Ô nhiễm nước ở Việt Nam

Ô nhiễm nước nó cũng không khác bất cứ một nạn dịch nguy hiểm nào trên hành tinh của chúng ta. Chúng đe dọa và giết chết bất cứ sinh vật nào nhiễm phải không trừ con người. Ô nhiễm nguồn nước không còn là một hiện tượng mới lạ trong cộng đồng. Nguyên nhân rất nhiều, song chung quy là do quy luật phát triển của xã hội cộng với lối sống thiếu ý thức của con người. Sống trong thời đại phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa Việt nam đang rơi vào tình trạng ô nhiễm môi trường một cách nghiêm trọng, nguồn nước đang bị đe dọa ảnh hưởng trực tiếp đời sống của chúng ta.

doc18 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2617 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ô nhiễm nước ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Trong quá trình phát triển, nhất là trong thập kỷ vừa qua, các đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, đã gặp phải nhiều vấn đề môi trường ngày càng nghiêm trọng, do các hoạt động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải và sinh hoạt gây ra. Lượng chất thải này gây ô nhiễm cho môi trường nước của các con sông vốn là nguồn cung cấp nước sinh hoạt cho một nội địa bàn dân cư rộng lớn, làm ảnh hưởng đến các vi sinh vật và hệ sinh thái vốn là tác nhân thực hiện quá trình phân huỷ và làm sạch các dòng sông. Trước những điểm nóng về ô nhiễm môi trường như trên, nhiều giải pháp tương đối đồng bộ và cụ thể đã được kiến nghị nhằm giải quyết các vấn đề về môi trường cả trong hiện tại và trong dự báo về chính sách, chiến lược, quy hoạch đến các giải pháp về công nghệ, nhân lực, giải pháp xã hội, các cộng cụ kinh tế và các biện pháp quan trắc theo dõi, kèm theo một số dự án hoặc nghiên cúu sâu đối với các trường hợp cụ thể. Nước ta thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá và đương nhiên là kéo theo đô thị hoá. Theo kinh nghiệm của nhiều nước, tình hình ô nhiễm môi trường cũng gia tăng nhanh chóng. Nếu tốc độ tăng trưởng GDP trong vòng 10 năm tới tăng bình quân khoảng 7%/năm, trong đó GDP công nghiệp khoảng 8-9%/năm, mức đô thị hoá từ 23% năm lên 33% năm 2000, thì đến năm 2010 lượng ô nhiễm do công nghiệp có thể tăng lên gấp 2,4 lần so với bây giờ, lượng ô nhiễm do nông nghiệp và sinh hoạt cũng có thể gấp đôi mức hiện nay. Để rõ hơn về ô nhiễm nước thì chúng ta cùng nhau đi tìm hiểu và cùng nhau tìm ra hướng giải pháp đúng đắn để xử lý được tình trạng ô nhiễm nước ngày càng trầm trọng ở nước ta hiện nay. B. NỘI DUNG I. TÀI NGUYÊN NƯỚC VÀ Ô NHIỄM NƯỚC LÀ GÌ? 1. Tài nguyên nước là gì? “ Nước là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá của nhân loại ”. Nước là một nhu cầu không thể thiếu của con người. Trung bình nước chiếm độ 75% trọng lượng của cả cơ thể. Nói về nước “sạch”, theo định nghĩa, nước sạch là nước chỉ chấp nhận sự hiện diện của các hợp chất hữu cơ, kim loại và các ions hòa tan với một vi lượng rất nhỏ tuỳ theo độc chất của các chất kễ trên. Và định mức nầy đã được Liên hiệp quốc cũng như các quốc gia trên thế giới chấp nhận tùy theo điều kiện phát triển của từng quốc gia. 2. Ô nhiễm nước là gì? Ô nhiễm nước là sự thay đổi theo chiều xấu đi các tính chất vật lý – hoá học – sinh học của nước, với sự xuất hiện các chất lạ ở thể lỏng, rắn làm cho nguồn nước trở nên độc hại với con người và sinh vật. Làm giảm độ đa dạng sinh vật trong nước. Xét về tốc độ lan truyền và quy mô ảnh hưởng thì ô nhiễm nước là vấn đề đáng lo ngại hơn ô nhiễm đất. Vấn đề ô nhiễm nước là một trong những thực trạng đáng ngại nhất của sự hủy hoại môi trường tự tự nhiên do nền văn minh đương thời. Môi trường nước rất dễ bị ô nhiễm, các ô nhiễm từ đất, không khí đều có thể làm ô nhiễm nước, ảnh hưởng lớn đến đời sống của người và các sinh vật khác.  Do sự đồng nhất của môi trường nước, các chất gây ô nhiễm gây tác động lên toàn bộ sinh vật ở dưới dòng, đôi khi cả đến vùng ven bờ và vùng khơi của biển. Nước bị ô nhiễm là do sự phủ dưỡng xảy ra chủ yếu ở các khu vực nước ngọt và các vùng ven biển, vùng biển khép kín. Do lượng muối khoáng và hàm lượng các chất hữu cơ quá dư thừa làm cho các quần thể sinh vật trong nước không thể đồng hoá được. Kết quả làm cho hàm lượng ôxy trong nước giảm đột ngột, các khí độc tăng lên, tăng độ đục của nước, gây suy thoái thủy vực. Ở các đại dương là nguyên nhân chính gây ô nhiễm đó là các sự cố tràn dầu Ô nhiễm nước có nguyên nhân từ các loại chất thải và nước thải công nghiệp được thải ra lưu vực các con sông mà chưa qua xử lí đúng mức; các loại phân bón hoá học và thuốc trừ sâu ngấm vào nguồn nước ngầm và nước ao hồ; nước thải sinh hoạt được thải ra từ các khu dân cư ven sông. Ô nhiễm nước là hiện tượng các vùng nước như sông, hồ, biển, nước ngầm ... bị các hoạt động của con người làm nhiễm các chất có thể gây hại cho con người và cuộc sống các sinh vật trong tự nhiên. Nước trong tự nhiên tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau: nước ngầm, nước ở các sông hồ, tồn tại ở thể hơi trong không khí... Nước bị ô nhiễm nghĩa là thành phần của nó tồn tại các chất khác, mà các chất này có thể gây hại cho con người và cuộc sống các sinh vật trong tự nhiên. Nước ô nhiễm thường là khó khắc phục mà phải phòng tránh từ đầu. "Ô nhiễm nước là sự biến đổi nói chung do con người đối với chất lượng nước, làm nhiễm bẩn nước và gây nguy hiểm cho con người, cho công nghiệp, nông nghiệp, nuôi cá, nghỉ ngơi, giải trí, cho động vật nuôi và các loài hoang dã". 3. dấu hiệu đặc trưng của ô nhiễm nước   Có xuất hiện các chất nổi trên bề mặt nước và các cặn lắng chìm xuống đáy nguồn.         Thay đổi tính chất lý học (độ trong, màu, mùi, nhiệt độ…)         Thay đổi thành phần hoá học (pH, hàm lượng của các chất hữu cơ và vô cơ, xuất hiện các chất độc hại…)         Lượng oxy hoà tan (DO) trong nước giảm do các quá trình sinh hoá để oxy hoá các chất bẩn hữu cơ vừa mới thải vào.         Các vi sinh vật thay đổi về loài và về số lượng. Có xuất hiện các vi trùng gây bệnh. II. NGUYÊN NHÂN GÂY RA Ô NHIỄM NƯỚC 1. Do ý thức của con người và các cấp chính quyền địa phương Trong quá trình sinh hoạt hàng ngày, dưới tốc độ phát triển như hiện nay con người vô tình làm ô nhiễm nguồn nước bằng các hóa chất, chất thải từ các nhà máy, xí nghiệp. Các đơn vị cá nhân sử dụng nước ngầm dưới hình thức khoan giếng, sau khi ngưng không sử dụng không bịt kín các lỗ khoan lại làm cho nước bẩn chảy lẫn vào làm ô nhiễm nguồn nước ngầm. Các nhà máy xí nghiệp xả khói bụi công nghiệp vào không khí làm ô nhiễm không khí, khi trời mưa, các chất ô nhiễm này sẽ lẫn vào trong nước mưa cũng góp phần làm ô nhiễm nguồn nước. Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường nước, như sự gia tăng dân số, mặt trái của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu: nhận thức của người dân về vấn đề môi trường còn chưa cao… Đáng chú ý là sự bất cập trong hoạt động quản lý, bảo vệ môi trường. Nhận thức của nhiều cấp chính quyền, cơ quan quản lý, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm về nhiệm vụ bảo vệ môi trường nước chưa sâu sắc và đầy đủ; chưa thấy rõ ô nhiễm môi trường nước là loại ô nhiễm gây nguy hiểm trực tiếp, hàng ngày và khó khắc phục đối với đời sống con người cũng như sự phát triển bền vững của đất nước. Các quy định về quản lý và bảo vệ môi trường nước còn thiếu (chẳng hạn như chưa có các quy định và quy trình kỹ thuật phục vụ cho công tác quản lý và bảo vệ nguồn nước). Cơ chế phân công và phối hợp giữa các cơ quan, các ngành và địa phương chưa đồng bộ, còn chồng chéo, chưa quy định trách nhiệm rõ ràng. Chưa có chiến lược, quy hoạch khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước theo lưu vực và các vùng lãnh thổ lớn. Chưa có các quy định hợp lý trong việc đóng góp tài chính để quản lý và bảo vệ môi trường nước, gây nên tình trạng thiếu hụt tài chính,thu không đủ chi cho bảo vệ môi trường. Ngân sách đầu tư cho bảo vệ môi trường nước còn rất thấp (một số nước ASEAN đã đầu tư ngân sách cho bảo vệ môi trường là 1% GDP, còn ở Việt Nam mới chỉ đạt 0,1%). Các chương trình giáo dục cộng đồng về môi trường nói chung và môi trường nước nói riêng còn quá ít. Đội ngũ cán bộ quản lý môi trường nước còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng (Hiện nay ở Việt Nam trung bình có khoảng 3 cán bộ quản lý môi trường/1 triệu dân, trong khi đó ở một số nước ASEAN trung bình là 70 người/1 triệu dân)... 2. Nước thải sinh hoạt và sử dụng hóa chất trong nông nghiệp. Nguồn nước thải sinh hoạt và công nghiệp chảy ra sông ngòi làm bẩn nguồn nước ăn và tưới tiêu. Nguồn nước dùng để ăn uống thì nhiễm bẩn trực tiếp, còn dùng để tưới tiêu thì ngấm vào cây cối, lương thực thực phẩm, gây hại trực tiếp cho con người và thức ăn cho gia súc, gia cầm... Một phần khác nguồn nước thải ô nhiễm độc hại có thể ngấm trực tiếp qua đất xuống các mạch nước ngầm làm bẩn nước dùng của chúng ta. Nguy hại hơn, việc sử dụng giếng khoan bừa bãi, và việc các lỗ khoan giếng nước sau khi dùng hay sau khi thăm dò không xử lý đúng phương pháp làm cho nước thải dễ dàng ngấm trực tiếp đến các túi nước ngầm trong đất, làm cho tình trạng nhiễm độc nước trầm trọng và lây lan diện rộng, cực kỳ khó khắc phục và gây hậu họa khônlường. Tất cả các nguyên nhân trên đều xuất phát từ sự kém hiểu và ý thức với môi trường của con người, chúng ta đang tự mình giết mình mà không hay? Ô nhiễm nước là sự thay đổi thành phần và tính chất nước, có hại cho hoạt động sống bình thường của sinh vật và con người, bởi sự có mặt của một hay nhiều chất lạ vượt qua ngưỡng chịu đựng của sinh vật Hiến chương Châu Âu về nước đã định nghĩa về ô nhiễm nước như sau:" Sự ô nhiễm nước là một biến đổi chủ yếu do con người gây ra đối với chất lượng nước, làm ô nhiễm nước và gây nguy hại cho việc sử dụng, cho công nghiệp, nông nghiệp, nuôi cá, nghĩ ngơi, giải trí, cho động vật nuôi cũng như các loài hoangdại". “ Việc thải các chất thải hoặc nước thải sẽ gây ô nhiễm vật lý, hóa học, hữu cơ, nhiệt, phóng xạ. Việc thải đó phải không gây nguy hiểm đối với sức khỏe cộng đồng và phải tính đến khả năng đồng hóa các chất thải đó của nước(khả năng pha loãng, tự làm sạch…). Những hoạt động kinh tế, xã hội của các cộng đồng, biện pháp xử lý nước đóng vai trò rất quan trọng trong vấn đề này. Ở đồng bằng sông Hồng sau mười năm canh tác (từ 1990 đến 2000) độ chua đất (pHKCL) trung bình giảm 4,5%. Tại đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long lượng thuốc BVTV sử dụng tập trung ở mức cao đã gây ô nhiễm nguồn nước ở các kênh, sông. Khối lượng vỏ bao thuốc BVTV trung bình là 19 nghìn 637 tấn/năm, chủ yếu là các loại vỏ bao giấy tráng kẽm, túi ni-lon (các loại chai nhựa và thủy tinh không đáng kể). Vỏ bao thuốc BVTV hầu như không được thu gom mà vương vãi trên đồng ruộng, kênh mương là nguồn ô nhiễm khá nghiêm trọng. Cùng với vấn đề BVTV, tổng khối lượng chất thải chăn nuôi bình quân khoảng hơn 73 triệu tấn/năm (trong đó chất thải của trâu chiếm 21,9%, bò chiếm 32,5%, lợn chiếm 33,4%) cũng là nguồn gây ô nhiễm lớn. Mặt khác, thuốc thú y sử dụng, không theo hướng dẫn của chuyên môn, bị lạm dụng tạo nên dư lượng trong sản phẩm chăn nuôi gây hiện tượng kháng thuốc của nhiều loại mầm bệnh nguy hiểm đối với con người. Trong khi đó, do không có quy hoạch ban đầu, nhiều xí nghiệp chăn nuôi, lò mổ, xí nghiệp chế biến thực phẩm nằm lẫn trong khu dân cư, sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún thiếu các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Không chỉ trồng trọt, chăn nuôi mà tình trạng phát triển nuôi trồng thủy sản tự phát, thiếu quy hoạch, thức ăn thừa không được xử lý, việc sử dụng kháng sinh tùy tiện cũng dẫn tới ô nhiễm môi trường xảy ra nghiêm trọng ở một số nơi. Một số diện tích đất mặn được ngọt hóa trong nhiều năm để trồng lúa, chỉ sau hai đến ba năm nuôi trồng thủy sản đã mặn hóa trở lại, khi năng suất nuôi thủy sản bị giảm sút mạnh thì đành để hoang hóa trở lại (số diện tích này nhiều nhất ở tỉnh Cà Mau). Hiện tượng vi phạm các quy định của Nhà nước trong khai thác thủy sản vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi. Ðáng kể là dùng ánh sáng đèn có cường độ quá lớn, xung điện, chất độc, chất nổ, lưới cào "tàu bay"... để đánh bắt cá, khai thác vào mùa vụ cấm, không tuân thủ đúng quy định về mắt lưới và loại nghề cho phép dẫn đến tình trạng nguồn lợi hải sản bị giảm sút, một số loài hải sản quý hiếm có nguy cơ cạn kiệt và tuyệt chủng. Nguy hiểm hơn, hành động tàn phá môi trường sống và nơi sinh cư tự nhiên của các loài sinh vật biển còn biểu hiện rộng khắp và chưa có khả năng ngăn chặn. Một số hệ sinh thái biển tiêu biểu, nơi sinh cư của hơn ba nghìn loài hải sản và chim nước như rạn san hô, cỏ biển, cũng bị phá hủy nghiêm trọng, vượt quá khả năng phục hồi hoặc sẽ phục hồi chậm. Ðáng chú ý, vấn đề ô nhiễm môi trường bức xúc nhất hiện nay ở khu vực nông nghiệp, nông thôn là các làng nghề. Theo số liệu gần đây nhất, cả nước có khoảng một nghìn 450 làng nghề phân bố ở 58 tỉnh,  thành phố trong cả nước, riêng vùng đồng bằng sông Hồng có khoảng 800 làng. Trong đó, làng chế biến nông sản thực phẩm là loại hình làng nghề có nhu cầu nước rất lớn và thải ra lượng nước thải hữu cơ gây ô nhiễm môi trường. Kết quả khảo sát ở một số làng nghề cho thấy, hầu hết nước thải đều có BOD vượt chỉ tiêu cho phép từ 12,8 đến 140 lần, COD vượt từ 9,7 đến 87 lần, nước thải có pH thấp. Trong quá trình sản xuất, chế biến của nhiều doanh nghiệp, khu công nghiệp có sử dụng nhiều nguyên liệu thủy sản, nước, nhiên liệu, năng lượng, hóa chất tẩy rửa, khử trùng, môi chất lạnh.. dẫn đến lượng chất thải rắn, nước thải, khí thải sinh ra nhiều, đặc biệt là nước thải hữu cơ gây ô nhiễm môi trường. Trong các loại chất thải, nước thải trong chế biến thủy sản có hàm lượng các chất ô nhiễm hữu cơ rất cao, các chỉ tiêu BOD5, tổng Nitơ và Coliform cao hơn tiêu chuẩn cho phép từ vài lần, đến hàng trăm lần... 3. Nước thải công nghiệp Tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá khá nhanh và sự gia tăng dân số gây áp lực ngày càng nặng nề dối với tài nguyên nước trong vùng lãnh thổ. Môi trường nước ở nhiều đô thị, khu công nghiệp và làng nghề ngày càng bị ô nhiễm bởi nước thải, khí thải và chất thải rắn. ở các thành phố lớn, hàng trăm cơ sở sản xuất công nghiệp đang gây ô nhiễm môi trường nước do không có công trình và thiết bị xử lý chất thải. Ô nhiễm nước do sản xuất công nghiệp là rất nặng. Ví dụ: ở ngành công nghiệp dệt may, ngành công nghiệp giấy và bột giấy, nước thải thường có độ pH trung bình từ 9-11; chỉ số nhu cầu ô xy sinh hoá (BOD), nhu cầu ô xy hoá học (COD) có thể lên đến 700mg/1 và 2.500mg/1; hàm lượng chất rắn lơ lửng... cao gấp nhiều lần giới hạn mà nhà nước đã cho phép. Hàm lượng nước thải của các ngành này có chứa xyanua (CN-) vượt đến 84 lần, H2S vượt 4,2 lần, hàm lượng NH3 vượt 84 lần tiêu chuẩn cho phép nên đã gây ô nhiễm nặng nề các nguồn nước mặt trong vùng dân cư. Mức độ ô nhiễm nước ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp tập trung là rất lớn. Khảo sát một số làng nghề sắt thép, đúc đồng, nhôm, chì, giấy, dệt nhuộm ở Bắc Ninh cho thấy có lượng nước thải hàng ngàn m3/ ngày không qua xử lý, gây ô nhiễm nguồn nước và môi trường trong khu vực. Tình trạng ô nhiễm nước ở các đô thị thấy rõ nhất là ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. ở các thành phố này, nước thải sinh hoạt không có hệ thống xử lý tập trung mà trực tiếp xả ra nguồn tiếp nhận (sông, hồ, kênh, mương). Mặt khác, còn rất nhiều cơ sở sản xuất không xử lý nước thải, phần lớn các bệnh viện và cơ sở y tế lớn chưa có hệ thống xử lý nước thải; một lượng rác thải rắn lớn trong thành phố không thu gom hết được… là những nguồn quan trọng gây ra ô nhiễm nước. Một số thành phố lớn cũng bị ô nhiễm rất nghiên trọng. Ở thành phố Hà Nội, tổng lượng nước thải của thành phố lên tới 300.000 - 400.000 m3/ngày; hiện mới chỉ có 5/31 bệnh viện có hệ thống xử lý nước thải, chiếm 25% lượng nước thải bệnh viện; 36/400 cơ sở sản xuất có xử lý nước thải; lượng rác thải sinh hoại chưa được thu gom khoảng 1.200m3/ngày đang xả vào các khu đất ven các hồ, kênh, mương trong nội thành; chỉ số BOD, oxy hoà tan, các chất NH4, NO2, NO3 ở các sông, hồ, mương nội thành đều vượt quá quy định cho phép ở thành phố Hồ Chí Minh thì lượng rác thải lên tới gần 4.000 tấn/ngày; chỉ có 24/142 cơ sở y tế lớn là có xử lý nước thải; khoảng 3.000 cơ sở sản xuất gây ô nhiễm thuộc diện phải di dời.Không chỉ ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh mà ở các đô thị khác như Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nam Định, Hải Dương… nước thải sinh hoạt cũng không được xử lý độ ô nhiễm nguồn nước nơi tiếp nhận nước thải đều vượt quá tiểu chuẩn cho phép (TCCP), các thông số chất lơ lửng (SS), BOD; COD; Ô xy hoà tan (DO) đều vượt từ 5-10 lần,20 lần TCCP. Về tình trạng ô nhiễm nước ở nông thôn và khu vực sản xuất nông nghiệp, hiện nay Việt Nam có gần 76% dân số đang sinh sống ở nông thôn là nơi cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, phần lớn các chất thải của con người và gia súc không được xử lý nên thấm xuống đất hoặc bị rửa trôi, làm cho tình trạng ô nhiễm nguồn nước về mặt hữu cơ và vi sinh vật ngày càng cao. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số vi khuẩn Feca coliform trung bình biến đổi từ 1.500-3.500MNP/100ml ở các vùng ven sông Tiền và sông Hậu, đã tăng lên tới 3800-12.500MNP/100ML ở các kênh tưới tiêu. Trong sản xuất nông nghiệp, do lạm dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, các nguồn nước ở sông, hồ, kênh, mương bị ô nhiễm, ảnh hưởng lớn đến môi trường nước và sức khoẻ nhân dân thiệt hại về người và đời sống của mọi người. Theo thống kê của Bộ Thuỷ sản, tổng diện tích mặt nước sử dụng cho nuôi trồng thuỷ sản đến năm 2001 của cả nước là 751.999 ha. Do nuôi trồng thuỷ sản ồ ạt, thiếu quy hoạch, không tuân theo quy trình kỹ thuật nên đã gây nhiều tác động tiêu cực tới môi trường nước. Cùng với việc sử dụng nhiều và không đúng cách các loại hoá chất trong nuôi trồng thuỷ sản, thì các thức ăn dư lắng xuống đáy ao, hồ, lòng sông làm cho môi trường nước bị ô nhiễm các chất hữu cơ, làm phát triển một số loài sinh vật gây bệnh và xuất hiện một số tảo độc; thậm chí đã có dấu hiệu xuất hiện thuỷ triều đỏ ở một số vùng ven biển Việt Nam. Mức độ ô nhiễm nước ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp tập trung là chiếm tỷ lệ so với các nguyên nhân khác là rất lớn. Tại cụm công nghiệp Tham Lương, thành phố Hồ Chí Minh, nguồn nước bị nhiễm bẩn bởi nước thải công nghiệp với tổng lượng nước thải ước tính 500.000 m3/ngày từ các nhà máy giấy, bột giặt, nhuộm, dệt. ở thành phố Thái Nguyên, nước thải công nghiệp thải ra từ các cơ sở sản xuất giấy, luyện gang thép, luyện kim màu, khai thác than; về mùa cạn tổng lượng nước thải khu vực thành phố Thái Nguyên chiếm khoảng 15% lưu lượng sông Cầu; nước thải từ sản xuất giấy có pH từ 8,4-9 và hàm lượng NH4 là 4mg/1, hàm lượng chất hữu cơ cao, nước thải có màu nâu, mùi khó chịu, hiện tượng bị nhiễm độc … 4. Do sự cố tràn dầu Thống kê của Cục Hàng hải Việt Nam, chỉ riêng 3 tháng đầu năm đã xảy ra 14 vụ tai nạn hàng hải trong đó có 9 vụ tai nạn đâm va, 1 vụ va chạm, 1 vụ mắc cạn, 2 vụ chìm đắm và 1 vụ cháy tàu, làm chết 8 người, bị thương 2 người và mất tích 13 người. Như ta đã biết, các sự cố hàng hải gây tràn dầu như vụ tàu Đức Trí thường để lại hậu quả rất nghiêm trọng làm ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, tài nguyên thủy sinh, tài nguyên nước, tài nguyên đất trên một khu vực khá rộng, gây thiệt hại đến các hoạt động kinh tế, đặc biệt là những hoạt động liên quan đến khai thác và sử dụng tài nguyên thủy sản, các tổ chức, cá nhân sinh sống và có hoạt động phát triển ven bờ như đánh bắt, nuôi trồng thủy sản, du lịch, làm muối, nông nghiệp... khó có thể lường trước hết hậu quả này. 5. Sự gia tăng dân số Thêm nữa, sự gia tăng dân số kéo theo nhu cầu cần phải phát triển nông nghiệp, do đó việc tận dụng nguồn nước, nhất là nước ngầm sẽ là một nguy cơ làm cạn kiệt nguồn nước trong tương lai. Trước mắt, các quốc gia đang phát triển phải trực diện với nạn gia tăng dân số vì không có khả năng ngăn chặn mức sinh sản của người dân, các nước nầy sẽ là những nạn nhân đầu tiên của nạn khan hiếm nguồn nước. Để có khái niệm rõ thêm về vấn đề nước, thiết nghĩ cũng cần nên biết về những yêu cầu đòi hỏi cho nước “sạch” và tiêu chuẩn cần có để bảo vệ sức khỏe của người tiêu dùng. 6. Một số nguyên nhân cụ thể khác a. Do yếu tố tự nhiên: Ô nhiễm nước có nguồn gốc tự nhiên: Do mưa, tuyết tan, gió bão, lũ lụt đưa vào môi trường nước chất thải bẩn, các sinh vật và vi sinh vật có hại kể cả xác chết của chúng. Ô nhiễm tự nhiên là do quá trình phát triển và chết đi của các loài thực vật, động vật có trong nguồn nước, hoặc là do nước mưa rửa trôi các chất gây ô nhiễm từ trên mặt đất chảy vào nguồn nước. b. Khai thác vàng thủ công: Với các phương tiện đơn giản nhất như: quặng vàng trộn lẫn với thủy ngân sau đó hỗn hợp này sẽ được nung chảy, thủy ngân bốc hơi, chất còn lại là vàng. Hậu quả, người khai thác thì hít khí độc còn chất thải thủy ngân thì gây ô nhiễm môi trường nước làm ảnh hưởng đến sức khỏe của con người… c. Ô nhiễm mặt nước: Mỗi người mỗi ngày cần khoảng 20 lít nước ngọt để ăn, uống và từ 50-150 lít nước để sinh hoạt. Dân số ngày một tăng, nông nghiệp ngày một phát triển vì thế tài nguyên nước ngày càng khan hiếm và ngày càng bị ô nhiễm nặng nề. Con người bị nhiễm độc có thể do uống phải nước hoặc ăn thức ăn bị nhiễm độc. Cây trồng và các loại thủy sản cũng có thể bị nhiễm chất độc trong nước nhiễm độc. d. Ô nhiễm nước ngầm: Nước ngầm là nguồn nước quan trọng nhất. Tại các khu đô thị, việc chọn vị trí đổ chất thải hoặc bể phốt làm không tốt nên chất độc cũng như các tác nhân gây bệnh có thể ngấm vào nguồn nước ngầm. Ngoài ra, các loại dầu máy thải, chất tẩy rửa từ các hộ gia đình hoặc thuốc bảo vệ thực vật, phân hóa học dùng trong nông nghiệp cũng gây ô nhiễm nguồn nước ngầm. Do sự di chuyển của nước ngầm rất chậm nên sự nhiễm chất độc có thời gian tích tụ lâu dài, thậm chí sau nhiều năm mới thâm nhập vào nguồn nước ăn. e. Khai khoáng công nghiệp: Khó khăn lớn nhất là xử lý chất thải dưới dạng đất đá và bùn. Chất thải này có thể có các hóa chất độc hại mà người ta sử dụng để tách quặng khỏi đất đá. Chất thải ở các mỏ thường có các hợp chất sulfid-kim loại, chúng có thể tạo thành axít, với khối lượng lớn chúng có thể gây hại đối với đồng ruộng và nguồn nước ở xung quanh. Bùn từ các khu mỏ chảy ra sông suối có thể gây ùn tắc dòng chảy từ đó gây lũ lụt. g.Các lò nung và chế biến hợp kim: Trong quá trình sản xuất và chế biến các loại kim loại như đồng, Nicken, kẽm, bạc, Kobalt, vàng và Kadmium, môi trường bị ảnh hưởng nặng bởi các chất thải như: Hydrofluor, Sunfua-dioxit, Nitơ-oxit khói độc cũng như các kim loại nặng như chì, Arsen, Chrom, Kadmium, Nicken, đồng và kẽm. Một lượng lớn axít-sunfuaric được sử dụng để chế biến. Chất thải rắn độc hại cũng gây hại đến môi trường. Thông thường con người hít thở các chất độc hại này hoặc chúng thâm nhập vào chuỗi thực phẩm. Bụi mịn gây hại nặng nề và ảnh hưởng tới nguồn nước. h. Nước thải không được xử lý: Ở nhiều vùng nghèo khổ trên thế giới, phân người và nước thải sinh hoạt không được xử lý mà quay trở lại vòng tuần hoàn của nước. Nước thải không được xử lý chảy vào sông rạch và ao hồ gây thiếu hụt oxy làm cho nhiều loại động vật và cây cỏ không thể tồn tại. Theo WHO, trong năm 2008, có khoảng 2,6 tỷ người không được tiếp cận với các công trình vệ sinh. Đây chính là nguyên nhân vì sao ở các thành phố nước bị ô nhiễm nặng nề bởi chất bài tiết của con người. Mỗi năm có khoảng 1,5 triệu người bị chết liên quan đến nước thải không được xử lý. i. Sử dụng lại bình ắc quy: Ắc quy ôtô có nhiều tấm chì ngâm trong axít có thể nạp điện để sử dụng nhiều lần. Những bình ắc quy cũ này thường được vận chuyển từ các nước giàu sang các nước nghèo thuộc thế giới thứ ba để tái sử dụng. Việc tháo gỡ các bình ắc quy này được thực hiện hết sức thủ công và không bảo đảm điều kiện an toàn nên thường xảy ra các vụ ngộ độc chì đối với những lao động tiếp xúc trực tiếp với bình ắc quy cũ. Ngoài ra, về lâu dài, nó còn gây ngộ độc mãn tính: chì tích tụ dần do khối lượng rất nhỏ qua hệ thống hô hấp và tích tụ ở xương. III. HẬU QUẢ Thiếu nước, nguồn nước bị ô nhiễm đã trở thành một nguyên nhân gây ra các loại dịch bệnh, đe dọa sức khỏe con người, mà căn bệnh thường gặp là tiêu chảy, tả, kiết lỵ, khiến hàng triệu người ở nước ta mắc háng năm. Theo khảo sát, thống kê chưa đầy đủ của WHO, hiện thế giới có khoảng 270 triệu người mắc bệnh sốt rét, hơn 200 triệu trường hợp mắc sán máng, gần 100 triệu mắc bệnh giun chỉ,v.v... Nguyên nhân chính vẫn là do ký sinh trùng, côn trùng truyền bệnh phát triển trong môi trường nước bị nhiễm bẩn, lây truyền sang người qua con đường ăn uống, sinh hoạt. Thời gian qua, nước ta đã phải đầu tư hàng nghìn tỷ đồng vào không ít dự án phòng, chống sốt rét, bệnh giun sán. Hậu quả chung của tình trạng ô nhiễm nước là tỉ lệ người chết do các bệnh liên quan đến ô nhiễm nước như viêm màng kết, tiêu chảy, ung thư ngày càng tăng lên. Ngoài ra, tỉ lệ trẻ em tử vong tại các khu vực bị ô nhiễm nguồn nước là rất cao. Thực hiện sự nghiệp CNH, HÐH đất nước, theo đó nhiều khu công nghiệp, chế xuất với hàng nghìn nhà máy, doanh nghiệp ra đời, góp phần tạo việc làm cho một bộ phận dân cư. Song, do công tác quy hoạch và xây dựng hạ tầng kỹ thuật thiếu đồng bộ, trong đó khá nhiều nơi ít quan tâm tới việc xử lý chất thải, cho nên hàng trăm nghìn tấn chất thải rắn, lỏng hàng năm cứ thế đổ ra các ao, hồ, sông, suối. Trong số này có không ít kim loại nặng, thủy ngân, hóa chất độc hại gây ô nhiễm trầm trọng nguồn nước, nhất là các khu vực có khu công nghiệp, chế xuất hoạt động. Ðây là mầm mống gây ra các loại bệnh tật, kể cả những bệnh hiểm nghèo như ung thư dạ dày, gan, ruột,v.v... Do đó mọi người phải nhận thức được vai trò quan trọng của nước uống và phải biết lo ngại, quan tâm đến nguy cơ ô nhiễm nguồn nước từ nước thải chứa hóa chất độc hại gây biến dị sinh lý lâu dài theo hệ di truyền, những vi khuẩn gây bệnh như thương hàn, dịch tả v.v… đang có khuynh hướng gia tăng trong nước để có ý thức giữ gìn và bảo vệ nguồn nước, một tài nguyên không phải là vô hạn của trái đất. IV. BIỆN PHÁP XỬ LÝ NƯỚC Ô NHIỄM Vậy đâu là giải pháp cho vấn đề ô nhiễm nước nghiêm trọng tại Việt Nam? Chiến lược lâu dài là có thể cung cấp những nguồn nước uống an toàn đã qua xử lý và cải thiện hệ thống vệ sinh. Chiến lược ngắn hạn là sử dụng aquen rửa tay cũng có thể bảo vệ hàng triệu con người. Bên cạnh đó, ngoài chiến dịch truyền thông nâng cao nhận thức, cũng cần phải áp dụng những quy định nghiêm ngặt hơn đối với vấn đề kiểm soát ô nhiễm, buộc tất cả mọi doanh nghiệp - từ quy mô nhỏ đến lớn - phải đáp ứng được những tiêu chuẩn tối thiểu. Xét cho cùng, nước sạch và không khí trong lành là những điều thiết yếu để có được một cuộc sống khỏe mạnh. Điều quan trọng nhất là chính phủ cần đầu tư và xây dựng những dự án nước sạch cũng như các công trình xử lý nước thải để hỗ trợ cho chiến dịch này và thu hút người dân tham gia. Một ví dụ điển hình là dự án công viên Yên Sở trị giá hàng triệu đô la đã được đề cập ở trên. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội đã và đang làm việc với Gamuda để cải tạo và nâng cấp hệ thống Công viên hồ, kênh Yên Sở trở thành một công viên công cộng tiêu chuẩn quốc tế với những hồ nước tự nhiên sạch sẽ, một hệ thống vệ sinh hiện đại, và những công trình đô thị quanh hồ mang lại cho người dân Hà Nội và du khách một lối sống lành mạnh, tràn đầy bản sắc văn hóa. Một trong những phần quan trọng của dự án này là xây dựng nhà máy xử lý nước thải lớn nhất tại công viên Yên Sở với công suất xử lý một nửa lượng nước thải của Hà Nội. Dự án công viên Yên Sở sẽ biến khu công viên bình thường hiện nay thành một cửa ngõ phía Nam sôi động, có môi trường xanh sạch đẹp cùng với những công trình phục vụ thương mại, khách sạn và du lịch. Nếu có thêm những dự án lớn tương tự để giải quyết vấn đề ô nhiễm nước, Hà Nội sẽ tiến tới kỷ niệm sinh nhật thứ 1000 với một diện mạo mới: sạch và xanh. VN được xem là quốc gia có nguồn nước mặt và nước ngầm tương đối dồi dào. Tuy nhiên, việc quản lý, sử dụng và bảo vệ chưa tốt khiến các nguồn nước mặt ngày càng bị ô nhiễm do một lượng lớn chất thải công nghiệp và sinh hoạt gây nên, còn nguồn nước ngầm bị nhiễm các chất hữu cơ khó phân hủy. Theo bản chất các tác nhân gây ô nhiễm, người ta phân ra các loại ô nhiễm nước: ô nhiễm vô cơ, hữu cơ, ô nhiễm hoá chất, ô nhiễm sinh học, ô nhiễm bởi các tác nhân vật lý. Theo đó, thành phố đặt mục tiêu, từ nay đến 2010, 100% các xã, thị trấn có tổ chức thu gom chất thải rắn sinh hoạt. 100% khối lượng chất thải rắn sinh hoạt của các xã, thị trấn được thu gom phải được chôn lấp và xử lý hợp vệ sinh. Đồng thời, 100% chất thải rắn y tế nguy hại được thu gom và xử lý; 95% phế thải xây dựng được thu gom và tập kết đúng nơi quy định... Hà Nội cũng yêu cầu xử lý 10-15% lượng nước thải sinh hoạt khu vực nội thành. Đến quý IV-2010, xử lý ô nhiễm nước toàn bộ các hồ đã được nạo vét và kè bờ trên địa bàn. 100% các công trường xây dựng phải được che chắn và áp dụng các biện pháp giảm bụi... Nước là nguồn tài nguyên quý báu và hết sức thiết yếu đối với sự sống trên trái đất. Thực tiễn chỉ ra rằng quốc gia nào quan tâm đến công tác bảo vệ môi trường, trong đó có việc khai thác, sử dụng hợp lý nguồn nước, thường xuyên bảo đảm cho nguồn nước trong sạch, thì hạn chế được nhiều dịch bệnh, chất lượng cuộc sống được nâng lên. Bởi vậy, ở nước ta, một mặt khai thác nguồn nước phục vụ sản xuất, xây dựng, nhưng mặt khác cần coi trọng việc bảo đảm nguồn nước sinh hoạt sạch. Nhà nước có chiến lược phát triển bền vững nguồn nước, nhưng mỗi tổ chức, cá nhân trong cộng đồng cần nâng cao ý thức sử dụng hợp lý và bảo vệ, giữ gìn sự trong sạch của nguồn nước sinh hoạt, hạn chế tình trạng nguồn nước bị nhiễm bẩn không đáng có. Ðối với người dân vùng lũ lụt, sau nước rút, môi trường sống, nhất là nguồn nước bị ô nhiễm nặng. Ði liền với công tác vệ sinh, dọn sạch bùn đất, ngành y tế cung ứng đủ Clo-ra-min B cho các hộ gia đình diệt khuẩn, bảo đảm có nguồn nước sinh hoạt. Ðiều đó cũng có nghĩa góp phần loại trừ các loại dịch bệnh nguy hiểm, bảo vệ và nâng cao sức khỏe người dân. Các giải pháp sẽ chỉ có tác dụng giảm bớt ô nhiễm môi trường nếu mọi người cùng coi trọng và bảo vệ môi trường bằng y thức và hành động cụ thể của mỗi người. Cần tăng cường công tác quản lý nguồn nước Chúng ta đã có Luật tài nguyên nước, đã có cơ quan quản lý Nhà nước về lĩnh vực này. Đó là những công cụ hữu hiệu để tăng cường quản lý nguồn nước, đẩy lùi các hiện tượng xâm hại nguồn nước như: khai thác bừa bãi, thăm dò và khai thác không phép, thi công các công trình không đúng quy trình gây hư hại nguồn nước... Đẩy mạnh công tác truyền thông Thực tế cho thấy đa số người dân còn ít biết về nguy cơ ô nhiễm nguồn nước, về tác hại của những việc làm vô ý thức dẫn tới phá hỏng nguồn nước và những biện pháp phòng tránh ô nhiễm nguồn nước... Các phương tiện truyền thông đại chúng cần tăng cường các nội dung liên quan tới bảo vệ nguồn nước, trang bị kiến thức cho quần chúng để mọi người có thể giám sát các hoạt động liên quan tới nguồn nước nhằm phát hiện các hoạt động sai trái giúp cho cơ quan chức năng. Chỉ khi nào toàn dân quan tâm tới bảo vệ nguồn nước thì mới có thể giữ gìn sự trong sạch của nguồn nước cho muôn đời sau. Chúng ta đã có Luật Tài nguyên nước, nhưng việc thực thi luật còn nhiều điều đáng nói. Kinh nghiệm của việc thực thi luật giao thông đường bộ mấy tháng nay cho thấy chỉ khi nào có những chế tài thích hợp và sự thực hiện nghiêm túc các biện pháp mạnh thì mới lập lại được kỷ cương, phép nước. Chúng tôi cho rằng việc thi hành luật tài nguyên nước cũng nên làm mạnh và nghiêm. Cần tăng cường áp dụng công nghệ mới Trong thời gian mấy chục năm qua, do những hạn chế về kinh phí đầu tư cho việc xử lý nước trên phương diện phổ cập chúng ta mới xử lý một vài chỉ tiêu ô nhiễm như sắt, mangan, vi sinh. Để nâng cao năng lực cấp nước của các nhà máy hiện tại và xây dựng các dự án cấp nước mới, để đạt được mục tiêu cấp nước đến năm 2020 theo quyết định của Chính phủ, cùng với việc điều tra cơ bản phục vụ công tác quy hoạch, thiết kế, vế công nghệ cần quan tâm xây dựng hoặc nhập khẩu các công nghệ phù hợp với các loại nguồn nước đặc biệt mà hiện tại chưa được ứng dụng ở nước ta. Hướng tới các nguồn nước sạch hơn Như đã nói ở trên, nguồn nước ngầm cấp cho Hà Nội hiện nay đều lấy từ tầng cuội sỏi qp1, nằm ở chiều sâu trung bình 40 đến 80m. Công tác điều tra của các nhà địa chất thủy văn thuộc Liên đoàn Địa chất thủy văn - Địa chất công trình Miền bắc cho biết: bên dưới tầng chứa nước trong cuội sỏi đó có một tầng chứa nước trong đới phá huỷ kiến tạo của cát cuội sét kết được thành tạo vào thời kỳ Neojen (kí hiệu là tầng N). Đã có một ít công trình khoan vào tầng N ở chiều sâu trên 100 mét. Số lượng và chất lượng nước của các giếng khoan này đủ đáp ứng nhu cầu cung cấp nước. Đó là những tín hiệu đáng mừng, nhưng cũng còn nhiều vấn đề về tầng N cần phải làm sáng tỏ: diện tích phân bố của nó rộng hẹp ra sao? Tính đồng nhất của tầng về chất lượng và số lượng nước? Thành phần hoá học toàn diện và công nghệ xử lý nước của tầng? Chi phí cho công tác thăm dò và khai thác nguồn nước này trong tương lai có thể chấp nhận được? Giải pháp nào để bảo vệ tầng nước ngầm mới chống lại sự ô nhiễm? Chỉ khi nào trả lời đầy đủ các câu hỏi đó, chúng ta mới yên tâm đầu tư khai thác nguồn nước mới này. V. THỰC TRẠNG Ô NHIỄM NƯỚC Ở VIỆT NAM Nước ta có nền công nghiệp chưa phát triển mạnh, các khu công nghiệp và các đô thị chưa đông lắm nhưng tình trạng ô nhiễm nước đã xảy ra ở nhiều nơi với các mức độ nghiêm trọng khác nhau. Nông nghiệp là ngành sử dụng nhiều nước nhất, dùng để tưới lúa và hoa màu, chủ yếu là ở đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng. Việc sử dụng nông dược và phân bón hoá học càng góp thêm phần ô nhiễm môi trường nông thôn. Công nghiệp là ngành làm ô nhiễm nước quan trọng, mỗi ngành có một loại nước thải khác nhau. Khu công nghiệp Thái Nguyên thải nước biến Sông Cầu thành màu đen, mặt nước sủi bọt trên chiều dài hàng chục cây số. Khu công nghiệp Việt Trì xả mỗi ngày hàng ngàn mét khối nước thải của nhà máy hoá chất, thuốc trừ sâu, giấy, dệt… xuống Sông Hồng làm nước bị nhiễm bẩn đáng kể. Khu công nghiệp Biên Hoà và TP.HCM  tạo ra nguồn nước thải công nghiệp và sinh hoạt rất lớn, làm nhiễm bẩn tất cả các sông rạch ở đây và cả vùng phụ cận. Nước dùng trong sinh hoạt của dân cư ngày càng tăng nhanh do tăng dân số và các đô thị. Nước cống từ nước thải sinh hoạt cộng với nước thải của các cơ sở tiểu thủ công nghiệp trong khu dân cư là đặc trưng ô nhiễm của các đô thị ở nước ta. Tại Hà Nội, đang thực hiện gói thầu CP7A nhằm cải thiện hệ thống thoát nước ở Hà Nội trên hệ thống sông Tô Lịch, sông Lừ, sông Sét, tức lần thực hiện các biện pháp xử lý nước thải hữu hiệu như đã đề ra trong quy hoạch tổng thể thoát nước của Hà Nội thì đến năm 2010 hầu hết các con sông ở Hà Nội có chỉ tiêu BOD dưới 25 mg/lít; còn nếu không có biện pháp cải thiện môi trường rõ rệt thì chỉ số BOD sẽ tăng gấp đôi so với thời kỳ 1992-1994 và khoảng 1,8 lần so với thời kỳ 1997-1998, trong đó sông Lừ sẽ bị ô nhiễm nặng nhất với chỉ số BOD là 130 mg/l, khá nhất là sông Sét thì cũng là 54 mg/l; trong đó tiêu chuẩn cho phép đối với nước loại A không quá 4 mg/l, với nước loại B không quá 25 mg/l. Hà Nội cũng đang tiến hành dự án cải tạo môi trường đối với khu công nghiệp Minh Khai – Vĩnh Tuy, di dời các nhà máy ra khỏi vùng đô thị đông dân, áp dụng nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền”, “Trường hợp tính lệ phí nước thải của một xí nghiệp công nghiệp”. Thành phố Hồ Chí Minh lập dự án xây dựng các nhà máy xử lý chất thải công nghiệp v.v... Vài thập niên trở lại đây, trong nhiều hội nghị quốc tế và trong nước về môi trường, các nhà khoa học đã cảnh báo, chỉ ra tình trạng môi trường sống bị xâm hại nghiêm trọng; phần do sự biến đổi bất thường của khí hậu, thời tiết, phần khác do con người khai thác quá mức tài nguyên, khoáng sản. Những năm gần đây, hàng trăm nghìn ha đất nông nghiệp ở các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên thường xuyên bị hạn hán, ảnh hưởng lớn đến sản xuất, phát triển kinh tế, hàng vạn gia đình ở các địa bàn này thiếu nước sinh hoạt trầm trọng. C. KẾT LUẬN Nước không thể thiếu được trên trái đất cũng như con người sống không thể thiếu máu. Có nước là có sự sống. Nước là rất cần thiết cho mỗi chúng ta, nếu thiếu nước thì chúng ta sẽ ra sao? Liệu rằng có còn ai hay sinh vật nào sống được trên trái đất này không? Thiếu nước đã là rất nguy hiểm nhưng ô nhiễm nước cũng là vấn đề vô cùng quan trọng. Nó cũng đang dần dần giết chết chúng ta từng ngày từng giờ nếu chúng ta không làm gì cả. Ô nhiễm nước nó cũng không khác bất cứ một nạn dịch nguy hiểm nào trên hành tinh của chúng ta. Chúng đe dọa và giết chết bất cứ sinh vật nào nhiễm phải không trừ con người. Ô nhiễm nguồn nước không còn là một hiện tượng mới lạ trong cộng đồng. Nguyên nhân rất nhiều, song chung quy là do quy luật phát triển của xã hội cộng với lối sống thiếu ý thức của con người. Sống trong thời đại phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa Việt nam đang rơi vào tình trạng ô nhiễm môi trường một cách nghiêm trọng, nguồn nước đang bị đe dọa ảnh hưởng trực tiếp đời sống của chúng ta. Là những nhà kỹ sư môi trường tương lai chúng ta phải làm gì để cứu lấy hành tinh của chúng ta? Hãy chung tay giúp sức lại để cùng nhau cứu lấy hành tinh này. Chúng ta hãy thực hiện những chương trình như “ Hành trình xanh” đi tới từng vùng miền để cải tạo môi trường ngày càng xanh- sạch- đẹp. “ Môi trường của chúng ta có khỏe hơn, tươi đẹp hơn đươc hay không là do ý thức của mỗi chúng ta”. -HẾT - MỤC LỤC A. MỞ ĐẦU 1 B. NỘI DUNG 2 I. TÀI NGUYÊN NƯỚC VÀ Ô NHIỄM NƯỚC LÀ GÌ? 2 1. Tài nguyên nước là gì? 2 2. Ô nhiễm nước là gì ? 2 3. Dấu hiệu đặc trưng của ô nhiễm nước 3 II. NGUYÊN NHÂN GÂY RA Ô NHIỄM NƯỚC 3 1. Do ý thức của con người và các cấp chính quyền địa phương 3 2. Nước thải sinh hoạt và sử dụng hóa chất trong nông nghiệp. 4 3.Nước thải công nghiệp 6 4. Do sự cố tràn dầu 8 5. Sự gia tăng dân số 9 6.Một số nguyên nhân cụ thể khác 9 a. Do yếu tố tự nhiên 9 b. Khai thác vàng thủ công: 9 c. Ô nhiễm mặt nước: 9 d. Ô nhiễm nước ngầm: 10 e. Khai khoáng công nghiệp: 10 g. Các lò nung và chế biến hợp kim: 10 h. Nước thải không được xử lý: 10 i. Sử dụng lại bình ắc quy: 11 III. HẬU QUẢ 11 IV. BIỆN PHÁP XỬ LÝ Ô NHIỄM NƯỚC 12 V. THỰC TRẠNG Ô NHIỄM NƯỚC Ở VIỆT NAM 15 C. KẾT LUẬN 17

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docÔ nhiễm nước.doc