Giáo trình lịch sử thế giới cổ đại

Bộ máy nhà nước Ai Cập cổ đại được tổ chức theo chế độ quân chủ chuyên chế. Đứng đầu bộ máy nhà nước ấy là vua được gọi là Pharaông có nghĩa là “cung điện”. Pharaông là người có quyền lực vô cùng lớn, là người đứng đầu về chính trị và còn đứng đầu về tôn giáo. Pharaông Ai Cập còn được thần thánh hóa, ví dụ vua sáng lập vương triều V được nói là con của một nữ tu sỹ với thần Ra. Chính nhờ có uy quyền lớn như vậy nên nhiều Pharaông ở Ai Cập đã có thể xây cho mình những kim tự tháp nổi tiếng. Dưới vua là một bộ máy quan lại trung ương và địa phương mà người đứng đầu là Tể tướng. Tể tướng có quyền quản lý các công việc về chính trị, tài chính, kinh tế. Quan Tể tướng cũng là quan chánh án tối cao. Cấp hành chính địa phương dưới trung ương gọi là Châu. Viên quan đứng đầu các Châu gọi là châu trưởng. Chức quan này không những có quyền quản lý mọi công việc ở trong châu mà còn là người đứng đầu tôn giáo ở địa phương

pdf33 trang | Chia sẻ: thuychi20 | Lượt xem: 1039 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình lịch sử thế giới cổ đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ển đến Memphít. Sự thống nhất hùng mạnh của Ai Cập chỉ duy trì được trong hai vương triều III và IV, tiếp đó Ai Cập bước vào thời kỳ hỗn loạn kéo dài trong nhiều thế kỷ. 3. Thời kỳ Trung Vương quốc. Sau một thời gian chia cắt, ở miền Bắc và miền Nam đã hình thành hai trung tâm của việc thống nhất đất nước là Hêraclêôpôlít và Tebơ (Thèbes) đến khỏang năm 2200 TCN, một lần nữa, miền Nam lại thống nhất được cả nước. Vua Mentuhôtép của Tebơ trở thành vua của cả Ai Cập. Vương triều XI bắt đầu được thành lập. Thời kỳ Trung Vương quốc gồm 7 vương triều (từ vương triều XI đến vương triề XVII), nhưng trong đó thời kỳ ổn định nhất là dưới thời thống trị của vương triều XI và vương triề XII. Sau đó, thời Trung vương quốc có hai sự kiện nổi bật, đó là cuộc khởi nghĩa của dân ngèo và sự thống trị miền bắc Ai Cập của người Hích Xốt. - Đến năm 1750 TCN, do chính sách áp bức bóc lột tàn bạo của giai cấp thống trị, nhân dân ở kinh đô đã nổi dậy khởi nghĩa. Quần chúng khởi nghĩa trước hết đến bắt vua, lật đổ chính quyền trung ương. Cả bộ máy thống trị cũ bị sụp đổ, tất cả những người trong cung bị đuổi khỏi cung đình. Ngay sau đó, quần chúng khởi nghĩa thành lập chính quyền mới, tự qủan lý các mặt hành chính, tư pháp và tài chính. Tuy vậy, cuối cùng cuộc khởi Nguyễn Gia Phu Khoa Lịch Sử Lịch sử thế giới Cổ Đại - 13 - nghĩa này không tránh khỏi bị thất bại, giai cấp thống trị lại khôi phục được chính quyền của mình. - Sau khi dẹp tắt được ngọn lửa đấu tranh của quần chúng nhân không lâu, Ai Cập bị người HíchXốt,một bộ tộc ở vùng Palextin xâm nhập. Kết qủa là năm 1710 TCN, người HíchXốt chinh phục được miền Bắc Ai Cập, lập nên ở đây một vương triều ngoại tộc rồi lấy miền Bắc làm địa bàn để khống chế cả miền Nam. Người Hích Xốt thống trị Ai Cập trong vòng 140 năm, đến năm 1570 mới bị đánh đuổi. 4. Thời kỳ Tân vương quốc. Thời kỳ Tân vương quốc bao gồm 3 vương triều từ vương triều XVIII đến vương triều XX. Chính sách thống trị của người Hích xốt làm cho nhân dân Ai Cập hết sức căm phẫn, vì vậy họ không ngừng nổi dậy đấu tranh. Đến năm 1570, vua Aùtmét (Ahmès) ở miền Nam đã lãnh đạo nhân dân Ai Cập đánh đuổi được người Hích Xốt khôi phục nền độc lập và thống nhất cho đất nước. Atmét là người sáng lập vương triều XVIII, từ đó lịch sử Ai Cập bước vào thời kỳ Tân vương quốc. Từ đây, Ai Cập trở thành một nước hùng mạnh. Trên cơ sở ấy, Atmét và những người kế thừa ông đã thi hành chính sách xâm lược bên ngoài, do đó đã biến Ai Cập thành một đế quốc có lãnh thổ bao gồm Libi, Nubi ở Châu Phi và Xiri, Phênixi, Palextin ở Châu Á. Đến cuối thời vương triều XVIII, ở Ai Cập có một sự kiện quan trọng, đó là cuộc cải cách tôn giáo của Íchnatôn. Nguyên nhân của cuộc cải cách tôn giáo này là sau các cuộc chiến tranh thắng lợi, các Pharaông Ai Cập thường ban cấp nhiều của cải cho các đền thờ thần mặt trời Amôn, do đó đã làm cho thế lực của tầng lớp tăng lữ (những người hành nghề tôn giáo) đền thờ thần Amôn nhất là các tăng lữ ở kinh đô Tebơ mạnh hẳn lên. Dựa vào thế lực kinh tế và uy lực tôn giáo, tầng lớp tăng lữ trở nên có vai trò quan trọng về chính trị, có thể cử người của mình làm Tể tướng, biến vua thành bù nhìn. Vì vậy, đến đầu thế kỷ XIV TCN, vua Amenhôtép IV đã tiến hành một cuộc cải cách nhằm làm yếu thế lực của tầng lớp tăng lữ đền thờ thần Amôn, lịch sử gọi là cuộc cải cách tôn giáo Íchnatôn. Để thực hiện mục đích của mình, Amenhôtép IV chủ trương thờ một thần mặt trời khác gọi là thần Atôn, cấm thờ cúng tất cả các thần khác. Ông còn sai thợ đá đi xóa tên các thần khắc trên tường nhất là tên thần Amôn. Bản thân ông cũng không dùng hiệu Amenhôtép nữa vì có mang tên thần Amôn mà đổi thành Íchnatôn nghĩa là “Người hầu của thần Atôn”. Hơn nữa Nguyễn Gia Phu Khoa Lịch Sử Lịch sử thế giới Cổ Đại - 14 - Amenhôtép IV (Íchnatôn) còn bỏ kinh đô Tebơ, nơi thế lực tầng lớp tăng lữ thờ thần Amôn rất mạnh, xây dựng một kinh đô mới và đặt tên là Akhêtatôn có nghĩa là “Chân trời của thần Atôn”. Như vậy, về hình thức, cuộc cải cách của Amenhôtép IV là một cuộc cải cách tôn giáo, nhưng thực chất đó là một cuộc đấu tranh chính trị nhằm tăng cường quyền lực của vua và chính phủ trung ương. Những biện pháp cải cách của Amenhôtép IV chỉ được thực hiện trong thời gian trị vì của ông. Sau khi ông chết, các vua nối ngôi dần dần xóa bỏ các nội dung cải cách, thậm chí thành Akhêtatôn cũng bị phá hủy. Trong khi đó, vùng Xiri, Palextin thuộc Ai Cập đang bị người Hítít, tấn công. Cư dân ở đây liên minh với người Híttít để chống lại Ai Cập. Đến vương triều XX, chính quyền trung ương càng suy yếu, xu hướng chia cắt đất nước ngày càng gia tăng. Đến khoảng năm 1090 TCN, thời kỳ Tân vương quốc kết thúc. 5. Thời Hậu kỳ vương quốc. Từ vương triều XXI trở đi là thời Hậu kỳ vương quốc trong lịch sử Ai Cập. Từ đây Ai Cập luôn bị chia cát trầm trọng, do vậy đã thành nơi thống trị của các thế lực bên ngoài. Vào giữa thế kỷ X TCN, một thủ lĩnh quân đội đánh thuê Libi đã dành được ngôi Pharaông lập ra một vương triều ngoại tộc. Đến thế kỷ VIII TCN, người Nubi ở phía Nam đã tấn công Ai Cập lật đổ vương triều của người Libi và thành lập một vương triều ngoại tộc mới vào năm 726 TCN. Đó là vương triều XXV. - Năm 671 TCN, Ai Cập lại bị Aùtxiri thống trị. - Năm 654 TCN, một qúy tộc ở miền Bắc đã lãnh đạo nhân dân đánh đuổi được người Aùtxiri lập nên vương triều XXVI (654 – 525 TCN). - Năm 525 TCN, Ai Cập bị BaTư xâm lược và thống trị (525 – 332 TCN). - Năm 332 TCN, Ai Cập bị Alếchxăng Makêđônia chinh phục. Sau khi Alếchxăng chết, Ai Cập thuộc quyền thống trị của tướng Ptôlêmê và tiếp đó là vương triều Ptôlêmê cho đến năm 30 TCN thì bị nhập vào đế quốc LaMã. III. Tình hình kinh tế xã hội và bộ máy nhà nước. 1. Các ngành kinh tế a. Công cụ sản xuất: Nguyễn Gia Phu Khoa Lịch Sử Lịch sử thế giới Cổ Đại - 15 - Thời Cổ vương quốc chỉ mới biết dùng đồng đỏ. Thời Trung vương quốc đã dùng đồng pha thiếc nhưng tỉ lệ thiếc qúa cao nên chưa gọi là đồng thau, đồng thời đồng đỏ vẫn giữ vai trò chủ yếu. Đến thời Tân vương quốc, đồng thau mới được sử dụng rông rãi, về sau, sắt đã bắt đầu xuất hiện nhưng sắt còn rất hiếm nên được coi là một kim loại qúy. b. Nông nghiệp: Nông nghiệp là cơ sở của nền kinh tế của Ai Cập cổ đại được nhà nước rất quan tâm. - Từ thời Tảo vương quốc đã có lễ “xuống cày”. Trong lễ đó, vua đội mũ miện, cầm cuốc cuốc luống đất đầu tiên. Sau vua, có người cầm giỏ gieo hạt giống xuống luống đất vua vừa mới cuốc. - Thủy lợi có vai trò quan trọng đối với nền nông nghiệp của nước này, vì vậy nhà nước rất quan tâm đến việc xây dựng các công trình thủy lợi. Đến thời Tân vương quốc, việc tưới nước do quan Tể tướng quản lý. - Tuy công cụ còn thô sơ nhưng nhờ đất đai màu mỡ lại biết chú ý đến thủy lợi nên nền nông nghiệp của Ai Cập đã khá phát triển. Từ thời Cổ vương quốc, Ai Cập đã biết trồng nhiều loại cây như lúa mì, đại mạch, đậu, rau, ôliu v.v c. Thủ công nghiệp. Ai Cập có nhiều kim loại qúy như vàng, đồng, chì, kền và nhiều loại đá trong đó có nhiều loại đá qúy như mã não, bích ngọc v.v Đó là những nguyên liệu giúp cho các nghề thủ công như nghề luyện kim, nghề kim hoàn,nghề chế tác đá.v.v phát triển. Ngoài ra, từ sớm Ai Cập còn có các nghề khác như nghề làm đồ gốm, nghề dệt, nghề thuộc da, nghề làm đồ thủy tinh. Đến thời Tân vương quốc, người Ai Cập đã chế tạo được thủy tinh màu và đồ sứ. d. Thương nghiệp. - Từ thời Cổ vương quốc đã có trao đổi nhưng chỉ mới tiến hành dưới hình thức lấy vật đổi vật. Tuy vậy từ thời kỳ này đã có quan hệ trao đổi với nước Pun ở phía Nam và với Xiri ở phía Bắc. - Thời Trung và Tân vương quốc, thương nghiệp càng phát triển nhất là việc buôn bán với bên ngoài. Hàng hóa qúy được đưa về Ai Cập ngày càng nhiều. Thời kỳ này vàng và bạc được dùng làm vật môi giới trong việc trao đổi. Nguyễn Gia Phu Khoa Lịch Sử Lịch sử thế giới Cổ Đại - 16 - 2. Tình hình ruộng đất : Quyền sở hữu ruộng đất ở Ai Cập cổ đại trong các thời kỳ không hoàn tòan giống nhau. - Đầu thời cổ vương quốc, toàn bộ ruộng đất trong nước thuộc quyền sở hữu của nhà nước. Trên cơ sở đó, vua giữ lại một phần do mình trực tiếp quản lý, một phần ban cấp cho qúy tộc quan lại đền miếu, một phần giao cho các công xã nông thôn. Phần ruộng đất do vua và quan lại quản lý được tổ chức thành các nông trang. - Cuối thời Cổ vương quốc, một số công xã nông thôn tan rã. Ruộng tư bắt đầu xuất hiện. - Thời Trung và Tân vương quốc, công xã nông thôn càng tan rã nhiều, ruộng tư càng ngày càng phát triển. Tuy vậy, quyền sở hữu tối cao về ruộng đất vẫn thuộc về nhà nước tức là thuộc về vua. 3. Quan hệ giai cấp. Trong xã hội Ai Cập cổ đại có các giai cấp và tầng lớp sau đây: a. Giai cấp bóc lột: Giai cấp này gồm hai bộ phận chính là vua quan và tăng lữ. Tư liệu sản xuất chủ yếu của họ là ruộng đất mà nguồn ruộng đất chủ yếu là do nhà nước ban tặng. Để quản lý và canh tác ruộng đất của mình, các quan lại và các đền miếu tổ chức thành những nông trang rồi thuê nông dân nông trang sản xuất để thu hoạch toàn bộ hoặc giao đất cho nông dân nông trang cày cấy rồi thu địa tô. Ngoài ruộng đất, giai cấp này còn có rất nhiều nô lệ. Một bộ phận nô lệ cũng có tham gia sản xuất nhưng phần lớn nô lệ bị sử dụng vào việc hầu hạ. b. Giai cấp nông dân. Giai cấp nông dân là giai cấp đông đảo nhất và là giai cấp giữ vai trò quan trọng nhất trong đời sống kinh tế xã hội. Do quyền sở hữu và quyền sử dụng ruộng đất có nhiều loại khác nhau nên giai cấp nông dân ở Ai Cập cổ đại bao gồm ba loại: nông dân công xã, nông dân nông trang và nông dân tự canh. Cùng với sự phát triển của lịch sử, tỷ lệ giữa ba loại nông dân đó tuy có thay đổi nhưng nói chung nông dân công xã là thành phần đông đảo nhất. Nguyễn Gia Phu Khoa Lịch Sử Lịch sử thế giới Cổ Đại - 17 - Họ cày cấy ruộng đất của công xã chia cho nhưng họ là dân tự do và được gọi là “thần dân của Vua”. Nông dân tự canh là loại nông dân có một ít ruộng đất riêng. Loại này đã xuất hiện từ thời Cổ vương quốc. Về số lượng, loại này chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Nông dân nông trang là loại nông dân không có ruộng đất. Họ phải canh tác ruộng đất trong các nông trang của vua, quan, đền miếu. Nông dân công xã và nông dân tự canh có nghĩa vụ phải nộp thuế, đi phu và đi lính cho nhà nước, còn nông dân nông trang thì hoặc là làm việc rồi được nhận thù lao, hoặc là được giao cho một mảnh đất để canh tác rồi phải nộp địa tô. c. Giai cấp nô lệ. Giai cấp nô lệ ở Ai Cập cổ đại tương đối đông. Nguồn nô lệ chính là tù binh, những người bản xứ bị nô dịch và những người do các nước lệ thuộc cống nạp. Nô lệ thuộc quyền sở hữu của nhà nước, của vua, của qúy tộc quan lại, của đền miếu, của tăng lữ. Ngoài ra, một số binh lính, thợ thủ công, nông dân khá giả cũng có nô lệ. Nô lệ phần lớn bị sử dụng vào những công việc phi sản xuất như hầu hạ chủ, làm các công việc trong nhà, xây dựng các công trình kiến trúc v.v. Có một số nô lệ cũng bị sử dụng vào việc sản xuất nông nghiệp. Tuy vậy, nói chung vai trò của giai cấp nô lệ trong nền kinh tế của Ai Cập cổ đại rất có hạn. 4. Tầng lớp thợ thủ công: Tầng lớp thợ thủ công ở Ai Cập cổ đại chia làm hai loại: Loại thợ thủ công làm việc trong các nông trang của quan lại và đền miếu, và loại thợ thủ công tự do. Loại thợ thủ công làm việc trong các nông trang bị quản lý rất chặt chẽ nên quyền tự do bị hạn chế. Loại thợ thủ công tự do phần lớn sống ở thành thị. Họ làm các nghề như thợ giày, thợ mộc, thợ nề, thợ đá, thợ giặt, thợ cạo v.v . Nói chung họ phải làm việc rất vất vả nhưng đời sống rất khổ cực. Tuy nhiên trong đó có một số ít có cuộc sống khá giả. Đó là những thợ thủ công được làm việc cho nhà vua. Về tầng lớp buôn bán thì mãi đến thời Tân vương quốc mới xuất hiện, trong đó có một số chuyên bán các thứ như lương thực, bánh, rượu, thịt v.v do các đền miếu giao cho. Những người này đều bị lệ thuộc vào đền Nguyễn Gia Phu Khoa Lịch Sử Lịch sử thế giới Cổ Đại - 18 - miếu. Ngoài ra còn có một số người buôn bán phục vụ cho tư nhân. Nói chung tầng lớp buôn bán ở Ai Cập cổ đại chưa phát triển lắm. 5. Bộ máy nhà nước. Bộ máy nhà nước Ai Cập cổ đại được tổ chức theo chế độ quân chủ chuyên chế. Đứng đầu bộ máy nhà nước ấy là vua được gọi là Pharaông có nghĩa là “cung điện”. Pharaông là người có quyền lực vô cùng lớn, là người đứng đầu về chính trị và còn đứng đầu về tôn giáo. Pharaông Ai Cập còn được thần thánh hóa, ví dụ vua sáng lập vương triều V được nói là con của một nữ tu sỹ với thần Ra. Chính nhờ có uy quyền lớn như vậy nên nhiều Pharaông ở Ai Cập đã có thể xây cho mình những kim tự tháp nổi tiếng. Dưới vua là một bộ máy quan lại trung ương và địa phương mà người đứng đầu là Tể tướng. Tể tướng có quyền quản lý các công việc về chính trị, tài chính, kinh tế. Quan Tể tướng cũng là quan chánh án tối cao. Cấp hành chính địa phương dưới trung ương gọi là Châu. Viên quan đứng đầu các Châu gọi là châu trưởng. Chức quan này không những có quyền quản lý mọi công việc ở trong châu mà còn là người đứng đầu tôn giáo ở địa phương. Nguyễn Gia Phu Khoa Lịch Sử Lịch sử thế giới Cổ Đại - 19 - Bài 2. LƯỠNG HÀ CỔ ĐẠI I. Địa lý và cư dân. Lưỡng Hà là miền nằm giữa hai sông: sông Tigrơ ở phía Đông và sông Ơphơrát ở phía Tây. Cả hai sông này bắt nguồn từ miền rừng núi Acmêria chảy qua lãnh thổ nước Irắc ngày nay rồi đổ ra vịnh Ba Tư. Về mùa xuân, tuyết ở cao nguyên Acmêria tan làm nước hai sông Tigrơ và Ơphơrát dâng cao gây nên lũ lụt làm ngập cả một vùng rộng lớn. Chính nhờ nước lụt, đất đai ở đây không ngừng được bồi đắp và trở nên màu mỡ. Do lượng phù sa rất nhiều nên sau mấy nghìn năm bờ biển của vịnh Ba Tư phải lùi xa gần 200 km. Vì vậy, hai dòng sông Tigrơ và Ơphơrát vốn đổ ra biển bằng hai cửa sông khác nhau đã nhập lại thành một dòng trước khi ra biển. Về địa hình, Lưỡng Hà là một vùng mà khắp mọi phía không có núi non hiểm trở che chắn, vì vậy nơi này đã trở thành một địa bàn để nhiều tộc khác nhau đến thành lập quốc gia của mình . Cư dân xưa nhất ở Lưỡng Hà là người Xume. Đến thiên niên kỷ III TCN, người Aùc cát thuộc tộc Xêmít cũng đến định cư ở Lưỡng Hà. Cuối thiên kỷ III TCN một chi nhánh của người Xêmít là người Amôrít cũng tràn vào Lưỡng Hà. Trong qúa trình ấy, các tộc này đã đồng hóa với nhau. II. Các quốc gia ở Lưỡng Hà cổ đại Từ khi bắt đầu xuất hiện nhà nước vào đầu thiên kỷ III TCN đến cuối thiên kỷ I TCN, ở Lưỡng Hà đã tồn tại các quốc gia sau đây: 1. Những thành bang của người Xume. Vào khoảng đầu thiên kỷ III TCN, ở miền Nam Lưỡng Hà, nơi cứ trú của người Xume, do sự phát triển cảu lực lượng sản xuất, do sự phân hóa giàu nghèo, đã xuất hiện nhiều nhà nước nhỏ lấy một thành thị làm trung tâm gọi là thành bang. Người đứng đầu những thành bang ấy gọi là Patêxi (vua). Giữa các thành bang ấy thường diễn ra những cuộc đấu tranh để dành đất đai và nguồn nước. Đến giữa thiên kỷ III TCN, trong số các thành bang ở miền Nam Lưỡng Hà nổi bật nhất Lagát. Bằng nhiều cuộc chiến tranh liên tiếp, Lagát đã chinh phục được nhiều thành bang lân cận. Tuy vậy trong nội bộ Lagát, vì Patêxi chiếm đoạt tài sản của đền miếu và tăng cường áp bức bóc lột nhân dân nên đã diễn ra một cuộc đấu tranh do Urucaghina lãnh đạo. Sau đó, Urucaghina được lên làm Patêxi. Nguyễn Gia Phu Khoa Lịch Sử Lịch sử thế giới Cổ Đại - 20 - Urucaghina đã tiến hành một cuộc cải cách nhằm giải quyết những mâu thuẫn trong xã hội, do đó Lagát càng hùng mạnh. Không lâu sau đó, Lagát bị thành bang Umma ở phía Bắc đánh bại. Tiếp đó Umma còn chinh phục được nhiều thành bang khác và thống nhất toàn bộ miền Nam Lưỡng Hà. 2. Aùccát thống nhất Lưỡng Hà . Thành bang Aùccát do người Xêmít thành lập ở phía bắc Xume. Đến thời vua Xácgông (2369 – 2314 TCN), Aùccát trở htành một quốc gia hùnh mạnh. Xácgông đã thi hành nhiều chính sách để phát triển kinh tế và lực lượng quân sự, Sau đó tấn công các thành bang ở phía Nam, chinh phục được vùng Xume và lần đầu tiên thống nhất được toàn bộ Lưỡng Hà. Tiếp đó Xácgông còn chiếm được các vùng xung quanh, lập thành một quốc gia lớn mạnh, Xácgông tự xưng là “vua của bốn phương” . Đến thời kỳ thốnh trị của Naramxin (2290 – 2254 TCN) Aùccát lại càng hùng mạnh. Naramxin tiếp tục mở rộng lãnh thổ ra xung quanh và ngạo nghễ tự xưng là “Naramxin thần thánh, thần hùng cường của Aùccát”. Tuy vậy sau khi Naramxin chết, Aùccát bị suy yếu, toàn bộ Lưỡng Hà bị người Guti chinh phục và thống trị trong một thời gian khá dài. 3. Vương triều III của Ua. (2132 – 2024 TCN) Sau khi người Guti bị đánh đuổi, quyền thống trị ở Lưỡng Hà chuyển sang tay vương triều III của Ua, một thành bang cổ xưa của Xume. Phạm vi thống trị của vương triều này cũng rất rộng. Ua đã ban bố một bộ luật mà ngày nay đã phát hiện được một số đoạn. Đó là bộ luật cổ nhất trong lịch sử thấ giới. Như vậy, dưới thời vương triều III, Ua đã trở thành một nước lớn mạnh, nhưng đến cuối thế kỷ XXI TCN, Ua bị suy yếu và bị liên quân của Eâlam (một bộ tộc ở phía đông) và Mari (một thành bang ở phía bắc) đánh bại. 4. Cổ Babilon. Babilon là một thành phố do người Amôrít (một chi nhánh của người Xêmít) thành lập ở miền trung Lưỡng Hà. Trong thời kỳ đầu, Babilon còn tương đối yếu,nhưng đến nửa sau thế kỷ XVIII TCN, dưới thời vua Hammurabi (1792 – 1750 TCN), Babilon trở thành một quốc gia hùng mạnh nổi tiếng trong lịch sử Lưỡng Hà cổ đại. Hammurabi là một nhà chính trị rất khôn khéo, đã lần lượt đánh bại các thành bang xung quanh, thống nhất được hầu hết vùng Lưỡng Hà. Trên Nguyễn Gia Phu Khoa Lịch Sử Lịch sử thế giới Cổ Đại - 21 - cơ sở đó Hammurabi đã xây dựng bộ máy nhà nước chuyên chế tập quyền trung ương . Đặc biệt Hammurabi đã ban hành bộ luật gọi là bộ luật Hammurabi. Bộ luật này khắc trên một cột đá, được một nhà khảo cổ học người Pháp phát hiện năm 1901. Đây là bộ luật cổ được giữ lại tương đối nguyên vẹn. Luật Hammurabi gồm ba phần: Mở đầu, nội dung và kết luận. Phần mở đầu nói về sức mạnh thần thánh của Hammurabi và mục đích ban bố bộ luật. Phần nội dung bao gồm 282 điều luật về dân sự và hình sự, trong đó phần lớn đầ cập đến các mặt kinh tế xã hội như ruộng đất, nô lệ, địa tô, vay nợ, gia đình v.v Phần kết luận nhắc lại công đức của Hammurabi và yêu cầu đời sau phải nghiêm chỉnh thi hành bộ luật. (1) 5. Tân Babilon. Từ giữa thế kỷ VII TCN, Aùtxêri bắt đầu suy yếu. Nhân tình hình ấy, năm 626 TCN, một tướng lĩnh người Canđê, một chi nhánh của người Xêmít tên là Nabôpôlaxa, người đã từng phục vụ chính quyền Aùtxiri và hình như được cử làm Tổng đốc của Aùtxiri ở miền Nam Babilon đã tuyên bố Babilon độc lập. Để phân biệt với Cổ Babilon, quốc gia này đã được gọi là Tân Babilon. Ngay sau đó, Tân Babilon liên minh với nước Mêđi ở phía đông bắc cùng tấn công Aùtxiri. Năm 605 TCN, Aùtxiri bị diệt vong. Đất đai của Aùtxiri bị chia làm hai phần: Nửa phía bắc thuộc về Mêđi, nửa phía Nam thuộc về Tân Babilon. Để tăng thêm tình hữu nghị giữa hai nước Nabôpôlaxa đã hỏi công chúa Mêđi cho con trai của mình là Nabusôđônôxo. Năm 604 TCN, Nabôpôlaxa chết. Nabusôđônôxo (604-562 TCN) lên nối ngôi. Đây là thời kỳ thịnh vượng nhất của Tân Babilon. Do một số nơi như Phênixi, Do Thái v.v vốn nằm trong bản đồ Aùtxiri nhưng nay dựa vào Aicập không chịu khuất phục Tân Babilon nên Nabusôđônôxo đã mở nhiều cuộc tấn công và đã chiếm được những nước này. Ở trong nước, Nabusôđônôxođã cho xây dựng nhiều công trình kiến trúc nguy nga như thành Babilon, đến miếu, tháp, đặc biệt là vườn hoa trên không. Cũng như Kim tự tháp của Ai Cập, vườn hoa trên không của Babilon được coi là một trong 7 kỳ quan của thế giới cổ đại. 1 Xem luật Hammurabi ở phần phụ lục sách Lịch sử thế giới cổ đại. Nguyễn Gia Phu Khoa Lịch Sử Lịch sử thế giới Cổ Đại - 22 - Năm 562 TCN, Nabusôđônôxo chết, từ đó tình hình nội bộ Tân Babilon không được ổn định. Năm 538 TCN, Tân Babilon bị Batư tiêu diệt. 6. Ba Tư. Trong khi Tân Babilon suy yếu, ở Iran bắt đầu xuất hiện nước Ba Tư. Năm 550 TCN, Ba Tư đánh bại Mêđi, Babilon cũng trở thành mục tiêu chinh phục của Ba Tư. Năm 538 TCN, quân Ba Tư tấn công và chiếm được thành Babilon. Babilon trở thành một bộ phận của đế quốc Ba Tư. Năm 328 TCN, đế quốc Ba Tư bị quân Alếchxăng Makêđônia tiêu diệt. Từ đó Babilon và cả Tây Á bị nhập vào đế quốc Makêđônia. Sau khi Alếcxăng chết, đế quốc Makêđônia bị phân chia, vùng Lưỡng Hà nằm trong bản đồ của vương triều Xêlơcút ở Tây Á. Nguyễn Gia Phu Khoa Lịch Sử Lịch sử thế giới Cổ Đại - 23 - Bài 3. ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI I. Địa lý và cư dân. Aán Độ là một bán đảo ở Nam Á, từ Đông Bắc đến Tây Bắc có núi chắn ngang, trong đó có dãy Himalaya nổi tiếng. Aán Độ chia làm hai miền Nam Bắc lấy dãy núi Vin-đi-a làm ranh giới. Miền bắc Aán Độ có hai con sông lớn là sông Aán (Indus) và sông Hằng (Gange). Sông Aán chia làm 5 nhánh, nên vùng đồng bằng ở 5 nhánh sông ấy được gọi là vùng Pungiáp (nghĩa là vùng Năm sông). Tên nước Aán Độ là gọi theo tên dòng sông này. Sông Hằng ở phía đông được coi là một dòng sông thiêng. Từ xưa nhân dân Aán Độ thường đến khúc sông ở thành phố Varanadi (Bênarét) để cử hành lễ tắm mang tính chất tôn giáo. Cả hai dòng sông nàybồi đắp thành hai đồng bằng màu mỡ ở miền bắc Aán Độ, vì vậy nơi đây đã trở thành cái nôi của nền văn minh của đất nước này. Cư dân Aán Độ gồm hai thành phần chính: người Đraviđa chủ yếu cư trú ở miền Nam và người Arya chủ yếu cư trú ở miền bắc. II. Văn hóa Haráppa. Tài liệu lịch sử giúp chúng ta hiểu biết về thời kỳ này không phải là tài liệu thành văn mà là tài liệu khảo cổ học. Vì vậy trước năm 1921, giai đoạn lịch sử này chưa được biết đến. Năm 1921 và 1922, các nhà khảo cổ học Aán Độ đã tìm thấy ở Haráppa và Môhengiô Đarô thuộc lưu vực sông Aán hai thành phố cùng rất nhiều hiện vật bị chôn vùi dưới đất. Những hiện vật ấy là di tích của một thời kỳ lịch sử được gọi là văn hóa Haráppa hoặc nền văn minh lưu vực sông Aán. 1. Các hiện vật đã tìm thấy. Haráppa và Môhengiô là hai thành phố rất lớn xây bằng gạch. Xung quanh thành phố có thành và hào bao bọc. Trong thành phố có các đường phố ngang dọc thẳng tắp. Mỗi thành phố có hàng trăm nhà và cửa hiệu lớn nhỏ, trong đó phần nhiều là nhà hai tầng. Trong nhà thường có đầy đủ tiện nghi như bếp, phòng tắm, ống dẫn nước Ở các di chỉ này, còn tìm thấy nhiều công cụ sản xuất, vũ khí, đồ dùng trong đời sống hàng ngày, đồ trang sức, đồ tế lễ và hơn 3000 con dấu có khắc chữ đồ họa. Các dụng cụ đó, có thứ bằng đồng hoặc đồng thau, có thứ bằng đá. Nguyễn Gia Phu Khoa Lịch Sử Lịch sử thế giới Cổ Đại - 24 - 2. Tình hình xã hội. Những hiện vật phát hiện được cho biết rằng trong xã hội thời kỳ đó đã có sự phân hóa giàu nghèo rất rõ rệt. Việc phát hiện ra chữ viết, hơn nữa trên một số con dấu có ghi những chữ như “người cầm quyền” (Sasa), “người cai trị” (Pata), “vua của những ông vua” (Reja – reja) v.v đã nói lên rằng xã hội thời văn hóa Haráppa là xã hội có nhà nước. Nền văn minh lưu vực sông Aán tồn tại từ khoảng đầu thiên kỷ III đến nửa đầu thiên kỷ II TCN thì bị hủy diệt. Nguyên nhân của sự hủy diệt đó là nạn lụt do nước sông Aán dâng lên. Cư dân ở đây phải di cư sang phía đông bỏ lại các thành phố của họ bị vùi dần xuống lòng đất. III. THỜI KỲ VÊ ĐA. Từ giữa thiên kỷ II đến giữa thiên kỷ I TCN, Lịch sử Aán Độ được phản ánh trong các tác phẩm văn học gọi là Vêđa, vì vậy thời kỳ này được gọi là thời Vê đa. Vêđa vốn nghĩa là “hiểu biết”. Vêđa có 4 tập là Rích Vêđa, Xama Vêđa, Atácva Vêđa và Yagiua Vêđa, trong đó Rích Vêđa là xưa nhất và quan trọng nhất. Rích Vêđa gồm 1028 bài ca được sáng tác vào khoảng giữa thiên kỷ II đến cuối thiên kỷ II TCN, còn ba tập Vêđa khác thì được sáng tác vào khoảng đầu thiên kỷ I đến giữa thiên kỷ I TCN, vì vậy thời kỳ Vêđa có thể chia làm hai thời kỳ nhỏ là: - Thời kỳ Rích Vêđa (khoảng năm 1500 – 1000 TCN). - Thời kỳ Hậu Vêđa (khoảng năm 1000 – 600 TCN). Chủ nhân của thời kỳ Vêđa là người Arya (nghĩa là “người cao qúy” ) mới từ trung Á di cư vào Aán Độ. Địa bàn sinh sống của họ trong thời kỳ này chủ yếu là vùng lưu vự sông Hằng. 1. Tình hình kinh tế. Trong thời Rích Vêđa, người Arya đang sống trong giai đoạn cuối của xã hội nguyên thủy. Ngành kinh tế quan trọnh nhất là chăn nuôi. Gia súc rất được coi trọng nhất là bò. Bởi vậy, trong ngôn ngữ lúc bấy giờ “tù trưởng bộ lạc” có nghĩa là kẻ chiếm hữu bò cái”, “chiến sĩ” có nghĩa là “người chiến đấu vì bò cái”. Dần dần, do học tập được những kinh nghiệm sản xuất của dân bản địa, người Arya đã chuyển sang đời sống định cư lấy nông nghiệp làm nghề chính. 2. Sự ra đời của nhà nước. Do kinh tế phát triển, sự phân hóa giai cấp cũng diễn ra rõ rệt, đến khoảng cuối thiên kỷ II TCN, thủ lĩnh quân sự dần dần biến thành người có Nguyễn Gia Phu Khoa Lịch Sử Lịch sử thế giới Cổ Đại - 25 - nhiều quyền uy và chức vụ ấy trở thành cha truyền con nối. Họ đã biến thành những ông vua. Nhà nước đã ra đời. 3. Chế độ Vácna. (đẳng cấp) Trong thời kỳ lịch sử này ở Aán Độ đã xuất hiện một chế độ đẳng cấp có ảnh hưởng rất quan trọng và lâu dài trong xã hội nước này, đó là chế độ Vácna. Chữ Vácna trong tiếng Xăng xkrít (một loại cổ ngữ của Aán Độ) có nghĩa là “màu sắc” (chỉ màu da) nhưng thực ra chế độ Vácna là chế độ chia cư dân thành 4 đẳng cấp có quyền lợi, nghĩa vụ và địa vị xã hội khác nhau. Bốn đẳng cấp đó là Braman (Bàlamôn), Ksatơria, Vaisya, Suđra. Đẳng cấp Bàlamôn gồm những người làm nghề tôn giáo. Đẳng cấp Ksatơrya gồm các chiến sĩ. Đẳng cấp Vaisya gồm những người chăn nuôi, làm ruộng, buôn bán Đẳng cấp Suđra gồm thợ thủ công, đầy tớ. Họ vốn là con cháu của những bộ lạc bị bại trận. Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của chế độ Vácna. - Theo truyền thuyết: các đẳng cấp Braman, Ksatơrya, Vaisya và Suđra được thần Brama tạo ra theo thứ tự từ miệng, tay, đùi và bàn chân của thần. - Sự thực, sự xuất hiện Vácna là do sự phân hóa giai cấp, sự phân công về nghề nghiệp và sự phân biệt về bộ tộc. Sự khác nhau giữa các đẳng cấp: Giữa bốn đẳng cấp ấy có sự khác nhau về địa vị xã hội mà chủ yếu là về tôn giáo, hôn nhân và quyền lợi trước pháp luật. Về tôn giáo, chỉ có ba đẳng cấp trên mới được cúng thần và đọc kinh Vêđa, trong đó chỉ có Bàlamôn mới được giảng kinh Vêđa và phụ trách việc cúng lễ. Do vậy, ba đẳng cấp trên được coi là sinh hai lần, còn Suđra không được tham dự các nghi lễ tôn giáo nên chỉ được coi là sinh một lần. Về hôn nhân, chế độ Vácna quy định chỉ nên kết hôn với người cùng đẳng cấp. Tuy nhiên, nếu cần thiết thì đàn ông ở các đẳng cấp trên có thể lấy vợ ở các đẳng cấp dưới, nhưng phụ nữ các đẳng cấp dưới không được kết hôn với đàn ông các đẳng cấp dưới. Về quyền lợi trước pháp luật , Nếu cùng phạm tội như nhau thì các đẳng cấp trên được xét xử nhẹ hơn các đẳng cấp dưới; nếu là nạn nhân thì đẳng cấp càng cao thì được bồi thường càng nhiều. Nguyễn Gia Phu Khoa Lịch Sử Lịch sử thế giới Cổ Đại - 26 - Trong bốn đẳng cấp ấy, đẳng cấp Bàlamôn được quan niệm là ưu tú nhất, thân thể họ được coi là bất khả xâm phạm. Ngược lại, Suđra là đẳng cấp thấp kém nhất. Suđra không những không được dự việc tế lễ mà thậm chí họ cũng không được bê thi thể của Bàlamôn đặt lên giàn lửa khi làm lể hỏa táng. Dưới bốn đẳng cấp đó còn có những nhười tiện dân gọi là Paria. Họ bị coi là hạng người đê tiện, ô uế, đáng ghê tởm. Vì vậy họ phải sống cách biệt với xã hội. Thân phận của những người trong các đẳng cấp ấy cứ cha truyền con nối và chế độ Vacùna tồn tại lâu dài trong lịch sử Aán Độ. 4. Đạo Bàlamôn. Dầu thời Vê đa, cư dân Aán Độ thờ rất nhiều thần: đá, cây, cư dân, các động vật, người chết, sông, núi Đến những thế kỷ đầu thiên kỷ I TCN, các quan niệm tôn giáo ấy được gọi chung là đạo Bàlamôn, đồng thời một hệ thống giáo lý tương đối hoàn chỉnh cũng được hình thành. Đối tượng thờ cúng cao nhất của đạo Bàlamôn là thần Brama. Đó là linh hồn vũ trụ, là đấng Hoàn hảo sáng tạo ra thế giới và muôn loài, là vị thần cao nhất, là chúa tể của các thần. Tuy nhiên thần Brama có phần trừu tượng đối với nhân dân, nên có nơi người ta thờ thần Visnu, thần nhân ái làm cho ruộng đồng tươi tốt như là vị thần cao nhất; Có nơi lại thờ thần Siva, thần ác, thần phá hoại mọi lực lượng tự nhiên là vị thần cao nhất. Ngoài ra đạo Bàlamôn còn thờ nhiều loại thần động vật như voi, khỉ, và nhất là bò. Về sau, để thống nhất đối tượng thờ cúng của đạo Bàlamôn, người ta quan niệm thần Brama, thần Visnu và thần Siva là một bộ ba thể hiện một qúa trình: sáng tạo, bảo tồn và hủy diệt. Về mặt xã hội, đạo Bàlamôn là công cụ đắc lực để bảo vệ sự phân chia đẳng cấp. Cũng chính vì vậy, đến giữa thiên kỷ I TCN, đạo Bàlamôn bị suy thoái và nhường chỗ cho một tôn giáo mới là đạo Phật. IV. ẤN ĐỘ TỪ THẾ KỶ VI TCN ĐẾN THẾ KỶ III CN. 1. Tình hình chính trị. a. Các quốc gia ở miền Bắc Aán Độ và sự xâm lược của Alếchxăng Makêđônia. Bắt đầu từ thế kỷ VI-TCN, Aán Độ mới có các tác phẩm lịch sử ghi chép về tình hình chính trị của đất nước mình. Lúc bấy giờ ở miền Bắc Aán Độ có 16 nước, trong đó mạnh nhất là nước Magađa. Nguyễn Gia Phu Khoa Lịch Sử Lịch sử thế giới Cổ Đại - 27 - Nước Magađa ở hạ lưu sông Hằng. Đây là nơi đất đai màu mỡ thích hợp với việc phát triển nông nghiệp, đồng thời là nơi có nhiều thuận lợi trong việc buôn bán bằng đường biển, do vậy Magađa đã lớn mạnh nhanh chóng. Trên cơ sở ấy, Magađa không ngừng chinh phục các nước khác, mở rộng phạm vi thống trị của mình đến tận miền Đông Bắc và miền Trung Aán Độ. Cũng thời gian ấy, ở miền Tây Bắc Aán Độ cũng chia thành nhiều nước nhỏ, trong đó chỉ có nước Po là tương đối lớn. Lúc bấy giờ, ở Tây Á có nước Ba Tư hùng mạnh một thời, nhưng đến năm 328 TCN, Ba Tư bị Makêđônia tiêu diệt. Nhân đà thắng lợi ấy, năm 327 TCN, quân Makêđônia tấn công vào miền Tây Bắc của Aán Độ. Quân đội của nước Po đã chiến đấu rất dũng cảm nhung cuối cùng bị thất bại. Alếchxăng định tiến sang phía đông tấn công nước Magađa nhưng quân sĩ không ủng hộ kế hoạch đó vì họ đã qúa mệt mỏi sau một cuộc trường chinh nhiều năm. Alếchxăng phải ra lệnh rút quân chỉ để lại một số quân chiếm đóng hai cứ điểm Buxêphan và Nikêa mà thôi. Những vùng bị Alếchxăng chinh phục ở Aán Độ vẫn được giữ nguyên chính quyền cũ nhưng phải lệ thuộc vào những kẻ đứng đầu hai cứ đểm đó. b. Vương triều Môrya. (321 – 187 TCN) Ngay sau khi quân Alếchxăng rút lui, ở Aán Độâ đã dấy lên phong trào đấu tranh giải phóng chống lại sự chiếm đóng của quân Makêđônia. Thủ lĩnh của phong trào này là Sanđragúpta, biệt hiệu là Môrya (nghĩa là chim công). Quân chiếm đóng Makêđônia bị đuổi khỏi Aán Độ, Sanđragúpta làm chủ được cả vùng Pungiáp. Tiếp đó, ông tiến quân về phía đông giành được ngôi vua ở Magađa, lập nên một triều đại mới gọi là Vương triều Môrya, Đó là triều đại huy hoàng nhất trong lịch sử Aán Độ cổ đại. Theo truyền thuyết đến khoảng năm 300TCN, Sanđragúpta theo đạo Giaina và sau đó nhịn ăn tự tử theo tập quán của tôn giáo này. Đến thời cháu của Sanđragúpta là Axôca (273 –236 TCN), nước Magađa đạt đến giai đoạïn cường thịnh nhất. Axôta là ông vua nổi tiếng nhất trong lịch sử Aán Độ cổ đại. Axôca không ngừng tấn công các nước khác, do đó cương giới Magađa càng được mở rộng. Các mặt kinh tế, văn hoá của Magađa thời kỳ này cũng phát triển rõ rệt. Ở kinh đô Pataliputơra và một số thành phố khác đã xây dựng nhiều cung điện, đền chùa, nhà cửa, bệnh viện, phòng phát thuốc v.v Đạo Phật ra đời từ khoảng thế kỷ VI TCN đến thời kỳ này được chấn chỉnh và trở thành quốc giáo. Như vậy, thời Axôca là thời kỳ ổn định, hùng mạnh của vương triều Môrya, nhưng sau khi ông chết, vương triều này suy sụp nhanh chóng và nước Magađa thống nhất dần dần tan rã. Nguyễn Gia Phu Khoa Lịch Sử Lịch sử thế giới Cổ Đại - 28 - c. Aán Độ từ thế kỷ II TCN đến thế kỷ III CN. Năm 187 TCN, vương triều Môrya bị một viên tướng của mình lật đổ. Từ đó nước Magađa suy yếu nhanh chóng và đến năm 28 TCN thì diệt vong. Đến thế kỷ I, người Cusan (cùng một huyết thống với người Tuyếc) từ Trung Á tràn sang chiếm được miền Tây Bắc Aán Độ lập thành một nước tương đối lớn. Vua nước Cusan lúc bấy giờ là Canísca (78 – 123) cũng là một người rất tôn sùng đạo Phật nên dưới thời thống trị của ông, Phật giáo rất hưng thịnh. Theo truyền thuyết, đến năm 123, Canisca bị nhân dân khởi nghĩa bóp chết. Từ đó, nước Cusan ngày càng suy yếu, lãnh thổ chỉ còn lại vùng Pungiáp và tồn tại đến thế kỷ V thì diệt vong. 2. Giai cấp nô lệ và công xã nông thôn. a. Giai cấp nô lệ. Vấn đề nô lệ ở Aán Độ, từ thời cổ đại đã có hai ý kiến: Mêgaxten, sứ thần của Xêlơcút thường trú ở cung đình vương triều Môrya khẳng định rằng ở Aán Độ không có nô lệ. Ông nói: “Ở Aán Độ có một điểm đáng chú ý nhất là tất cả mọi người Aán Độ đều là người tự do, không có một người Aán Độ nào là nô lệ”. Sở dĩ Magaxten có ý kiến như vậy vì ông là một người Hy Lạp, do đó ông đã dùng tiêu chuẩn của người nô lệ ở Hy Lạp để xem xét tình hình nô lệ ở Ấn Độ. - Cautalia, tác giả sách “Bàn về việc chính trị” (Arthasastra) cho rằng ở Aán Độ có đến 15 loại đaxa, mà đaxa có nghĩa là tôi tớ, nô lệ. - Sự thực, không phải ở Aán Độ cổ đại không có nô lệ, đồng thời cũng không phải có nhiều loại nô lệ như Cautalia đã nói. Nguồn gốc nô lệ ở Aán Độ cũng là tù binh, người phá sản, người phạm tội Thân phận của nô lệ cũng rất thấp kém, họ bị coi là tài sản của chủ và bị gọi là “tài sản hai chân” để phân biệt với gia súc được gọi là “tài sản bốn chân”. Do vậy nô lệ cũng bị đem bán, cầm, biếu, trao đổi, làm giải thưởng trong các cuộc thi đấu v.v Theo tác phẩm “Bàn về việc chính trị”, giá một nô lệ so với ngựa đắt hơn ¼ so với trâu hoặc bò cái đắt hơn một lần rưỡi, so với dê thì bằng 20 lần. Đối với những người nô lệ mà chủ cho là phạm tội thì chủ có quyền trừng phạt mà hình thức thông thường nhất là đánh đập, xiềng xích, đóng dấu nung đỏ. Nếu chủ giết chết nô lệ cũng không phải là một tội lỗi. Nguyễn Gia Phu Khoa Lịch Sử Lịch sử thế giới Cổ Đại - 29 - Tuy vậy, phần đông nô lệ ở Aán Độ cổ đại là người đồng tộc, hơn nữa họ lại xuất thân từ những đẳng cấp khác nhau, nên khi đối xử với nô lệ, chủ không thể không suy nghĩ đến những vấn đề ấy. Do đặc điểm đó, một số nô lệ ở Aán Độ có gia đình riêng, có tài sản riêng và có quyền truyền tài sản lại cho con cháu. Tóm lại, quan hệ nô lệ ở Aán Độ cổ đại không phát triển lắm. Nô lệ giữ vai trò rất phụ trong đời sống kinh tế của xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ. b. Công xã nông thôn. Trong số các nước Phương Đông, Aán Độ là nơi công xã nông thôn tồn vững chắc và lâu dài nhất. Cơ sở của sự tồn tại vững chắc của công xã nông thôn gồm hai mặt chủ yếu: - Ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước. - Nền kinh tế tự cấp tự túc (cũng gọi là kinh tế tự nhiên), trong đó chủ yếu là sự kết hợp chặt chẽ giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp. Trên cơ sở toàn bộ ruộng đất thuộc về nhà nước, ở các địa phương ruộng đất được giao cho các làng quản lý. Như vậy, các làng có quyền chiếm hữu tập thể ruộng đất của làng. Ngoài phần đất đai như bãi cỏ, rừng, ao hồ v.v mọi người trong làng được sử dụng chung, đất canh tác được định kỳ (thường là ba năm) chia cho các hộ nông dân cày cấy. Một đặc điểm khác rất nổi bật làm cho công xã nông thôn tồn tại vững chắc là sự tự cấp tự túc về kinh tế. Sự tự cấp tự túc ấy biểu hiện ở hai mặt: + Trong từng gia đình, có sự kết hợp chặt chẽ giữa nghề nông và nghề dệt vải. Do vậy hai nhu cầu cơ bản của người nông dân là ăn và mặc đều tự túc được. + Trong công xã có một số thợ thủ công như thợ rèn, thợ mộc, thợ gốm v.vchuyên sản xuất các sản phẩm thuộc nghề của mình để thõa mản các nhu cầu của mọi thành viên trong công xã. Do vậy, công xã hầu như hoàn toàn đóng kín, sự trao đổi hàng hoá giữa công xã này với công xã khác và giữa nông thôn với thành thị không đáng kể, có chăng chỉ là một số thứ mà công xã không thể sản xuất được như muối, sắt v.v mà thôi. Về mặt hành chính, đứng đầu mỗi công xã là một thôn trưởng. Dưới thôn trưởng là một số người chức trách giữ những công việc khác nhau như quản lý việc sản xuất nông nghiệp, trông nom các công trình thủy lợi, phụ trách việc tuần tra canh gác, dạy con trẻ, xem thiên văn v.v Nguyễn Gia Phu Khoa Lịch Sử Lịch sử thế giới Cổ Đại - 30 - Nông dân sống trong công xã là những người nông dân tự do. Tuy vậy, cày cấy ruộng đất công, nông dân công xã phải nộp thuế cho nhà nước. Mức thuế dao động từ 1/12 đến 1/6 thu hoạch. Ngoài ra nông dân công xã còn phải làm các tạp dịnh như đắp đê, làm đường, đào kênh v.v Sự tồn tại lâu dài và vững chắc của công xã nông thôn đã bảo đảm cho nông dân Aán Độ ai cũng có ruộng đất để canh tác, do đó đã hạn chế sự phá sản của nông dân, hạn chế sự phát triển của quan hệ nô lệ. Sự tồn tại của công xã nông thôn còn làm cho nông dân sống gắn bó với nhau, tối lửa tắt đèn có nhau, tình làng nghĩa xóm đậm đà. Nhưng mặt khác, công xã nông thôn cũng có nhiều hạn chế; - Nền kinh tế tự cấp tự túc của công xã nông thôn đã làm cho kinh tế hàng hóa chậm phát triển, hệ thống đường giao thông hầu như không cần thiết. Nhu vậy sự tồn tại của công xã nông thôn đã kìm hãm sự phát triển nhanh chóng của xã hội. - Cuộc sống biệt lập của các công xã làm cho nông dân không biết gì hơn ngoài xóm làng nhỏ bé của mình, do đó họ thờ ơ với tình hình chính trị của đất nước. - Do sự hiểu biết hạn chế ở trong các công xã, những tập tục cổ hủ, những thói mê tín dị đoan càng có điều kiện duy trì và nảy nở. Bàn về những hạn chế của công xã nông thôn ở Aán Độ, Mác Viết: “ Chúng ta cũng không được quên rằng những công xã nông thôn thơ mộng ấy, dù cho chúng có vẻ vô hại như thế nào đi chăng nữa, bao giờ cũng vẫn là cơ sở bền vững của chế độ chuyên chế phương Đông, rằng những công xã ấy đã hạn chế lý trí của con người trong những khuôn khổ chật hẹp nhất làm cho nó trở thành một công cụ ngoan ngoãn của mê tín, trói buộc nó bằng những xiềng xích nô lệ của cái quy tắc cổ truyền, tước đoạt nó mọi sự vĩ đại, mọi tính chủ động lịch sử. Chúng ta không được quên lòng ích kỷ của những con người man rợ, họ đã tập trung mọi lợi ích của mình trên một mảnh đất nhỏ bé đáng thương, bình thản nhìn những đế quốc lớn sụp đổ, nhìn những hành động tàn bạo không thể tưởng tượng được xảy ra, nhìn dân cư của những thành phố lớn bị tàn sát, - họ đã bình thản nhìn tất cả những cái đó mà chẳng hề suy nghĩ gì hơn là nhìn những hiện tượng tự nhiên, và bản thân họ đã trở thành miếng mồi yếu đuối của bất kỳ một kẻ đi xâm chiếm nào khi kẻ ấy đoái nhìn đến họ . . . . . Chúng ta không được quên rằng những công xã nhỏ bé ấy mang dấu ấn của những sự phân biệt đẳng cấp và của chế độ nô lệ, rằng những công xã ấy làm cho con người phải phục tùng những hoàn cảnh bên ngoài, chứ Nguyễn Gia Phu Khoa Lịch Sử Lịch sử thế giới Cổ Đại - 31 - không nâng con người lên địa vị làm chủ những hoàn cảnh ấy, rằng những công xã ấy đã biến trạng thái tự động phát triển của xã hội thành một số phận bất di bất dịch do thiên nhiên quyết định trước, và do đó, đã tạo ra sự sùng bái thiên nhiên một cách thô lỗ, mà sự thoái hóa thể hiện đặc biệt ở chỗ con người, kẻ làm chủ thiên nhiên, lại phải thành kính qùy gối trước con khỉ Hanuman và trước con bò Sápbala”. (1) Chế độ công xã nông thôn này tồn tại suốt thời cổ trung đại ở Aán Độ, về sau đến thời thống trị của Anh mới bị nền kinh tế hàng hóa phá vỡ. 3. Sự ra đời và phát triển của đạo Phật. a. Truyền thuyết về Phật Thích Ca. Người sáng lập đạo Phật là Xitđácta Gôtama (siddharta Gautama), thái tử của nước Capilavastu ở chân núi dãy Hymalaya, miền đất bao gồm một phần miền Nam nước Nêpan và một phần ở Đông Bắc Aán Độ. Năm 29 tuổi, vị thái tử này bắt đầu rời khỏi cung điện của vua cha để tìm con đường cứu khổ cho chúng sinh. Đến năm 35 tuổi, ông đắc đạo, từ đó được gọi là Bútđa (Buddha) nghĩa là người đã giác ngộ, và được tín đồ gọi là Xakyamuni (sakyamuni) nghĩa là “Thánh nhân của họ Xakya”, ta quen gọi là Phật Thích Ca Mâu Ni. Về niên đại của Phật, có người nói Phật sinh năm 563 TCN và mất năm 483 TCN, có người lại cho rằng Phật sinh năm 624 TCN và mất năm 544 TCN. Ngày nay, tín đồ đạo Phật lấy năm 544 TCN làm năm mở đầu kỳ nguyên Phật giáo. b. Học thuyết của Phật giáo. Mục đích của Phật giáo là lý giải và nêu ra cái chân lý về nỗi khổ đau và cách cứu vớt thoát khỏi nỗi đau khổ. Vì vậy nội dung chủ yếu của đạo Phật được thể hiện trong thuyết tứ đế (còn gọi là tứ thánh đế) có nghĩa là “bốn chân lý”. Tứ đế gồm: khổ đế, tập đế, diệt đế, và đạo đế. - Khổ đế nói về các nỗi khổ của con người. - Tập đế nói về nguyên nhân của các nỗi khổ ấy. - Diệt đế nói về sự dập tắt các nỗi khổ. - Đạo đế chỉ ra con đường để thực hiện việc diệt khổ. 1 C. Mác và Ph. Aêng-ghen. Toàn tập. Tập 9. NXB Chính Trị Quốc Gia-Sự thật. Hà Nội. 1993. Trang 178 – 179. Nguyễn Gia Phu Khoa Lịch Sử Lịch sử thế giới Cổ Đại - 32 - Đạo Phật ban đầu chỉ nhấn mạnh sự tu hành của mỗi người chứ không thừa nhận có một đấng tối cao và các vị thần bảo hộ, do đó không cần nghi thức cúng bái. Về mặt xã hội, đạo Phật phủ nhận chế độ Vácna, vì đạo Phật cho rằng nguồn gốc xuất thân của mỗi người không phải là điều kiện để được cứu vớt. c. Sự phát triển của đạo Phật ở Aán Độ. Do đạo Phật ban đầu là một tôn giáo từ bi, đơn giản và không công nhận chế độ đẳng cấp nên được quần chúng hoan nghênh và được giai cấp thống trị ủng hộ. Đến thế kỷ III TCN, với sự giúp đỡ của vua Axôca, đại hội Phật giáo lần thứ ba được triệu tập. Tại đại hội này, đạo Phật được chấn chỉnh về tổ chức, giáo lý. Đồng thời Axôca còn cho xây dựng nhiều chùa tháp. Cũng bắt đầu từ đây, đạo Phật được truyền ra bên ngoài mà trước hết là sang Srilanca. Đến khoảng năm 100, tại đại hội Phật giáo lần thứ IV họp ở Casmia thuộc nước Cusan, đạo Phật chính thức chia thành hai phái là Tiểu thừa và Đại thừa. Tiểu thừa là phái phật giáo nguyên thủy, cho rằng: - Chỉ những người xuất gia đi tu mới được cứu vớt. - Chỉ thờ Phật Thích Ca. - Niết bàn là cảnh giới yên tĩnh gắn liền với giác ngộ sáng suốt. Phái Đại thừa cho rằng: - Ngoài những người tu hành, những người trần tục quy y theo Phật giáo cũng được cứu vớt. - Phật Thích Ca là vị Phật cao nhất của đạo Phật,nhưng ngoài Phật Thích Ca còn có các vị Phật khác và các vị Bồ Tát. - Niết bàn là thế giới của các vị Phật. - Điạ ngục là nơi đày đoạ linh hồn những kẻ có tội. - Canisca cũng cho xây chùa, tạc tượng và khuyến khích các nhà sư ra nước ngoài truyền đạo. Nguyễn Gia Phu Khoa Lịch Sử

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhxh0023_p1_6606.pdf