiến tới tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945; phản ảnh tình hình về xây dựng lực lượng quân sự, phương châm tác chiến, công tác tổng động viên, v.v... như Chỉ thị "Toàn dân kháng chiến" (22/12/1946), tài liệu hội nghị tháng 1/1948, tài liệu hội nghị cán bộ Trung ương tháng 1/1949 về "Tích cực cầm cự và chuẩn bị tổng phản công", tài liệu hội nghị cán bộ toàn quốc tháng 1/1950 về "nhiệm vụ quân sự trước mắt chuyển sang tổng phản công", v.v... Các nhà sử học có thể nghiên cứu đường lối và phương pháp cách mạng miền Nam qua "Đề cương cách mạng miền Nam" của đồng chí Lê Duẩn, Nghị quyết 15 (1/1959), tiếp sau đó là Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (9/1960) để thấy sự sáng tạo của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo và chỉ đạo cuộc đấu tranh của nhân dân cả nước chống đế quốc Mỹ xâm lược. Các tài liệu hội nghị TW lần thứ 11 (3/1965), nhất là lần thứ 12 (12/1965) đã phân tích toàn diện, sâu sắc chiến lược mới của Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam và đề ra chủ trương đối phó đúng đắn, chủ động và sáng tạo. Nghị quyết hội nghị TW lần thứ 21 (7/1973) là một trong những văn kiện lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ và là văn kiện quan trọng trực tiếp chỉ đạo chiến tranh cách mạng giành thắng lợi trong giai đoạn kết thúc chiến tranh, và cùng với tài liệu hội nghị Quân ủy TW (3/1974) đã đề ra chủ trương kiên quyết phản công và tiến công địch, vận dụng linh hoạt trên cả ba vùng chiến lược,... mở đường cho chiến thắng lịch sử Mùa xuân 1975. Ngoài khả năng cung cấp thông tin sử liệu cho nghiên cứu lịch sử dân tộc và lịch sử Đảng, tính chất sử liệu của nguồn tài liệu lưu trữ trong các kho lưu trữ Đảng từ trung ương đến địa phương còn là ở chỗ tự chúng, khi được tập hợp theo những chủ đề nhất định cũng cho phép nhìn nhận các vấn đề lịch sử Đảng qua những giai đoạn, những vấn đề cụ thể. Thí dụ: Vừa qua, một số tập trong bộ "Văn kiện Đảng " từ ngày thành lập đến nay đã được xuất bản, tự chúng đã là lịch sử Đảng hiểu theo một góc độ nhất định. Nguồn của nhiều tài liệu được công bố đó chính là tài liệu lưu trữ. Nếu có điều kiện để đọc một nhóm tài liệu nào đó được bảo quản trong kho lưu trữ Đảng, chẳng hạn như nhóm "Hồ sơ về Đại hội Đảng", thì như thế trên thực tế là chúng ta đã đọc lịch sử Đảng qua "nguồn sử liệu" ở một khía cạnh cụ thể. Sự hệ thống hóa càng chi tiết và càng có nhiều tài liệu được tập hợp thì đặc điểm phản ánh lịch sử của nguồn sử liệu càng rõ nét và càng hệ thống. 2. Vai trò của tài liệu lưu trữ Đảng trong nghiên cứu các sự kiện lịch sử Như chúng ta đã biết, trong quá trình nghiên cứu và biên soạn lịch sử, chúng ta phải đụng chạm đến những sự kiện, những giai đoạn lịch sử đòi hỏi phải lý giải chúng trên một quan điểm tiến bộ và bằng một phương pháp khoa học, có nghĩa là chúng ta phải nhìn nhận mỗi sự kiện, hiện tượng là cái khách thể của tự nhiên và xã hội có sự phát sinh, phát triển không phụ thuộc vào ý thức của con người. Có quan điểm đúng đắn và phương pháp khoa học không những giúp cho công trình sử học không bị rơi vào tình trạng dựng nên một bức tranh phi thực tế, mà còn chỉ ra đúng bản chất của sự kiện, hiện tượng. Vấn đề được bàn tới trong nghiên cứu, biên soạn lịch sử là những sự kiện, hiện tượng đã xảy ra. Việc nghiên cứu những sự kiện này xuất phát từ một số yếu tố như: sự kiện chưa được hiểu một cách đúng đắn; sự kiện chưa được hiểu đầy đủ. Giải quyết những vấn đề này là một trong những nhiệm vụ quan trọng của khoa học lịch sử. Thực tế lịch sử rất phong phú và đa dạng, có cả tất nhiên và ngẫu nhiên, có thành công và thất bại, có thắng lợi và tổn thất, có lãnh đạo và quần chúng nhân dân,... Tái hiện các quá trình lịch sử và chỉ ra được các mặt vốn có của nó là nhiệm vụ của người nghiên cứu. Và để giải quyết được những vấn đề trên không thể không dựa vào các nguồn sử liệu, mà tài liệu lưu trữ là nguồn sử liệu chủ đạo và quan trọng nhất. Nói như thế, không có nghĩa là kết quả nghiên cứu, biên soạn lịch sử chỉ hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn sử liệu. Điều hiển nhiên là nếu không có tri thức riêng của người nghiên cứu thì sử liệu chỉ là những hiện tượng rời rạc; ngược lại, không có sử liệu thì người nghiên cứu không thể đem tri thức của mình để dựng nên một bức tranh lịch sử thực tế. Qua đó, rõ ràng nguồn sử liệu là điều kiện để người nghiên cứu đặt vấn đề và giải quyết vấn đề nghiên cứu lịch sử một cách hiệu quả. Có thể lấy thí dụ, trên thực tế, khi nghiên cứu về phong trào "Đồng khởi" ở miền Nam trong những năm chống Mỹ cứu nước thì việc sử dụng nguồn sử liệu - tài liệu lưu trữ là rất cần thiết. Các nhà nghiên cứu hiện nay và sau này đều phải hướng sự chú ý của mình vào việc khai thác và sử dụng tài liệu lưu trữ bảo quản trong Kho Lưu trữ Trung ương Đảng và các kho lưu trữ tỉnh ủy Bến Tre, Bình Định, Quảng Ngãi,... là những địa bàn được xem là nơi mở đầu và là ngọn cờ tiêu biểu cho phong trào "Đồng khởi" ở miền Nam nước ta trước ngày giải phóng. Hoặc trong công trình nghiên cứu lịch sử chiến khu D, tài liệu lưu trữ của Tỉnh ủy Tây Ninh, Đồng Nai, Sông Bé được sử dụng như những bằng chứng lịch sử, đã góp phần đánh giá đúng tầm vóc của một căn cứ địa nổi tiếng, một trung tâm kháng chiến, một hậu phương chiến lược tại chỗ của quân và dân miền Đông Nam bộ dưới sự lãnh đạo của Đảng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Có thể nói, tài liệu lưu trữ Đảng không những được coi là nguồn sử liệu quý giá và quan trọng trong nghiên cứu, biên soạn lịch sử mà còn giúp các nhà nghiên cứu hiệu đính lại những sự kiện lịch sử đã bị hiểu sai lệch do những đặc thù của nó so với các nguồn sử liệu khác.Bởi lẽ điều cơ bản đầu tiên là nhà sử học phải tiếp cận với hiện thực lịch sử khách quan đã xảy ra, thông qua các nguồn sử liệu có đủ độ tin cậy để tái tạo lại bức tranh chân thực của lịch sử, để đánh giá được một cách trung thực, toàn diện nhiều vấn đề của lịch sử Đảng với tất cả sự đa dạng, phong phú của nó. Đó là những vấn đề về vai trò của Đảng trong cách mạng Việt Nam, trong quan hệ với các đảng cộng sản trên thế giới, về mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, về sự lãnh đạo và hoạt động của Đảng trong điều kiện kinh tế thị trường và nhiều vấn đề quan trọng khác. Tất nhiên, không phải hiện nay mọi vấn đề của khoa học lịch sử Đảng đều đã được giải quyết tốt. Thực tế cho thấy, dù đã đạt được nhiều thành tựu, khoa học lịch sử Đảng vẫn đứng trước nhiều câu hỏi cần phải tiếp tục nghiên cứu và làm sáng tỏ. Thí dụ, chúng ta cần phải đánh giá như thế nào cho thật khách quan, chính xác về thời kỳ Bác Hồ chưa được Quốc tế Cộng sản tin tưởng? về vai trò của đồng chí Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập? về cải cách ruộng đất? về Hội nghị Giơ-ne-vơ, về cải tạo XHCN ở miền Nam sau giải phóng? v.v... Những vấn đề đó và hàng loạt vấn đề khác sẽ không thể giải quyết được nếu không dựa vào các nguồn sử liệu. Sử liệu càng phong phú và chính xác bao nhiêu thì nghiên cứu và trả lời những câu hỏi nói trên càng thuận lợi bấy nhiêu. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy vẫn còn một số tác phẩm nghiên cứu, biên soạn sơ lược, thiếu tính tổng kết nên chưa có được những bài học lịch sử đích thực. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, nhưng đáng kể nhất, theo chúng tôi là sự nghèo nàn về sử liệu, dẫn đến sự giản đơn, sơ lược trong cách lý giải các sự kiện và quá trình lịch sử. Mặc dù nguồn sử liệu của lịch sử Đảng ta khá phong phú, nhưng trong thời gian qua, việc khai thác và sử dụng chúng trong một số công trình lịch sử còn quá ít, đặc biệt là lịch sử Đảng ở địa phương. Nhiều nguồn sử liệu trong các kho lưu trữ thậm chí chưa được sử dụng. Trong thực tế, không ít nhà nghiên cứu lịch sử Đảng còn tự hạn chế mình khi tìm kiếm các khả năng khai thác sử liệu cũng như phương pháp tiếp cận với giá trị thực sự của mỗi nguồn sử liệu cụ thể. Có nhiều thí dụ cho thấy tình hình thực tế đó. Chẳng hạn trong công trình lịch sử cách mạng của một số đảng bộ hoạt động trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp ở Bắc và Trung bộ vì thiếu các nguồn sử liệu có độ tin cậy cao, nên sự chỉ đạo của các Khu ủy, Liên khu ủy III, IV, Khu ủy Tả Ngạn còn chưa được trình bày rõ. Ở một vài công trình còn nặng về mô tả sự kiện, thậm chí sự kiện này phủ nhận sự kiện kia, hoặc tuy đã sử dụng nhiều loại hình sử liệu khác nhau, kể cả tài liệu lưu trữ, nhưng phương pháp tiếp cận chưa đảm bảo tính khoa học. Có tác phẩm về lịch sử Đảng bộ do có khó khăn trong việc khai thác các nguồn sử liệu đã mô tả các sự kiện không chính xác về thời gian xảy ra, do đó chưa hiểu đúng và đầy đủ về diễn biến của các sự kiện đó. Sự vắng mặt của tài liệu lưu trữ Đảng trong những trường hợp trên đã dẫn đến kết quả là tác phẩm lịch sử Đảng bộ thiếu những cứ liệu quan trọng, làm cho nội dung của không ít tác phẩm mô tả thiếu tính chính xác và khoa học, đôi khi chỉ là sự chắp vá, khiên cưỡng và chủ yếu là những sự kiện, những nhận xét, đánh giá chung chung. Các tồn tại đó hoàn toàn có thể khắc phục được nếu biết dựa vào tài liệu lưu trữ Đảng. Một thí dụ khác: Tại một huyện của một tỉnh ở đồng bằng Bắc bộ, khi nghiên cứu và biên soạn lịch sử Đảng bộ huyện, việc khai thác các nguồn sử liệu thật sự là một khó khăn rất lớn. Các cuộc tọa đàm, các hội thảo rộng rãi với thành phần là những nhân chứng đã từng tham gia công tác lãnh đạo ở địa phương, hoặc đã từng tham gia vào chính các sự kiện đã xảy ra trong lịch sử của huyện chỉ cho phép các nhà nghiên cứu hình dung được những nét chung nhất, những nhận định khái quát về một vài thời điểm lịch sử hay từng giai đoạn nhất định. Nguồn sử liệu chính xác và phong phú về sự chỉ đạo của tổ chức Đảng, về sự hoạt động của các đoàn thể quần chúng, về tinh thần cách mạng của nhân dân cuối cùng chỉ có thể tìm thấy qua khai thác sử dụng tài liệu lưu trữ trong Kho lưu trữ Đảng bộ huyện. Những sự kiện lịch sử, những số liệu thống kê được xử lý qua thông tin quá khứ của tài liệu lưu trữ đã đem đến cho công trình lịch sử Đảng bộ huyện một sắc thái mới bằng những chứng cứ tin cậy, xác đáng. Tất nhiên, ngoài nguồn sử liệu chữ viết như sách, báo, tài liệu lưu trữ, các nhà nghiên cứu cũng còn phải chú ý đến các hiện vật trong bảo tàng, trong phòng truyền thống, và khai thác nhiều thông tin qua các nhân chứng sống (những người cao tuổi, những chiến sĩ cách mạng lão thành, những người đã từng giữ những chức vụ lãnh đạo ở TW và địa phương, v.v...). nhưng trên thực tế không một nguồn sử liệu nào lại có thể thay thế được vai trò của nguồn sử liệu chữ viết, mà trong số đó đặc biệt quan trọng là tài liệu lưu trữ. Thật khó có thể hình dung được rằng, có một công trình nghiên cứu lịch sử Đảng nào lại bỏ quên nguồn sử liệu vô giá này. Đây là vai trò hơn hẳn của tài liệu lưu trữ so với các nguồn sử liệu khác và rõ ràng là một loại hình sử liệu không thể thay thế. Một căn cứ quan trọng của tài liệu lưu trữ để nghiên cứu các sự kiện lịch sử là tính chính xác của nó. Có thể thấy rõ điều này qua một số đặc điểm cụ thể sau đây: Thứ nhất, nguồn sử liệu - tài liệu lưu trữ của lịch sử Đảng không chỉ giới hạn ở việc phản ảnh một đối tượng cụ thể hay một mặt nào đó của thực tại đã qua, mà phản ánh toàn bộ sự kiện ấy. Nó ghi lại khá đầy đủ những hoạt động của Đảng, của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Có thể nói tài liệu lưu trữ Đảng là những nhân chứng lịch sử, vì nó được sinh ra gần như đồng thời với các sự kiện, hiện tượng lịch sử, là những bằng chứng lịch sử sinh động và đáng tin cậy và do nhu cầu hoạt động khách quan của Đảng. Tự thân nó đã mang tính chân thực, phản ánh sự việc, hiện tượng một cách khách quan. Những đặc trưng đó giúp cho các nhà nghiên cứu lịch sử tiếp cận với sự thật lịch sử, mà sự thật lịch sử bao giờ cũng là mục tiêu quan trọng nhất của bất kỳ một công trình nghiên cứu lịch sử nào. Nhờ có nó mà trong công tác nghiên cứu lịch sử Đảng, các nhà sử học có thể nghiên cứu quá khứ một cách đúng đắn và khách quan hơn, loại trừ được những “què quặt”, những sai lầm không đáng có trong việc đánh giá các sự kiện, hiện tượng hoặc những nhân vật lịch sử. Nguồn sử liệu - tài liệu lưu trữ Đảng còn phản ánh một cách sinh động, rõ ràng, chân thực hoạt động của quần chúng nhân dân, trong quá trình thực hiện các Nghị quyết, các chủ trương của Đảng. Thứ hai, tính chính xác của nguồn sử liệu - lưu trữ Đảng còn biểu hiện ở chỗ, đây chủ yếu là những tài liệu gốc, hoặc đều có giá trị như tài liệu gốc. Loại sử liệu là tài liệu lưu trữ Đảng có khối lượng rất lớn và được lưu giữ tương đối hoàn chỉnh, có hệ thống. Có thể đối chiếu với nhau nên độ tin cậy của chúng càng được nâng cao. Ngoài tài liệu chữ viết, trong Kho lưu trữ TW Đảng còn có những loại tài liệu lưu trữ khác như tài liệu ảnh, phim, băng ghi âm, ghi hình. Chúng đều có giá trị cao và đáng tin cậy. Đó chủ yếu là những thông tin cấp I, có giá trị pháp lý theo các quy định chung. 3. Một số nhận xét bước đầu và kiến nghị Một trong những khó khăn của việc sử dụng tài liệu trong nghiên cứu lịch sử Việt Nam nói chung, lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng hiện nay là sự thiếu hoàn chỉnh của nhiều phông lưu trữ cụ thể do phía các cơ quan lưu trữ Đảng đang quản lý. Thành phần của nhiều phông tài liệu hiện chưa thật sự đầy đủ. Một số giai đoạn lịch sử còn trống vắng tài liệu phản ảnh quá trình hoạt động của các cơ quan, tổ chức Đảng, nhất là những tài liệu ra đời trong thời kỳ Đảng hoạt động bí mật. Một số đơn vị tài liệu trong Kho lưu trữ chưa xác định được mật danh nên gây nhiều trở ngại cho việc tiếp cận khai thác,... Một số lớn khối lượng tài liệu mật được sản sinh ra từ lâu, nhưng chưa được xem xét giải mật nên không thể đưa ra phục vụ cho nhu cầu nghiên cứu lịch sử Đảng. Trên thực tế, mối quan hệ giữa nhiệm vụ giữ gìn an toàn và bí mật tài liệu lưu trữ Đảng với nhiệm vụ đưa tài liệu lưu trữ phục vụ rộng rãi nhu cầu của xã hội chưa được giải quyết hài hòa, dẫn đến một số chủ trương và quy định về công bố và sử dụng tài liệu được đề ra thiếu sự xem xét ở tầm vĩ mô, mà chỉ mang tính cục bộ hoặc đối phó. Một tồn tại có tính nghịch lý là trong khi chúng ta đang xây dựng một số chương trình, đề án nghiên cứu quy mô, tổ chức những cuộc hội thảo khoa học lớn về Đảng và Bác, nhằm rút ra những kết luận khoa học về sự nghiệp lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, về tư tưởng, đạo đức, tác phong của Bác, thì một số Lưu trữ đang bảo quản những tài liệu có liên quan lại chưa được rộng mở để giới sử học có thể có cơ hội tiếp xúc với những thông tin đó. Đây là vấn đề cần được nghiên cứu giải quyết sớm để mở đường rộng rãi cho việc sử dụng tài liệu lưu trữ Đảng như một nguồn sử liệu. Một khó khăn nữa là nhận thức chưa đúng của một số cán bộ lãnh đạo hiện nay của các cơ quan, tổ chức Đảng. Trên thực tế, họ chưa thấy hết tầm quan trọng, vị trí, ý nghĩa của tài liệu lưu trữ Đảng trong việc xây dựng các nguồn sử liệu cho nghiên cứu lịch sử Đảng. Do vậy, việc quan tâm chỉ đạo công tác này ở nhiều nơi còn chưa được chú ý đúng mức. Nhiều kho lưu trữ cấp ủy, tài liệu văn kiện không những chưa được tập trung đầy đủ mà còn chưa đượhojphaan loại, xác định giá trị, việc thống kê tài liệu không làm tốt. Điều này đã gây khó khăn không nhỏ cho việc khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ trong nghiên cứu lịch sử. Từ đó, giải quyết vấn đề nhận thức đúng đắn vai trò của tài liệu lưu trữ cho cán bộ các cấp vẫn là một nhiệm vụ cấp bách hiện nay. Một trở ngại khác là, một số nhà nghiên cứu lịch sử còn chưa thấy hết tính ưu việt của nguồn sử liệu - tài liệu lưu trữ Đảng, chưa tạo cho mình một thói quen sử dụng tài liệu lưu trữ. Họ thường đánh đồng nó với các nguồn sử liệu có độ chính xác thấp hơn như sử liệu ấn phẩm (sách, báo, tạp chí), thậm chí với cả sử liệu truyền miệng. Chỉ khi nào cảm thấy “bí” các nguồn sử liệu khác họ mới đến với tài liệu lưu trữ. Thí dụ, có địa phương tổ chức nhiều cuộc hội thảo (gồm những người cao tuổi, những nhân chứng sống đã tham gia vào các sự kiện, hiện tượng lịch sử đó) để xác minh một vài sự kiện, hiện tượng lịch sử của huyện mình; kinh phí tốn kém đến cả trăm triệu đồng, trong khi đó tài liệu lưu trữ của huyện ủy không được tập trung quản lý và đánh giá. Sau này, khi tài liệu lưu trữ được tập trung chỉnh lý, đánh giá và sắp xếp, họ mới thấy rằng những sự kiện, hiện tượng được xác minh một cách tương đối ở các cuộc hội thảo đều được phản ánh chi tiết và đầy đủ trong tài liệu lưu trữ của địa phương mình. Mặt khác, trong việc đánh giá các công trình nghiên cứu sử học, giới sử học thường chưa thật nghiêm khắc xem xét tính xác thực và độ tin cậy của các nguồn sử liệu được sử dụng. Điều này dễ tạo cho các nhà viết sử thói quen coi nhẹ, thậm chí tùy tiện trong việc thu thập, xử lý và sử dụng các nguồn sử liệu. Vì vậy, trong thời gian tới phải làm tốt hơn công tác tuyên truyền cho việc sử dụng tài liệu lưu trữ Đảng vào các mục đích khác nhau, trong đó có mục đích nghiên cứu lịch sử dân tộc và lịch sử Đảng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnghiencuu_bien_soan_lich_su1_9839.doc