Sự cần thiết khách quan và vai trò của bảo hiểm xã hội trong nền kinh tế thị trường

mua công trái giáo dục hết 200 tỷ, còn lại cho các ngân hàng thương mại của nhà nước vay 52.773 tỷ đồng. Tuy nhiên, trong năm 2008, quỹ chỉ thu về gần 9.000 tỷ đồng tiền lãi với tỷ lệ lãi trên vốn là 11,76%. Đến năm 2009 thì số lãi ước thu được khoảng 8.400 tỷ đồng, tỷ lệ lãi trên vốn giảm xuống còn 9,10%. Rõ ràng hoạt động đầu tư quỹ BHXH bảo đảm an toàn và có khả năng thu hồi được khi cần thiết nhưng hình thức đầu tư chưa thực sự hiệu quả.

doc19 trang | Chia sẻ: hao_hao | Lượt xem: 5416 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự cần thiết khách quan và vai trò của bảo hiểm xã hội trong nền kinh tế thị trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Câu 1. Sự cần thiết khách quan và vai trò của BHXH trong nền kinh tế thị trường: Sự cần thiết khách quan của BHXH Con người muốn tồn tại và phát triển thì trước hết phải ăn, mặc, ở, đi lại. Để thỏa mãn những nhu cầu đó thì con người phải lao động để tạo ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống của con người ngày càng đầy đủ, phong phú và đa dạng hơn, làm cho xã hội cũng càng văn minh hơn. Như vậy việc thỏa mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Tuy nhiên trên thực tế không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường mà có rất nhiều trường hợp con người gặp phải những khó khăn bất lợi, chẳng hạn như: ốm đau, tai nạn lao động, mất việc hay khi tuổi già khả năng lao động bị suy giảm … Tất cả những trường hợp này làm cho con người có thể bị suy sụp hoặc mất thu nhập ảnh hưởng đến các điều kiện sinh sống khác, thậm chí khi trường hợp đó xảy ra con người còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: khám chữa bệnh, điều trị, có người chăm sóc… Bởi vậy muốn tồn tại và ổn định cuộc sống con người phải tìm ra các cách giải quyết khác nhau. Thực tế đã chứng minh có một số biện pháp tương đối hiệu quả được con người sử dụng đó là san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng hay là đi vay, đi xin, dựa vào sự cứu trợ của nhà nước… Những biện pháp này tương đối hiệu quả nhưng nó không hoàn toàn chắc chắn và mang tính thụ động . Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển việc thuê mướn lao động trở nên phổ biến thì mối quan hệ kinh tế giữa người sử dụng lao động và người lao động càng trở nên phức tạp. Lúc đầu người sử dụng lao động chỉ cam kết là trả công lao động nhưng về sau đã phải cam kết cả việc đảm bảo cho người lao động có một khoản thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn, bệnh nghề nghiệp,…Thực tế cũng có thể các trường hợp trên không xảy ra và người sử dụng lao động không phải chi 1 đồng nào cả nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập buộc người sử dụng lao động cùng lúc phải bỏ ra nhiều khoản tiền mà họ không mong muốn dẫn đến nảy sinh mâu thuẫn kinh tế giữa người sử dụng lao động và người lao động (giới chủ và giới thợ). Khi đó người lao động liên kết với nhau đấu tranh để đòi người lao động thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng và tác động đến nhiều mặt kinh tế xã hội. Vì thế nhà nước đã phải đứng ra để can thiệp giúp các bên giải quyết mâu thuẫn bằng cách yêu cầu cả người lao động và người sử dụng lao động góp những khoản tiền nhất định hàng tháng để hình thành quỹ bảo hiểm. Phần đóng góp này được tính toán trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với người lao động. Mặt khác nhà nước cũng hỗ trợ một phần vào quỹ bảo hiểm khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp những biến cố bất lợi. Chính vì mối quan hệ giữa 3 bên như vậy mà rủi ro bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họn ngày càng được đảm bảo ổn định. Bản thân người sử dụng lao động cũng thấy mình được bảo vệ, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy nguồn quỹ bảo hiểm (nguồn quỹ tiền tệ tập trung) ngày càng lớn mạnh. Khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ cũng ngày càng được đảm bảo. Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc được nói ở trên được thế giới quan niệm đó là BHXH đối với người lao động. Như vậy có thể thấy khi điều kiện kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì BHXH càng trở nên cần thiết đối với người lao động. Vai trò của BHXH đối với nền kinh tế : BHXH góp phần tạo lập mối quan hệ gắn bó chủ thợ từ đó làm cho các mối quan hệ trên thị trường lao động trở nên lành mạnh hơn. Những mâu thuẫn vốn có trong quan hệ lao động được giải tỏa về cơ bản. Đây là tiền đề về mặt kinh tế kích thích tính tự giác, sáng tạo của người lao động, từ đó góp phần nâng cao năng suất lao động cá nhân, từ đó nâng cao năng suất lao động xã hội. Đồng thời cũng nhờ có BHXH mà một quỹ tiền tệ tập trung đã được hình thành. Nguồn quỹ này ngày càng được tích lại theo thời gian và đã trở thành một nguồn tài chính trung gian rất quan trọng trong hệ thống tài chính quốc gia. Phần quỹ nhàn rỗi sẽ được đem đầu tư phát triển và tăng trưởng kinh tế. Câu 2. Bản chất của BHXH: Thể hiện nhiều bản chất: Là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp trong đời sống kinh tế xã hội của loài người. Mối quan hệ giữa 3 bên trong BHXH là những mối quan hệ về kinh tế và xã hội . Các mối quan hệ này được phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động , quan hệ trong quản lí xã hội. Mối quan hệ 3 bên: + Bên tham gia BHXH: người lao động, người sử dụng lao động, nhà nước. + Bên BHXH: cơ quan BHXH. Hiện nay BHXH cấp huyện là nhỏ nhất + Bên hưởng BHXH: người lao động và gia đình họ. Cơ sở chủ yếu của các mối quan hệ giữa các bên tham gia BHXH là quỹ BHXH. BHXH là nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động và gia đình họ trong trường hợp người lao động tham gia BHXH bị suy giảm hoặc mất thu nhập được tổ chức tổ chức lao động cụ thể hóa: đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất, suy giảm để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ: Chăm sóc sức khỏe chống bệnh tật, xây dựng điều kiện sống đáp ứng nhu cầu của dân cư và các nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật, trẻ em. Phần thu nhập của người lao động bị suy giảm hoặc bị mất đi khi có các rủi ro hoặc sự kiện bảo hiểm xảy ra thì sẽ được quỹ tài chính bù đắp, thay thế. Song mức độ bù đắp thay thế thường thấp hơn mức thu nhập trước đó của họ. Những rủi ro hoặc sự kiện bảo hiểm trong BHXH có thể là ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người hoặc cũng có thể những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên. VD: Sinh đẻ của lao động nữ, già yếu…Đồng thời những rủi ro và sự kiện bảo hiểm này có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động. Câu 3:Chức năng và tính chất của BHXH: Chức năng của BHXH: - Bảo đảm ổn định đời sống kinh tế cho người lao động và gia đình họ khi người lao động gặp khó khăn do mất việc làm, mất hoặc giảm thu nhập. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH. - Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Những người tham gia BHXH đóng góp vào quỹ BHXH để bù đắp cho những người lao động gặp rủi ro bị giảm hoặc mất thu nhập, quá trình này đã tiến hành phân phối lại thu nhập giữa người giàu - người nghèo, người khoẻ mạnh - người ốm đau, người trẻ - người già... Thực hiện chức năng này BHXH đã góp phần thực hiện công bằng xã hội. - Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao năng suất lao động do cuộc sống cuả họ đã được đảm bảo, họ không còn phải lo lắng về cuộc sống của họ khi rủi ro xảy đến với họ bất kỳ lúc nào từ đó khiến họ tập trung vào việc lao động sản xuất. Chức năng này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động cá nhân và kéo theo là năng suất lao động xã hội. - Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa người lao động với nhà nước góp phần đảm bảo an toàn cho xã hội. Do giữa người lao động và người sử dụng lao động luôn tồn tại mâu thuẫn về tiền lương, thời gian lao động, an toàn lao động... BHXH ra đời góp phần điều hoà mâu thuẫn giữa họ. Nhà nước thông qua việc chi BHXH ổn định đời sống cho mọi người lao động, ổn định xã hội. Tính chất của BHXH: - Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội. Như đã phân tích ở trên rủi ro xây đến với cuộc sống của người lao động không hoàn toàn do người lao động gánh chịu mà nó ảnh hưởng tới người sử dụng lao động, tới toàn xã hội, nó gây ra mâu thuẫn giữa người lao động và người sử dụng lao động làm giảm năng suất lao động, mất ổn định xã hội. Buộc nhà nước phải can thiệp thông qua BHXH vì vậy BHXH ra đời mang tính tất yếu khách quan. - BHXH có tính ngẫu nhiên phát sinh không đều theo không gian và và thời gian. Điều này này thể hiện rõ trong nội dung cơ bản của BHXH, từ thời điểm triển khai BHXH, người tham gia BHXH, mức đóng góp. Từ việc rủi ro phát sinh theo không gian, thời gian đến mức trợ cấp cho từng chế độ, từng đối tượng. - BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội đồng thời có tính dịch vụ, tính kinh tế được thể hiện qua việc hình thành và sử dụng quỹ BHXH sao cho hợp lý, có hiệu quả nhất. Tính xã hội được thể hiện BHXH được sử dụng nhằm bảo đảm ổn định cho những người lao động và gia đình họ. BHXH thể hiện tính dịch vụ của nó thông qua hoạt động dịch vụ tài chính. (Thông qua nguồn vốn nhàn rỗi). Câu 4: Quan điểm cơ bản của BHXH ? Quá trình hình thành và phát triển của BHXH? 1. Quan điểm cơ bản của BHXH: Hiện nay có 5 quan điểm về BHXH như sau: - BHXH là một chính sách quan trọng nhất trong hệ thống ASXH. Bhxh là xương sống trong hệ thống ASXH, nó thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý của mỗi quốc gia. + Đối tượng chính của bhxh là người lao động- một lực lượng đông đảo trong xã hội. + Qũy bhxh được tạo lập theo nguyên tắc có đóng –có hưởng, số đông bù số ít, mang tính chất san sẻ, Nhà nước tham gia đóng góp chỉ 1 phần, tạo nên sự bền vững lâu dài. - Mọi người lao động trong xã hội đều có quyền bình đẳng trước BHXH không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp…..đều có quyền tham gia BHXH. - Người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ và trách nhiệm BHXH cho người lao động. Người sử dụng lao động phải có trách nhiệm bảo hiểm cho người lao động của mình : + Họ phải đóng góp vào quỹ BHXH 1 khoản tiền nhất định so với tổng quỹ lương. + Họ phải thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH đối với những người lao động mà mình sử dụng. Mức hưởng BHXH phải thấp hơn mức lương và mức tiền công của người lao động đi làm, nhưng phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động. Các mức hưởng BHXH phụ thuộc vào 5 yếu tố sau: + Tình trạng sức khoẻ, thương tật thông qua giám định y khoa. + Ngành nghề công tác của người lao động + Thời gian công tác và tiền lương của người lao động + Mức đóng góp BHXH và thời gian đóng góp + Tuổi thọ bình quân của mỗi quốc gia. + Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước qua từng thời kỳ. - Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp BHXH từ việc ban hành các chính sách và tổ chức bộ máy thực hiện các chính sách BHXH. 2. Quá trình hình thành và phát triển của BHXH I. Giai đoạn trước năm 1945 Trước năm 1945 ở Việt Nam chưa có pháp luật bảo hiểm xã hội. Bởi vì đất nước bị thực dân Pháp đô hộ. Đời sống của nhân dân vô cùng cực khổ, nghèo đói. Tuy nhiên nhân dân Việt Nam có truyền thống cưu mang, giúp đỡ lẫn nhau những khi gặp rủi ro hoạn nạn. Đặc biệt là sự che chở của họ hàng làng xã thân tộc. Cũng có một số nhà thờ tổ chức nuôi trẻ mồ côi, thực hiện tế bần (BHXH sơ khai). II.Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954 Tháng 8 năm 1945 Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Tháng 12 năm 1946 Quốc hội đã thông qua Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước dân chủ nhân dân. Trong Hiến pháp có xác định quyền được trợ cấp của người tàn tật và người già. Ngày 12 tháng 3 năm 1947 Chủ tịch nước Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 29/SL quy định chế độ trợ cấp cho công nhân. Ngày 20 tháng 5 năm 1950 Hồ Chủ Tịch ký 2 sắc lệnh là 76, 77 quy định thực hiện các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí cho cán bộ, công nhân viên chức. Đặc điểm của chính sách pháp luật bảo hiểm xã hội ở thời kỳ này là do trong hoàn cảnh kháng chiến gian khổ nên việc thực hiện bảo hiểm xã hội rất hạn chế. Tuy nhiên, đây là thời kỳ đánh dấu sự quan tâm rất lớn của Đảng và Nhà nước về chính sách bảo hiểm xã hội. Đồng thời những quy định về bảo hiểm xã hội của Nhà nước ở thời kỳ này là cơ sở cho sự phát triển bảo hiểm xã hội sau này. III.Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975 Miền Bắc được giải phóng, xây dựng chủ nghĩa xã hội nên pháp luật về BHXH được phát triển mở rộng nhanh. Điều lệ BHXH ban hành ngày 27/12/1961 có thể coi là văn bản gốc về BHXH quy định đối tượng là công nhân viên chức nhà nước, hệ thống 6 chế độ BHXH, quỹ BHXH nằm trong ngân sách nhà nước do các cơ quan đơn vị đóng góp. Năm 1964 có Điều lệ đãi ngộ quân nhân. Riêng miền Nam, BHXH cũng thực hiện đối với công chức, quân đội làm việc cho chính thể Ngụy. IV.Giai đoạn từ năm 1975 đến nay Bảo hiểm xã hội được thực hiện thống nhất trong cả nước. Có nhiều lần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với nền kinh tế xã hội. Tuy nhiên sau khi Nhà nước chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì chính sách BHXH bộc lộ những nội dung cần sửa đổi bổ sung. Bảo hiểm xã hội mở rộng đối tượng, thành lập quỹ BHXH độc lập với ngân sách Nhà nước do sự đóng góp của người lao động, chủ sử dụng lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước, thành lập cơ quan chuyên trách để quản lý quỹ và giải quyết các chế độ trợ cấp. Ngày 16/02/1995, Chính phủ có Nghị định số 19/CP về việc thành lập Bảo hiểm xã hội Việt Nam trên cơ sở thống nhất chức năng, nhiệm vụ các bộ của Bộ Lao động Thương binh - Xã hội và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Câu 5. Vai trò của bhxh trong hệ thống asxh?vì sao nói bhxh là trụ cột chính của asxh. Vai trò của bhxh: Đối với người lđ: bhxh góp phần ổn định thu nhập từ đó góp phần ổn định cs cho người lđvà gđ họ.Khi người lđ gặp phải các rủi ro hoặc sự kiện bh như ốm đautai nạn,sinh để hay tuổi già.Ngoài ra bhxh còn là chỗ dựa tinh thần để người lđ yên tâm làm việc gắn bó với đvị mà mình công tác tạo niềm tin cho họ và cs tương lai. Đvới người sd lđ: Mặc dù người sd lđ phải đóng góp vào quỹ bhxh 1 khoản tiền nhất định để bh cho người lđ mà minh sd điều đó cũng ít nhiều ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của người sd lđ song về lâu dài lợi ích mà người sd lđ nhận được sẽ là :+ người lđ sẽ yên tâm phấn khởi gắn bó với mình hơn. + nếu cs bhxh đc thực hiện tốt sẽ góp phần hạn chế các hiện tượng như đình công bãi công từ đó làm cho các hđ sxkd diễn ra lien tục ổn định . + người sd lđ sẽ ko phải bỏ ra những khoản tiền lớn khi tủi ro đến với nhiều người lđ cùng lúc và ở phạm vi rộng bởi lẽ lúc này hậu quả của rủi ro sẽ đc phân tán cho tất cả các bên tgia bhxh. + thông qua cs bhxh thì người sd lđ thể hiện đc nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đvới người lđ và xh Đối với nền kinh tế: Bhxh góp phần tạo lập mqh gắn bó chủ động từ đó làm cho các mqh trên thị trường lđ trơ nên lành mạnh hơn những mâu thuẫn vốn có trong qh lđ đc giải tỏa về cơ bản.Đây là tiền đề về mặt tâm lý kích thích tính sáng tao người lđ dẫn đến nâng cao năng suất cá nhân và xh.Nhờ có bhxh mà 1 quỹ tiền tệ tập trung đã đc hình thành,nguồn quỹ này ngày càng đc tồn tích lại theo tgian và đã trở thành nguồn tài chính trung gian rất quan trọng trong hệ thống tài chính quôc gia.Phần quỹ nhàn rỗi sẽ đc đem đàu tư phát triển và tăng trưởng kinh tế Đối với xh: Mqh giữa các bên tgia bhxh thẻ hiện tính xã hội hóa tính nhân văn cao cả của cs bhxh mặc dù động cơ và mục đích của mỗi bên tgia bhxh là khác nhau song bhxh ra đời có ý nghĩa lớn về mặt xh thể hiện: + người lđ tgia bhxh là nhằm bảo vệ quyền lợi trực tiếp cho chính mình đồng thời thực hiện trách nhiệm của mình đối với cộng đồng và xh. + người sd lđ tgia bhxh là để quan tâm chia sẻ rủi ro với ng lđ của mình nhưng cũng gián tiếp bảo vệ lợi ích cho chính mình. + nhà nc tgia bhxh nhằm góp phần bảo vệ ổn định cs cho các thành viên trong xh đảm bảo công bằng xh đây cũng là trách nhiệm qli xh của nhà nc. Bhxh là trụ cột chính của asxh vì: Bhxh có đối tượng người lđ tgia bhxh rất lớn ,đây là những người trực tiếp tạo ra của cải vật chát cho xh.Khi rủi ro xảy ra đe dọa đến cs người lđ và gđ họ làm ảnh hưởng xấu tâm lý ng lđ từ đó ảnh hưởng tới xh,làm giảm hiệu quả sx.BHXH ra đời tạo tâm lý yên tâm cho người lđ.Khi về già đc hưởng lương hưu ,khi ốm đau thai sản …đc hưởng trợ cấp giúp ổn định thu nhập ổn định đời sống ,giảm bớt sự căng thẳng về mặt tam lý,giúp ng lđ yên tâm công tác,góp phần nâng cao hiệu quả sx. Hđ bhxh khoong chỉ đảm bảo vđề asxh mà còn gián tiếp kích thích và làm tăng trưởng kinh tế.Trong sxkd thì bhxh làm người lđ cảm thấy an tâm hơn trong công việc từ đó nâng cao hiệu quả sx. Bhxh còn điều tiết các chính sách trong hệ thống ahxh: khi bhxh phát triển số đối tượng tham gia và hưởng bhxh đc mở rộng sẽ góp phần nâng cao đời sống ng lđ từ đó góp phần làm giảm các đối tượng đc hưởng các cs axh khác và làm giảm gánh nặng cho NSNN. Như vậy khi ktxh phát triển thì hệ thống bhxh sẽ đc mở rộng ,lúc này những hình thức trợ giúp khác chỉ là cái lưới cuối cùng cung cấp các đk tối thiểu cho những người gặp hoàn cảnh khó khăn bất lợi trong cs. Câu 6.phân tích mối quan hệ 2 chiều của bhxh với phát triển và tăng trưởng kt: Bhxh tác động tới phát triển và tăng trương kinh tế: Bhxh tạo tâm lý yên tâm cho người lđ trong công việc .Khi ốm đau ,tai nạn ,mất việc làm ….họ đc hưởng trợ cấp giúp ổn định thu nhập ổn định đời sống,giúp ng lđ có sức khỏe tốt để làm việc ,giúp họ yên tâm làm việc …từ đó nâng cao hiệu quả sx,nâng cao năng suất lđ.do đó tác động đến sự phát triển và tăng trưởng kinh tế.Hơn nữa các chương trình thụ hưởng dài hạn như: chương trình hưu trí,chương trình trợ cấp thất nghiệp,trợ cấp tai nạn lđ và bênh nghề nghiệp….còn góp phần thực hành tiết kiệm,tạo lập quỹ đầu tư cho các mục tiêu kt xh của đất nước. Quỹ BHXH được sử dụng để chi trả các chế độ BHXH cho người lao động và gia đ́nh họ, phần nhàn rỗi được đầu tư vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh để bảo tồn và tăng trưởng quỹ. Như vậy, xét trên cả phương diện chi trả các chế độ BHXH cũng như đầu tư tăng trưởng quỹ, hoạt động của quỹ BHXH đều góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Với quy mô quỹ BHXH lớn, ngày càng tăng, có thể đầu tư phát triển mở rộng sản xuất, hiện đại hoá sản xuất, tạo thêm nhiều việc làm tăng thu nhập, nâng cao đời sống của người lao động. phát triển kt cũng ảnh hưởng đến bhxh: Bhxh ra đời,tồn tại và phát triển là một nhu cầu khách quan. Nền kt càng phát triển việc thuê mướn lđ càng trở nên phổ biến càng đòi hỏi sự phát triển của bhxh . Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xă hội chủ nghĩa ở Việt Nam tạo tiền đề, tạo nền tảng cho BHXH ở Việt Nam hoạt động. khi nền kt phát triển,mọi người lđ đều có việc làm, có thu nhập ổn định, số người tham gia BHXH sẽ đông hơn. Khi thu nhập của người lao động tăng lên, tất yếu mức đóng góp vào quỹ BHXH cũng tăng lên, tạo ra nền tảng vững chắc cho quỹ BHXH ổn định, phát triển vững chắc hơn, đảm bảo đủ nguồn lực tài chính phục vụ kịp thời nhu cầu chi trả cho người lao động và gia đ́nh của họ khi gặp rủi ro. Câu 10. Đặc điểm của hệ thống chế độ BHXH: Trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn triển khai BHXH ở các nước trên thế giới cho thấy, hệ thống chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau: Các chế độ BHXH được xây dựng theo luât pháp của mỗi quốc gia và có tính ổn định tương đối.Mỗi quốc gia tùy theo đk kinh tế, chính trị , xã hội của mình để xây dựng , ban hành các văn bản pháp quy về chế độ BHXH.Hơn nữa, các chế độ này còn phải phù hợp với các bộ luật khác có lien quan. Đồng thời khi có sự thay đổi của đk kte-xh trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, các chế độ BHXH được điều chỉnh để đảm bảo quyền lợi tham gia BHXH nhằm thực hiện ASXH. Hệ thống các chế độ BHXH mang tính chất chia sẻ rủi ro. Tương tự như các loại hình bảo hiểm khác, sau khi hoàn thành nghĩa vụ đóng góp BHXH, ng tham gia bỏa hiểm sẽ được quyền lợi nếu gặp rủi ro. Tuy nhiên việc hưởng thụ quyền lợi bảo hiểm này diễn ra ko đồng đều về thời gian ,không gian ,quy mô cũng như mức độ. Điều này phụ thuộc vào các yếu tố ngành nghề, địa phương, giới tính ,độ tuổi và ngay cả thể lực của chính ng lao động. Do đó các chế độ BHXH đã thể hiện tính nhân đạo và nhân văn cao cả cũng như góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Việc chi trả chế độ BHXH chủ yếu căn cứ vào mức đóng góp của các bên tham gia BHXH .Quỹ BHXH hình thành với cơ chế đống góp của 3 bên là chủ yếu. Quỹ này chủ yếu dung để chi trả quyền lợi bảo hiểm cho những ng ld và gia đình họ thông qua các chế đọ BHXH. Quy mô của quỹ sẽ quyết định mức thụ hưởng quyền lợi BHXH trên cơ sơ tuân thủ nguyên tắc quyền lợi tương xứng với nghĩa vụ. Do đố căn cứ chủ yếu để xác định mức hưởng BHXH là mức dóng góp BHXH Chi trả các chế độ BHXH chủ yếu là thực hiện định kì. Phương tiện thanh toán trong hoạt động BHXH là tiền tệ. Nền kinh tế thị trường phát triể, việc dùng tiền tệ trong mọi hoạt động kinh tế là cần thiết. Hầu hết những ng tham gia BHXH đều có thu nhập bằng tiền định kỳ nên việc trích nộp BHXH cũng diễn ra theo định kỳ .Đồng thời mục đích của BHXH là đảm bảo bù đắp phầm thu nhập bị giảm hoặc bị mất khi ng ld bị giảm hoặc bị mất khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao động, già yếu….Chi trả BHXH, hay nói cách khác là mức hưởng BHXH được coi như quyền lợi của việc tham gia BHXH. Do đó chi trả chế đọ BHXH hầu hết được thực hiện định kì đẻ vừa giúp ng ld và gia đình hị tránh hụt hẫng về kinh tế , vừa giúp quỹ BHXH ổn định được cán cân thu chi. Câu 13: Bản chất của tài chính BHXH ? So sánh tài chính BHXH với NSNN và tài chính doanh nghiệp. Bản chất của TCBHXH. Khi xem xét TCBHXH trước hết chúng ta xem xét khái niệm TC - Tài chính là tổng thể các quan hệ kinh tế trong phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức giá trị , thông qua đó hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng tích lũy và tiêu dùng của các chủ thể trong nên kinh tế. - Phạm trù TC rất rộng bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau như: NSNN, TCDN,TCCN-Hộ gia đình, lưu thông tiền tệ tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm…. - Quan hệ tài chính đa dạng, phức tạp, nó luôn diễn ra đan xen nhau trong các hoạt động kinh tế. Thông thường các quan hệ tài chính có tính chất, đặc thù giống nhau sẽ nhóm lại thành nhóm riêng.Các nhóm này có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau tạo thành 1 hệ thống tài chính. Hệ thống tài chính gồm:TCDN,NSNN,TCCN,TCQT, TC tổ chức trung gian. - Mỗi 1 bộ phận trong hệ thống TC được coi là 1 tụ điểm vốn, hay là khâu tài chính.Các tụ điểm này đều có vị trí, chức năng,và tác dụng nhất định. Chúng có mqhe với nhau.Sự chuyển hóa giữa các dòng tài chính vào các tụ điểm vốn và ngược lại được thực hiện thông qua thị trường tài chính, và các trung gian tài chính. Có thể nói đây là huyết mạch của nền kinh tế.Vì vậy cần có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước xuyên suốt, có hiệu lực. - Các trung gian TC : ngân hàng( thương mại ,cổ phần,liên doanh, 100% vốn nước ngoài…). Tài chính phi ngân hàng( bảo hiểm, công ty cho thuê tài chính, quỹ đầu tư…) Như vậy có thể khẳng định tài chính BHXH cũng thuộc tụ điểm vốn trong hệ thống tài chính quốc gia( nằm trong tụ điểm TCTG) và nó thuộc các tổ chức TCTG phi ngân hàng. - Tài chính BHXH là 1 khâu tài chính trong hệ thống TC quốc gia, tham gia vào quá trình huy động,phân phối và sử dụng các nguồn tài chính nhằm đảm bảo cuộc sống của người lao động khi gặp rủi ro hoặc biến cố trong cuộc sống, góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ. Đồng thời góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước. + Xét về mặt lý luận, mỗi khâu TC trong hệ thống TCQG được tạo thành bởi gắn với 1 chỉ thể (những người góp vốn để tạo nên tụ điểm vốn) + Các quan hệ kinh tế được xếp vào 1 tụ điểm vốn nếu có cùng tính chất, đặc điểm và vai trò. + Môĩ khâu tài chính hay tụ điểm vốn có bề ngoài như 1 quỹ tiền tệ được tạo lập cho 1 mục đích nhất định. Từ đó ta thấy được bản chất của Tài chính BHXH ,đó là thấy được mqh KT-XH trong quá trình tạo lập vốn và sử dụng quỹ BHXH. - Qũy BHXH là 1 quỹ tiền tệ tập trung, độc lập nằm ngoài NSNN.Qũy được hình thành từ các bên tham gia BHXH đóng góp. Qũy này được sử dụng để chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH mà người lao động tham gia BHXH được hưởng. Ngoài ra còn được chi cho quản lý phát triển sự nghiệp xã hội và quỹ nhàn rỗi dùng để đầu tư phát triển quỹ. - Qũy BHXH là nội dung vật chất của TC BHXH. Nó thể hiện số lượng tiền tệ nhiều hay ít.Tài chính BHXH nó chỉ rõ mqh XH trong quá trình tạo lập và sử dụng quỹ BHXH. b) So sánh TCBHXH với NSNN và TCDN. TC BHXH với NSNN NSNN : là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán, đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong 1 năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.Như vậy NSNN là kế hoạch tài chính cơ bản để hoàn thành, phân phối , sử dụng có kế hoạch quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước để mở rộng sản xuất, vfa thỏa mãn các nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Và đây là quỹ tiền tệ tập trung có quy mô lớn nhất của nền kinh tế. NSNN là khâu tài chính giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống TCQG. Nó ra đời, tồn tại và hoạt động gắn liền với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Giống nhau: + Đều là những tụ điểm vốn trong hệ thống tc quốc gia, có cùng bản chất, chức năng và mối quan hệ chặt chẽ. + Đều là công cụ của nhà nước với mục đích hoạt động không phải là mục tiêu lợi nhuận, nhằm phục vụ lợi ích của nhà nước, của nhân dân. + Đồng thời dưới hình thức biểu hiện là quỹ tiền tệ nên nội dung của thu- chi của TCBHXH và NSNN đều phải tuân thủ các văn banrm quy định của Nhà nước. + Đều được quản lý theo nguyên tắc cân bằng thu-chi dưới sự phê chuẩn của quốc hội và quản lý của chính phủ. Khác nhau: Đặc điểm NSNN TC BHXH Điều kiện ra đời, hình thành, tồn tại và phát triển Là khâu tài chính được hình thành sớm nhất.Nó ra đời, tồn tại và phát triển gắn với sự ra đời của Nhà nước.Nhà nước càng lớn, NSNN càng lớn. Ra đời muộn hơn.Nó ra đời tồn tại và phát triển gắn với sự phát triển của kính tế hàng hóa Tính chất pháp lý Quan hệ phân phối của NSNN mang tính pháp lý cao hơn.Dựa trên cơ sở quyền lực chính trị của NN. Tính pháp lý thấp hơn.Thu chi BHXH cũng được pháp luật điều chỉnh, nhưng chủ yếu dựa vào quan hệ lợi ích của những người tham gia BHXH là chính. Vị trí trong hệ thống tài chính quốc gia Là khâu TC tập trung giữ vai trò chủ đạo, phản ánh lợi ích quốc gia, lợi ích toàn xã hội. Chỉ là TCTG, chủ yếu phản ánh lợi ích của các bên tham gia BHXH. Về bản chất kinh tế NSNN thể hiện các mqh kinh tế giữa 1 bên là nhà nước với 1 bên là các tổ chức kinh tế, các tầng lớp dân cư trong xã hội. Quan hệ phân phối lại, không mang tính hoàn trả Thể hiện mqh kinh tế trong phân phối giữa các bên tham gia đóng góp BHXH.Quan hệ phân phối vừa mang tính chất hoàn chất trả, vừa không mang tính chất hoàn trả TCBHXH và TCDN Giong nhau: Đều là những tụ điểm vốn độc lập trong hệ thống TC quốc gia. Nó ra đời, tồn tại và phát triển theo yêu cầu của các chủ thể xã hội. Đồng thời việc tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ đều tuân thủ theo quy định của pháp luật. Khác nhau: Đặc điểm TC BHXH TCDN Mục đích Không nhằm mục đích kinh doanh, kiếm lời, nhằm mục đích ASXH Nhằm mục tiêu lợi nhuận Vị trí Là khâu TCTG ,có vị trí quan trọng trong việc dẫn vốn trên TTTC Là khâu TC cơ sở trong hoạt động TCQG ,có tác động lớn đến đời sống KT-XH ,đến sự phát triển hay suy thoái của nền kinh tế. Bản chất kinh tế Thể hiện mối quan hệ kinh tế trong phân phối giữa các bên tham gia đóng góp BHXH. Quan hệ phân phối vừa mang tính hoàn trả, vừa không hoàn trả. Thể hiện mqh kinh tế trong phân phối giữa các bên tham gia đóng góp vốn và đóng góp sức lao động Mang tính hoàn trả trực tiếp. Câu 14: Đặc điểm và chức năng của Tài chính BHXH Đặc điểm: Tài chính BHXH hoạt động ko có mục tiêu lợi nhuận,mà vì mục tiêu đảm bảo cuộc sống cho người lao động và gia đình họ, mục tiêu ASXH. Các quan hệ TC BHXH luôn chứa đựng những lợi ích công cộng. Tài chính BHXH có tính chủ thể thống nhất. Về nguyên tắc , mỗi khâu tài chính đều có những chủ thể đại diện cho nó,mà chủ thể đại diện phải là những người tham gia đóng góp hình thành quỹ.Chủ thể ở đây chính là người lao động và nsd lđ, ngoài ra Nhà nước cũng đóng vai trò chủ thể.Tính thống nhất của chủ thể được thể hiện ở tất cả các văn bản quy phạm pháp luật. Tài chính BHXH có tính công cộng vì: + Tính công cộng thể hiện ở cả hình thức ,mức độ tham gia đóng góp để tạo lập quỹ. + Tính công cộng thể hiện trong quá trình sử dụng chi tiêu hoạt động,đặc biệt thể hiện rõ tinh thần tương thân tương ái,san sẻ lẫn nhau giữa các bên tham gia. Tài chính BHXH có sự kết hợp giữa tính hoàn trả và không hoàn trả, giữa tính bắt buộc và tự nguyện.Thể hiện ở tất cả các khâu: tạo lập và phát triển nguồn tài chính. Nhận thức rõ được những đặc điểm trên, các nhà quản lý BHXH phải có trách nhiệm tuyên truyền, giải thích, vận động tham gia đóng góp theo đúng pháp luật,phải có trách nhiệm sử dụng chặt chẽ, kết hợp các nguyên tắc an toàn, hiệu quả, đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả. Chức năng Chức năng tạo lập vốn : Bất kì 1 khâu nào cũng đều phải có chức năng này, vì sự phát triển của thị trường tài chính luôn luôn gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất hàng hóa,luôn gắn với yếu tố giá trị, tiền tệ. Bởi vậy nhờ có chức năng này mà khả năng tạo lập vốn của TCBHXH thành hiện thực. Chức năng này đem lại lợi ích cho chính khâu TCBHXH và đem lại lợi ích cho toàn bộ hệ thống TC quốc gia nói chung. Chức năng phân phối và phân bổ nguồn lực tài chính: phân phối ở đây chủ yếu được thực hiện giữa những người lao động tham gia BHXH , còn phân bổ là phân bổ cho các loại quỹ khác nhau để đảm bảo an toàn cho các nguồn lực tài chính, phân bổ tài chính trong TCBHCH có tính kế hoạch rất cao và chặt chẽ. Chức năng kiểm soát thông qua việc nắm bắt ,tích lũy tình hình, dữ liệu,phân tích,so sánh,đánh giá các thông tin tài chính, tài liệu kế toán, báo cáo quyết toán, nguồn thu chi phí, kết quả đạt được. Mục đích của việc kiểm soát này là nhằm lành mạnh hóa các khâu tài chính này.Qua đó xem xét việc tuân thủ các chính sách , luật phấp do nhà nước đã ban hành , của các đối tượng tham gia. Câu 15: Trình bày nội dung về quỹ BHXH? Nguồn hình thành: Là 1 quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài NSNN. Đây là loại quỹ có tính chất tiêu dùng,đồng thời còn có cả tính dự trữ. Bên cạnh đó còn có tính xã hội, tính kinh tế, tính nhân văn.Trong toàn bộ quá trình hình thành, tạo lập và sử dụng, quỹ này có đặc điểm: + Ra đời, tồn tại và phát triển gắn với mục đích bảo vệ người lao động, ko vì mục tiêu kiếm lời. + Là 1 quỹ tiền tệ tập trung lớn, được tồn tích lại trong 1 thời gian dài.Nó luôn luôn vận động, biến đổi, có số dư tạm thời rất lớn. + Phân phối quỹ BHXH vừa mang tính hoàn trả, vừa ko mang tình hoàn trả. + Quỹ BHXH là hạt nhân của TC bhxh, là nội dung vật chất của TC BHXH. Quỹ này chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố, cả nhân tố khách quan và chủ quan. + Quỹ BHXH bắt buộc được hình thành chủ yếu từ 2 nguồn NLĐ và NSDLĐ đóng góp. Ngoài ra nhà nước bù thiếu và bảo trợ khi cần thiết. + Ngoài nguồn hình thành quỹ nói trên, quỹ bhxh còn từ sự đầu tư quỹ nhàn rỗi. Mục đích: Chi trả trợ cấp theo các chế độ BHXH để góp phần ổn định cuộc sống cho NLĐ và gia đình họ khi NLĐ gặp phải các rủi ro và sự kiện BH. Dự trữ dự phòng để đảm bảo an toàn trong những tình huống bắt buộc: lạm phát phi mã, chính trị bất ổn. Chi cho quản lý BHXH ở tất cả các cấp, các ngành, phần quỹ nhàn rỗi phải được đem đầu tư để sinh lời. Với mục đích như trên, có thể khẳng định quỹ bhxh ko nhằm mục tiêu kiếm lời mà chủ yếu hoạt động theo cơ chế cân bằng thu chi. Điều này khác hoàn toàn với các khâu TC khác và các loại quỹ tài chính khác. Phân loại : Theo kinh nghiệm của tất cả các nước trên thế giới, quỹ bhxh có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau, tuỳ theo mục đích nghiên cứu và cách thức tổ chức BHXH. Căn cứ vào hình thức BHXH : + Quỹ BHXH bắt buộc + Quỹ BHXH tự nguyện Phân loại theo tiêu thức này giúp cơ quan nhà nước kiểm tra,giám sát chặt chẽ cho từng loại quỹ, cho từng nhóm đối tượng tham gia BHXH. Theo tính chất sử dụng quỹ : + Quỹ BHXH ngắn hạn : chi trả trợ cấp cho các chế độ ngắn hạn: ốm đau, thai sản….. + Quỹ BHXH dài hạn : chi trả trợ cấp cho các chế độ dài hạn: hưu trí… Cách này có ý nghĩa giúp cho việc quản lý và tính phí chính xác hơn. Căn cứ theo từng chế độ BH, chia ra các quỹ BHXH thành phần, tức là mỗi chế độ 1 quỹ. Đây là cách phân loại mà Việt nam cần chú ý, bởi vì cách phân loại này giúp tách toàn bộ chế độ hưu trí ra khỏi các chế độ khác.Vì vậy, đây là chế độ phải chi trả lớn nhất trong tổng quỹ BHXH. Nếu tách được thì ưu điểm nổi bật là đảm bảo tính công bằng giữa đóng và hưởng và tính phí chính xác. Phương pháp đóng góp để hình thành quỹ. Căn chứ vào mức lương cá nhân và quỹ lương của tổ chức sử dụng lao động để đóng góp. Căn cứ vào mức thu nhập của người lao động, được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế để xác định mức đóng góp. Việc đóng góp này phải thực hiện đều đặn, định kỳ hàng tháng. Mức đóng góp BHXH thực chất là phí BHXH. Phí bhxh là yếu tố quyết định cân đối thu chi của quỹ bhxh. Bởi vậy, việc xác định phí bhxh phải dựa trên cơ sở khoa học nhất định. Những cơ sở khoa học cần phải tính đến đó là: + Tiền lương và thang bảng lương của người lao động. + Quy định mức phí BHXH trước, xác định mức hưởng sau. + Xác định mức hưởng trước, sau đó quay lại mức đóng góp sau. + Dựa vào nhu cầu khách quan của NLĐ để xác định mức hưởng rồi từ mức hưởng xác định mức đóng. Về mặt kỹ thuật định phí, phí bhxh do cả 2 bên đóng góp. Đương nhiên việc xác định phí này là vô cùng phức tạp và khó khăn, vì nó phụ thuộc vào nhiều yếu tó khác nhau: + Vấn đề lạm phát của đồng tiền + Tuổi thọ người về hưu + Tình hình kinh tế, chính trị từng kỳ + Quy mô , đối tượng tham gia BHXH. Mức đóng của các bên đảm bảo tính cân đối giữa đóng và hưởng, đồng thời điều chỉnh sao cho tối ưu nhất. Công thức tổng quát: P= P1 +P2 +P3 Trong đó : P1 : phí thuần : bộ phận này chỉ đủ chi trả trợ cấp các chế độ P2: phí dự phòng P3 : phí quản lý Về mặt lý luận: Phương thức và mức đóng góp là phức tạp, nhưng nhìn vào thực tế các nước ta thấy : + Ở các nước phát triển, mức đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động khoảng từ 30-45% tổng quỹ lương. + Ở các nước đang phát triển, mức đóng của NLĐ và NSDLĐ khoảng từ 15-25% tổng quỹ lương. + Ở các nước kém phát triển, mức đóng góp của NLĐ và NSDLĐ khoảng từ 6-10% Tổng quỹ lương. Việc xác định mức đóng cao hay thấp ko chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến cân đối thu chi quỹ và xác định mức hưởng trợ cấp cho các chế độ, mà còn ảnh hưởng đến nhiều vấn đề kt-xh có liên quan như: năng lực cạnh tranh của các DN,khả năng bù thiếu của NSNN, vấn đề lạm phát và dòng luân chuyển của tiền tệ. Câu 17: Nguyên tắc và hình thức đầu tư quỹ BHXH? Liên hệ thực tế Việt Nam Nguyên tắc đầu tư quỹ bhxh: Như các quỹ đầu tư khác trong nền kinh tế, hình thức đầu tư quỹ BHXH phải đảm bảo an toàn, hiệu quả. Ngoài ra, do xuất phát từ thực tế, quỹ bhxh được sử dụng để chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH mà người lao động được hưởng .Xuất phát từ thực tế đó, cho nên hoạt động đầu tư từ quỹ bhxh còn đảm bảo được nguyên tắc thanh khoản và lợi ích xã hội cụ thể như sau: Nguyên tắc an toàn: là nguyên tắc hàng đầu, cơ bản ,xuyên suốt trong quá trình đầu tư. Quỹ bhxh luôn gắn với lợi ích của người lao động tham gia BHXH. Nếu đầu tư ko an toàn thì quyền lợi chính đáng của người lao động sẽ bị xâm phạm, dẫn đến tình trạng ko ổn định cho gia đình. Làm mất lòng tin vào người lao động đối với xã hội, đè lên vai nhà nước. Đảm bảo nguyên tắc hiệu quả( sinh lời): đây là nguyên tắc rất quan trọng, nếu đầu tư ko sinh lời thì quỹ này ko thể tăng trưởng.Từ đó ảnh hưởng đến độ an toàn cũng như khả năng chi trả của quỹ trong tương lai. Đảm bảo được tính thanh khoản cao ( dễ luân chuyển nguồn vốn): nguyên tắc này ko thể thiếu được đối với việc đầu tư quỹ bhxh ở bất kỳ thời điểm nào. Nguồn vốn đầu tư cũng phải nhanh chóng được thanh toán để phục vụ kịp thời cho nhu cầu chi trả của quỹ bhxh. Nguyên tắc này đòi hỏi cơ quan bhxh đầu tư vào những nơi có tính lỏng cao. Đảm bảo được lợi ích kinh tế- xã hội: đầu tư bhxh phải gắn liền với các chính sách về xh: môi trường, dân số, việc làm. Cần phải chú trọng các dự án phục vụ công cộng và các mục tiêu xã hội thực sự. Các dự án mà quỹ bhxh đầu tư phải có lợi và là động lực cho phát triển KT-XH, phục vụ đông đảo người lao động; hướng tới mục đích nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân. Hình thức đầu tư quỹ bhxh: Do đầu tư mang tính rủi ro ,nên mức độ và phạm vi đầu tư của mỗi nước là khác nhau. Có nước ban hành những quy định chặt chẽ về đầu tư. Chỉ cho phép đầu tư vào 1 số lĩnh vực nhất định và nghiêm cấm ko cho đầu tư vào 1 số lĩnh vực khác. Có nước lại quy định chỉ huy động 1 tỷ lệ % vốn nhất định cho 1 lĩnh vực đầu tư. Thông thường khi đầu tư vào quỹ bhxh phải quan tâm đến 3 lĩnh vực sau: + Khi quỹ bhxh thực hiện đầu tư bảo toàn và tăng trưởng thì bắt buộc phải quan tâm đến và phần đầu tư lớn là Trái phiếu Chính phủ, vì đây là lĩnh vực đầu tư hoàn toàn ko có rủi ro, độ an toàn cao nhất trong các lĩnh vực đầu tư. + Cần quan tâm đến việc đầu tư vào các thị trường tài chính ở trong nước, ví dụ như: thị trường chứng khoán, BĐS…. Cũng như các dự án phát triển kt-xh với sự bảo lãnh của Cphủ. + Cần quan tâm đến việc mở rộng, đầu tư ra nước ngoài. Đặc biệt là đối với quốc gia có thị trường trong nước nhỏ bé và ko linh hoạt. Tuy nhiên hình thức này chưa chắc chắn đã phù hợp với từng quốc gia, mỗi nước có lựa chọn phù hợp riêng cho mình. Thông thường quỹ được đầu tư vào các lĩnh vực sau: Mua trái phiếu chính phủ, trái phiếu địa phương. Gửi tiết kiệm, mua kì phiếu ở ngân hàng. Mua cổ phiếu. Cho các công ty vay vốn. Trực tiếp kinh doanh, hoặc ủy thác kinh doanh. Kinh doanh BĐS. Trong các hoạt động này thì mua trái phiếu chính phủ, gửi tiết kiệm ngân hàng là an toàn, cho nên hầu hết các nước đều áp dụng. Các hình thức đầu tư khác thì tùy vào điều kiện, hoàn cảnh của mỗi nước mà họ sẽ lựa chọn sao cho phù hợp để hiệu quả nhất. Liên hệ thực tế Việt Nam : Hiện nay quỹ Bhxh mua kỳ phiếu, tín phiêu, trái phiếu, công trái của kho bạc nhà nước (21,02% năm 2009). Cho vay ngắn hạn, dài hạn đối với quỹ hỗ trợ đầu tư, phát triển, ngân hàng thương mại , ngân hàng chính sách của nhà nước dưới hình thức mua trái phiếu, công trái Chính phủ. Cụ thể như sau : Năm 2009, quỹ BHXH Việt Nam tồn 95.163 tỷ đồng (gồm cả phần cộng dồn từ năm 2008) thì cho ngân sách nhà nước vay 20.000 tỷ, mua trái phiếu chính phủ 28.500 tỷ, mua công trái giáo dục 200 tỷ và cho các ngân hàng thương mại của nhà nước vay 46.463 tỷ đồng. Năm 2008, quỹ tồn gần 84.000 tỷ đồng thì cho ngân sách nhà nước vay 8.500 tỷ, mua trái phiếu chính phủ 22.500 tỷ đồng, mua công trái giáo dục hết 200 tỷ, còn lại cho các ngân hàng thương mại của nhà nước vay 52.773 tỷ đồng. Tuy nhiên, trong năm 2008, quỹ chỉ thu về gần 9.000 tỷ đồng tiền lãi với tỷ lệ lãi trên vốn là 11,76%. Đến năm 2009 thì số lãi ước thu được khoảng 8.400 tỷ đồng, tỷ lệ lãi trên vốn giảm xuống còn 9,10%. Rõ ràng hoạt động đầu tư quỹ BHXH bảo đảm an toàn và có khả năng thu hồi được khi cần thiết nhưng hình thức đầu tư chưa thực sự hiệu quả.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docde_cuong_bhxh_1821.doc