Bài giảng Đầu tư và tổng quan về chứng khoán

• Theo báo cáo, kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng tốt trong năm 2011, đạt mức 7,6%. Ngoài ra, năm 2011 sẽ là năm của những cải cách có lợi cho thị trường. Chẳng hạn, Chính phủ đang xem xét điều chỉnh một số quy định trên thị trường chứng khoán như rút ngắn thời gian hoàn tất giao dịch T+2 thay cho T+3, nâng tỉ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, có thể lên 69% (đối với các lĩnh vực không thuộc diện chiến lược).

doc70 trang | Chia sẻ: hao_hao | Lượt xem: 1758 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Đầu tư và tổng quan về chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hồ sơ đăng ký niêm yết lên SGDCK. Bước 2: SGDCK tiến hành thẩm định sơ bộ hồ sơ: Sở giao dịch chứng khoản thẩm định hồ sơ có hợp lệ hay không, còn sai sót và thiếu sót gì yêu cầu công ty bổ xung, sửa chữa. Bước 4: SGDCK phê chuẩn niêm yết: Khi xét thấy công ty đăng ký niêm yết đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện về niêm yết chứng khoán, Hội đồng quản trị SGDCK sẽ phê chuẩn cho chứng khoán đó được niêm yết để chính thức giao dịch trên SGDCK. Bước 5: Khai trương niêm yết: Sau khi được phê chuẩn niêm yết, SGDCK sẽ quy định cụ thể thời gian sẽ niêm yết và mời chủ tịch hội đồng quản trị, hội đồng thành viên và tổng giám đốc, giám đốc điều hành của công ty niêm yết để định ngày giao dịch đầu tiên trên SGDCK đối với chứng khoán đã được phê chuẩn cho phép niêm yết. Đây chính là việc giúp lãnh đạo công ty niêm yết hiện diện trước công chúng và nhận trách nhiệm pháp lý của công ty đã được niêm yết. Thủ tục chi tiết của Sở GDCKHN Bước 1: Nộp hồ sơ đăng ký niêm yết cho Sở GDCKHN: bao gồm: 1.      Giấy đăng ký niêm yết cổ phiếu; 2.      Quyết định của Đại hội đồng cổ đông thông qua việc niêm yết cổ phiếu; 3.      Sổ đăng ký cổ đông của tổ chức đăng ký niêm yết được lập trong thời hạn một tháng trước thời điểm nộp hồ sơ đăng ký niêm yết; 4.      Bản cáo bạch với các nội dung theo Mẫu bản Cáo Bạch niêm yết cổ phiếu ban hành kèm theo Quyết định số 13/2007/QĐ-BTC ngày 13/3/2007; và các quy định khác về Bản cáo bạch quy định tại Quy chế Niêm yết chứng khoán của Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội 5.      Cam kết của cổ đông là thành viên Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng Giám đốc và Kế toán trưởng nắm giữ 100% số cổ phiếu do mình sở hữu trong thời gian 6 tháng kể từ ngày niêm yết và 50% số cổ phiếu này trong thời gian 6 tháng tiếp theo; 6.      Báo cáo tài chính có kiểm toán của năm liền trước năm niêm yết và báo cáo tài chính (tính từ đầu năm đến thời điểm niêm yết) của năm niêm yết do tổ chức niêm yết tự lập. Báo cáo tài chính có kiểm toán phải đáp ứng các điều kiện quy định tại Quy chế Niêm yết chứng khoán của Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội; 7.      Điều lệ của tổ chức niêm yết với các nội dung theo Điều lệ mẫu áp dụng cho các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 15/2007/QĐ-BTC ngày 19/3/2007; 8.      Quy chế quản trị công ty của tổ chức niêm yết; 9.      Hợp đồng tư vấn niêm yết (nếu có); 10.  Giấy chứng nhận của Trung tâm lưu ký chứng khoán về việc cổ phiếu của tổ chức đó đã đăng ký lưu ký tập trung; 11.  Các giấy tờ khác theo yêu cầu của Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội. Bước 2: Sở GDCKHN kiểm tra sơ bộ hồ sơ và Công bố thông tin về việc nhận hồ sơ. Bước 3: Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký niêm yết, SGDCKHN có công văn trả lời tổ chức đăng ký niêm yết, hoặc yêu cầu sửa đổi, bổ sung hồ sơ. Bước 4: Sau khi nhận được bộ hồ sơ hợp lệ, Hội đồng thẩm định niêm yết của SGDCKHN tiến hành thẩm định hồ sơ Bước 5: Trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, SGDCKHN quyết địnhchấp thuận hoặc không chấp thuận niêm yết -         Trường hợp từ chối, Sở sẽ nêu lý do -         Trường hợp chấp thuận, Sở cấp Quyết định chấp thuận đăng ký niêm yết và công bố thông tin trên phương tiên CBTT của Sở Bước 6: Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ khi cấp quyết định chấp thuận đăng ký niêm yết: -         Tổ chức ĐKNY thực hiện CBTT về việc niêm yết trên 03 kỳ liên tiếp của 1 tờ báo dịa phương nơi tổ chức ĐKNY có trụ sở chính hoặc Bản tin thị trường chứng khoán của Sở -         Sở thực hiện báo cáo UBCKNN Bước 7: Trong vòng 90 ngày kể từ khi cấp Quyết định chấp thuận niêm yết, tổ chức đăng ký niêm yết hoàn tất thủ tục để đưa chứng khoán lên giao dịch tại Sở, gồm: -         Nộp phí quản lý niêm yết cho Sở trong vòng 5 ngày sau khi được cấp Quyết định -         Hoàn thiện các thủ tục để chính thức giao dịch trên Sở gồm: + Chốt và lập danh sách cổ đông/ trái chủ + Nộp sổ theo dõi cổ đông/trái chủ theo ngày chốt gần nhất cho Sở + Gửi công văn đăng ký ngày chính thức giao dịch tại Sở + Phối hợp với Sở tổ chức lễ trao Quyết định chấp thuận đăng ký niêm yết và khai trương giao dịch.  d. Lợi thế và bất lợi khi niêm yết Lợi thế - Tiếp cận kênh huy động vốn dài hạn: khi tham gia niêm yết cổ phiếu trên TTCK, doanh nghiệp có thể huy động vốn một cách nhanh chóng, thuận tiện, dễ dàng từ việc phát hành cổ phiếu dựa trên tính thanh khoản cao và uy tín của doanh nghiệp được niêm yết trên thị trường. Huy động theo cách này, doanh nghiệp không phải thanh toán lãi vay cũng như phải trả vốn gốc giống như việc vay nợ, từ đó sẽ rất chủ động trong việc sử dụng nguồn vốn huy động được cho mục tiêu và chiến lược dài hạn của mình. Đây được coi là yếu tố quan trọng nhất khi quyết định niêm yết cổ phiếu trên TTCK. - Khuyếch trương uy tín của doanh nghiệp: để được niêm yết chứng khoán, doanh nghiệp phải đáp ứng được những điều kiện chặt chẽ về mặt tài chính, hiệu quả sản xuất - kinh doanh cũng như cơ cấu tổ chức... Do đó, những công ty được niêm yết trên thị trường thường là những công ty có hoạt động sản xuất - kinh doanh tốt. Thực tế đã chứng minh, niêm yết chứng khoán là một trong những cách thức quảng cáo tốt cho doanh nghiệp, từ đó thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, tìm kiếm đối tác - Tạo tính thanh khoản cho cổ phiếu của doanh nghiệp: khi doanh nghiệp niêm yết trên TTCK sẽ giúp các cổ đông của doanh nghiệp dễ dàng chuyển nhượng cổ phiếu đang nắm giữ, qua đó tăng tính hấp dẫn của cổ phiếu. - Gia tăng giá trị thị trường của doanh nghiệp: xét về dài hạn, giá cổ phiếu của doanh nghiệp niêm yết đều tăng so với mức giá tại thời điểm trước khi niêm yết. Bất lợi - Chi phí niêm yết khá tốn kém: để chứng khoán có thể niêm yết được, doanh nghiệp phải bỏ ra rất nhiều khoản chi phí như hội họp, thuê tư vấn, kiểm toán, chuẩn bị hồ sơ, giấy tờ, quảng cáo... - Áp lực đối với lãnh đạo doanh nghiệp về kết quả hoạt động sản xuất - kinh doanh: tổ chức niêm yết luôn phải chịu áp lực giám sát của xã hội, áp lực phải nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh nhằm duy trì và tăng giá cổ phiếu trên TTCK và những người đứng đầu doanh nghiệp hiển nhiên sẽ chịu áp lực lớn nhất. - Quyền kiểm soát có thể bị đe doạ: khi niêm yết, việc giao dịch chứng khoán khiến cơ cấu cổ đông thường thay đổi, dẫn đến sự biến đổi và bất ổn định trong quá trình quản lý doanh nghiệp và có thể đe doạ đến quyền kiểm soát của các cổ đông lớn. - Chịu nhiều nghĩa vụ công bố thông tin và các ràng buộc khác: khi niêm yết chứng khoán, doanh nghiệp phải công bố ra bên ngoài các thông tin như số lượng chứng khoán do các nhân vật chủ chốt nắm giữ; thông tin về tình hình tài chính, doanh thu, chi phí, định hướng, chiến lược phát triển... điều này đòi hỏi nguồn lực về tài chính và con người. Mặt khác, chính việc công bố này đôi khi cũng bất lợi cho doanh nghiệp, khi đối thủ cạnh tranh nắm được thông tin. Câu 25. trình bày các nhiệm vụ cơ bản về công ty chứng khoán? Bình luận về thực trạng của công ty chứng khoánVN hiên nay? 1. Về thuận lợi: + Tiếp cận thông tin: với việc internet đang toàn cầu hóa hiện nay cộng với các chính sách công bố đăng tải các thông tin nhanh và sớm, thì các công ty chứng khoán đang có lợi thế với việc có cơ hội tiếp cận các nguồn thông tin đúng và đầy đủ nhất của thị trường. + Nền kinh tế đang phục hồi: - Từ đầu năm 2009 đến nay, nền kinh tế đang dần dần phục hồi sau cơn khủng hoảng. Và hiện tại đang trên đà phát triển trở lại. - Thị trường chứng khoán cũng dần dần có dấu hiệu phục hồi, cỗ vũ tinh thần cho nhà đầu tư. + Trợ giúp của chính phủ: Về tài chính: trước tình hình trên, nhà nước đã thực hiện các bước tăng cung tiền của nền kinh tế bằng cách dung 10 000 tỷ đồng để mua tín phiếu. Và nhờ đó, lãi suất đã dừng ở mức phổ biến là 8%/năm. Về mặt quản lý Công tác quản lý, giám sát hoạt động các CTCK của UBCKNN Năm 2009 là năm hết sức khó khăn đối với hoạt động của TTCK. Tuy nhiên, hoạt động của các CTCK đã diễn ra khá suôn sẻ, không có trường hợp nào bị giải thể, phá sản. Đó là một thành công hết sức lớn trong đó sự nỗ lực của bản thân các CTCK, sự đóng góp của các thành viên thị trường và sự chỉ đạo quyết liệt của cơ quan quản lý là UBCKNN (dưới sự chỉ đạo của Bộ Tài chính) được thể hiện trên các mặt sau: Thứ nhất, trước tình hình khó khăn của năm 2008 và những tháng đầu năm 2009, nguy cơ nhiều CTCK thua lỗ lớn, có thể dẫn đến đổ vỡ, phá sản, Bộ Tài chính đã chỉ đạo UBCKNN thực hiện nhiều giải pháp để quản lý chặt hoạt động của CTCK như rà soát, phân loại CTCK để có ứng xử phù hợp, yêu cầu các công ty báo cáo thường xuyên, trực tiếp cùng các công ty để xây dựng phương án chấn chỉnh hoạt động, yêu cầu các công ty tái cơ cấu, nâng cao năng lực tài chính hoặc rút bớt nghiệp vụ để đảm bảo tiêu chí hoạt động theo quy định. Đồng thời UBCKNN đã chủ động xây dựng phương án xử lý nếu CTCK phá sản. Thứ hai, thực thi Luật Chứng khoán, để đảm bảo yêu cầu vốn pháp định theo quy định, UBCKNN đã hướng dẫn những CTCK không đủ vốn nên rút nghiệp vụ hoặc tăng vốn để tăng nghiệp vụ, 35/35 CTCK rút nghiệp vụ cấp phép đảm bảo theo quy định. Thứ ba, với nhiệm vụ trọng tâm là tăng cường công tác quản lý, giám sát hoạt động của các CTCK, UBCKNN đã yêu cầu các CTCK chỉ được thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh đã được UBCKNN cấp phép. Đối với các sản phẩm dịch vụ tài chính khác, yêu cầu CTCK trước khi thực hiện phải báo cáo UBCKNN phương án, quy trình thực hiện, các biện pháp quản trị rủi ro và phải tuân thủ quy định của pháp luật. Thư tư, đối với trường hợp những CTCK hoạt động tổ chức giao dịch chứng khoán OTC, xét hình thức giao dịch có rủi ro của hoạt động này, UBCKNN đã yêu cầu CTCK đóng cửa sàn giao dịch OTC. Việc ban hành các văn bản này nhằm ngăn chặn một số hoạt động của CTCK thực hiện nghiệp vụ không xin phép UBCKNN trong khi chưa có quy định quản lý rủi ro dễ gây tác động không tốt cho hoạt động của thị trường. Đối với hoạt động là đại lý giao dịch vàng, UBCKNN đã yêu cầu các CTCK chấm dứt hoạt động sàn giao dịch vàng. Thứ năm, UBCKNN đã tăng cường công tác giám sát, kiểm tra hoạt động các CTCK; qua công tác kiểm tra, giám sát đánh giá tình hình hoạt ðộng của các công ty chứng khoán ðể có biện pháp chấn chỉnh kịp thời, ðã xử phạt 11 CTCK vi phạm quy định về CK&TTCK. Thứ sáu, về xây dựng khung pháp lý, chính sách phát triển TTCK. Hiện nay, UBCKNN đang nghiên cứu xem xét, xây dựng văn bản liên quan đến hoạt động giao dịch mua bán kỳ hạn (repo), giao dịch ký quỹ (margin) để trình cấp có thẩm quyền xem xét quyết định theo tình hình phát triển thị trường. 2. Về khó khăn: Hiện nay các công ty chứng khoán vẫn đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn Thứ nhất: giá cổ phiếu giảm: việc này là do nền kinh tế sau khủng hoảng, đang phục hồi nhưng rất chậm chạp, nên khiến cho giá của các cổ phiếu các công ty giảm mạnh. Việc giảm giá này tác động rất lớn đến các nhà đầu tư, đặc biệt là với thị trường Việt Nam, khi tâm lý bầy đàn trong việc chơi chứng khoán vẫn còn đang tồn tại khá lớn trong cộng đồng, khiến cho các nhà đầu tư hoang mang, không còn tin tưởng vào thị trường, và họ rút vốn đi để đầu tư sang các hình thức khác. Thứ hai: Thị trường chứng khoán Việt Nam chưa phát triển: + Ở Việt Nam, mặt bằng trình độ của các nhà đầu tư còn thấp +Việc mở cửa, tạo cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài chưa cao +Một số chính sách còn chưa được phát triển hết, gây 1 số khó khăn và bất hợp lý. + Lượng vốn giao dịch trên OTC lớn và khó quản lý Thứ ba: Một số khó khăn khác: + Thực trạng cơ sở vật chất kỹ thuật của Việt Nam còn chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội. +Nguồn nhân lực có trình độ cho các công ty chứng khoán cũng còn đang ít và yếu. Câu 26: bình luận về hoạt động môi giới của công ty chứng khoán việt nam hiện nay Nghiệp vụ môi giới là một trong những nghiệp vụ cơ bản của các công ty chứng khoán. Với sự xuất hiện của 1 số lượng lớn các công ty chứng khoán, hoạt động môi giới ck đã có nhiều biến đổi so với những ngày đầu. Ưu: _ số lượng ngày càng tăng của các ctck cho phép các nhà đầu tư có sự đa dạng trong lựa chọn _ Sự chuyên nghiệp hóa trong hoạt động môi giới tại nhiều công ty chứng khoán đang dần được nâng cao theo hướng gần với mô hình của các thị trường chứng khoán phát triển. _ một số cty đã có sự phân chia nhóm khách hàng để nâng cao chất lượng tư vấn Nhược: _ Thị phần môi giới nằm chủ yếu ở các cty lớn và hoạt động lâu năm _ Công ty chứng khoán thuộc ngân hàng có ưu thế hơn so với công ty chứng khoán độc lập do tận dụng các nguồn lực sẵn có, (2 trong 3 cty dẫn đầu thị phần là cty chứng khoán thuộc NH) _ Nghiệp vụ môi giới có phần chững lại trong thời gian gần đây, đóng góp phần nhỏ vào tổng doanh doanh _ Có khả năng xảy ra những rủi ro đạo đức khi ctck sử dụng tài khoản của khách hàng để tự doanh Câu 27. bình luận về hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán việt nam hiện nay? Tự doanh ck luôn là hoạt động đem lại lợi nhuận chủ yếu cho các công ty ck và càng được chú trọng trong thời gian gần đây. Với trình độ chuyên môn và cơ sở vật chất ngày càng được nâng cao, hiệu quả của hoạt động tự doanh ck ngày càng được tăng mạnh. Trên thị trường VN, ACBS là cty tự doanh nhiều trái phiếu nhất, còn AGR là cty tự doanh lượng trái phiếu lớn nhất. nhược điểm: _ vẫn tồn tại 1 số nhược điểm trong hoạt động tự doanh, như khi ctck sử dụng tài khoản môi giới của khách hàng để tự doanh sinh lợi cho chính mình _ thị trường ck có những biến động rất khó lường, vì thế nếu không có chiến lược tự doanh hợp lí sẽ rất dễ đến thua lỗ, không đảm bảo khả năng hoạt động của cty. Câu 28. bình luận về bảo lãnh phát hành của công ty chứng khoán việt nam hiện nay Bảo lãnh phát hành là một nghiệp vụ quan trọng trên ttck, đặc biệt đối với 1 ttck đang phát triển như ở VN. Đây cũng là nghiệp vụ đem lại lợi nhuận lớn cho các cty ck. Tuy nhiên ở VN hiện nay, đa phần các công ty chứng khoán mới chỉ triển khai hoạt động nhiều trong việc bảo lãnh trái phiếu chính phủ do có độ rủi ro thấp, còn việc bảo lãnh phát hành cổ phiếu của các ctcp thì còn rất hạn chế và chỉ tập trung bảo lãnh các cty lớn. Điều này cũng dễ hiểu do sự hạn chế về thông tin cũng như tính rủi ro còn rất cao trong ttck VN. Về thành tựu, 1/2007, ABBANK được tạp chí Asia Money bình chọn là nhà phát hành trái phiếu công ty bản tệ tốt nhất châu Á. Câu 29. bình luận về hoạt động tư vấn của công ty chứng khoán việt nam hiện nay Đây là hoạt động đem lại con số doanh thu thấp nhất trong các nghiệp vụ của ctck nhưng cũng đồng thời là hoạt động có những đóng góp tích cực và rõ rệt cho sự phát triển của thị trường chứng khoán VN. Xuất phát từ việc tuyên truyền, phổ biến kiến thức cho các nhà đầu tư trong những ngày đầu thành lập, hoạt động tư vấn của các ctck giờ đây đã chuyên sâu hơn rất nhiều: tư vấn phát hành thêm cổ phiếu, tư vấn tái cấu trúc tài chính…và tham gia mạnh mẽ vào quá trình cổ phần hoá qua các hoạt động như tư vấn cổ phần hoá, định giá doanh nghiệp. Đáng chú ý thời gian gần đây là việc các ctck tư vấn phát hành bổ sung cổ phiếu cho các ngân hàng TM nhằm huy động thêm vốn, đảm bảo đáp ứng vốn điều lệ 3000 tỷ. 31. khi đầu tư vào chứng khoán nhà đầu tư cần biết thông tin gì? Thông tin đấy lấy từ nguồn nào? phân biệt nhà đầu tư theo trường phái phân tích cơ bản và phân tích kĩ thuật? a. Khi đầu tư chứng khoán, nhà đầu tư cần biết thông tin gì: Thông tin về nền kinh tế và sự tăng trưởng của ngành: - Tốc độ tăng trưởng. - Sự biến động của các thị trường liên quan như tiền tệ, vàng, bất động sản. - Sự biến động của các thị trường vào Việt Nam và các thị trường quốc tế. - Triển vọng phát triển của ngành và những thách thức. v.v.v Thông tin về hoạt động của doanh nghiệp: - Lịch sử phát triển của công ty, ngành nghề - Tình hình kinh doanh - Tình hình tài chính. - Cổ đông, ban lãnh đạo công ty và kế hoạch phát triển công ty trong tương lai Thông tin về giao dịch: - Giá - Khối lượng - Chỉ số giá của thị trường - Mua bán của cổ đông lớn, cổ đông nội bộ, nhà đầu tư nước ngoài. .v.v b. Nguồn cung cấp thông tin Chúng ta có thể tìm từ nhiều nguồn cung cấp thông tin khác nhau nhưng tựu chung lại các nguồn này được chia làm 3 nguồn chính: - Nguồn từ các cơ quan quản lý nhà nước: Ủy ban chứng khoán, ngân hàng nhà nước, bộ tài chính … - Nguồn từ công ty chứng khoán - Các nguồn thông tin khác: Phương tiện thông tin đại chúng, internet, các tổ chức mua bán thông tin, các bài nghiên cứu của các tổ chức… c. Phân biệt nhà đầu tư phân tích cơ bản và nhà đầu tư phân tích kĩ thuật STT Tiêu chí Trường phái phân tích cơ bản Trường phái phân tích kĩ thuật 1 Phương pháp áp dụng Phân tích cơ bản: Là phương pháp phân tích yếu tố nền tảng từ đó tác động tới giá trị nội tại của cổ phiếu trên thị trường Phân tích kĩ thuật: biến động giá tìm ra thời điểm và ck đầu tư 2 Cở sở của phân tích Lịch sử công ty,Bảng khai tài chính, biến động kinh tế vĩ mô ảnh hưởng tới giá chứng khoán mà không quan tâm tới tâm lý nhà đầu tư. dựa trên phân tích các đồ thị biến động giá phân tích cung cầu mà không quan tâm đến vị thế tài chính của công ty 3 Áp dụng Trong phân tích dài hạn Phân tích trong ngắn hạn và trung hạn Câu 32. Đánh giá về tính chính xác của các nguồn thông tin ở Việt Nam: Thị trường chứng khoán Việt Nam cũng như bất kỳ thị trường mới nổi nào trên thế giới, hiện tượng thông tin bất cân xứng xảy ra phổ biến trên mọi ngành, lĩnh vực. Ngoài các thông tin bắt buộc theo luật định phải công bố thì các doanh nghiệp không chủ động cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời. Đặc biệt đối với các công ty có cổ phiếu giao dịch trên thị trường phi chính thức (OTC), tình trạng phổ biến là nhà đầu tư hầu như mù mờ về tình hình làm ăn, tình hình hoạt động kinh doanh của công ty. Các thông tin tìm được chủ yếu qua nguồn tin riêng, trên các diễn đàn chứng khoán hoặc tin đồn Doanh nghiệp cung cấp thông tin không công bằng đối với các nhà đầu tư: ưu tiên cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư chiến lược, các nhà đầu tư tổ chức mà không công bố rộng rãi. Đến nay, một hiện tượng phổ biến cho thấy các cuộc đấu giá thì người đấu giá thành công chủ yếu là các nhà đầu tư tổ chức. Loại trừ khả năng các nhà đầu tư tổ chức có kinh nghiệm, kỹ năng phân tích và "trường vốn" hơn thì người ta cũng nghi ngờ các nhà đầu tư nhận được nhiều thông tin chất lượng hơn so với các nhà đầu tư cá thể. Việc tung tin đồn thất thiệt. Trong thời gian 8 năm hoạt động của thị trường chứng khoán, có không ít tin đồn ảnh hưởng đến uy tín của các công ty niêm yết. Các tin này thường được tung ra trên các diễn đàn chứng khoán (forum), trên các sàn giao dịch chứng khoán, hoặc được truyền miệng. Do nhà đầu tư chưa có kinh nghiệm, kỹ năng để kiểm chứng nguồn thông tin, đồng thời do cơ chế thông tin của doanh nghiệp còn yếu kém, chậm chạp nên dẫn đến gây tâm lý hoang mang cho nhà đầu tư, ảnh hưởng đến giá cả cổ phiếu trên thị trường. Trong khi đó, các quy định của Nhà nước về việc xử phạt đối với việc tung tin đồn trên thị trường chứng khoán vẫn còn trong giai đoạn soạn thảo. Cơ chế phát hiện đối với việc tung tin đồn cũng chưa rõ ràng. Các cơ quan truyền thông cung cấp thông tin sai lệch, không đầy đủ. Đây không phải là hiện tượng phổ biến nhưng khiến cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp không mấy tin cậy vào chất lượng thông tin của các cơ quan báo chí. Ví dụ, thông tin về SJS "sập sàn" do báo Tiền phong điện tử đăng ngày 12/1/20076. Thực chất là do SJS chia 3 cổ phiếu thưởng cho 1 cổ phiếu hiện tại nên giá cổ phiếu của công ty giảm tương ứng từ 728.000đ/CP xuống còn 190.000đ/CP. Mặt khác, về nội dung thông tin do cơ quan truyền thông cung cấp, chủ yếu vẫn là tin tức, diễn biến thị trường, chưa có nhiều các thông tin nhận định phân tích mang tính định hướng cho nhà đầu tư và thị trường. Ngoài ra còn nhiều hiện tượng khác về việc một số nhà đầu tư làm giá, tạo cung cầu ảo trên thị trường khiến cho giá cả biến động mạnh. Sự thua thiệt thuộc về các nhà đầu tư cá nhân, không có nguồn tin nội bộ, khi muốn mua thì không thể nào tìm được nguồn mua do các nhà đầu tư lớn đã thâu tóm toàn bộ, khi muốn bán thì cũng không thể nào bán được do thị trường bão hòa... Mặc dù đến nay chưa có những nghiên cứu định lượng nhưng có thể khái quát bức tranh toàn cảnh tình trạng bất cân xứng thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam khá hỗn độn. Điều này phù hợp với đánh giá của các chuyên gia về tình trạng thị trường chứng khoán Việt Nam đang phát triển quá nóng, không phản ánh thực chất giá trị của doanh nghiệp và cung cầu thị trường. Câu 34 35 DIỄN BIẾN GIÁ TRÊN HoSE VÀ HNX HoSE HNX QUÝ I 1. DIỄN BIẾN Trong quí 1/2010, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam tiếp tục trải qua những thăng trầm và chỉ thay đổi rất ít so với cuối năm 2009. Tại phiên giao dịch ngày 31/3/2010, TTCK Việt Nam có những diễn biến trái chiều. Trong quý 1 diễn ra 2 đợt sóng. Đợt sóng thứ nhất kết thúc vào ngày 07/01/2010 với mức đỉnh của VN-Index đạt được là 543.46 điểm, sau đó lùi sâu về mức 477.59 điểm vào ngày 22/01. Đợt sóng thứ 2, thị trường phục hồi lên 531.86 điểm vào ngày 15/03, sau đó lùi về 499.21 điểm vào ngày 31/03 Trên sàn giao dịch TP. Hồ Chí Minh, Vn-index đóng cửa ở mức 499,24 điểm (giảm 1,48 điểm so phiên trước và tăng 4,47 điểm so với phiên giao dịch ngày 31/12/2009) với 52.760.980 cổ phiếu được khớp lệnh, đạt giá trị giao dịch là 2.014,789 tỉ đồng. Tại sàn Hà Nội, Hn-index giảm 3 phiên liên tiếp và đóng cửa tại mức 160,55 điểm, giảm 1,82 điểm so phiên trước và giảm 7,62 điểm so cuối năm 2009, khối lượng giao dịch đạt 22,46 triệu cổ phiếu, giá trị giao dịch đạt 750,44 tỷ đồng. 2. NGUYÊN NHÂN Diễn biến TTCK quí 1/2010 phản ánh tình hình tương tự như những năm trước, đó là thời kỳ nghỉ ngơi kéo dài, các doanh nghiệp đang quyết toán năm 2009 và xây dựng kế hoạch cho năm 2010. Ngoài ra, TTCK quí 1 năm nay còn chịu tác động của những yếu tố khác. Cụ thể là, ngoại trừ GDP quí 1 tăng 5,83% so cùng kỳ năm 2009, hầu hết các chỉ số kinh tế vĩ mô khác đạt thấp, tổng thu ngân sách nhà nước chỉ đạt 20% dự toán năm.  Giá đầu vào tăng, kim ngạch xuất khẩu giảm sút, làm tăng mức nhập siêu, ảnh hưởng đến cân đối ngoại tệ và dự trữ ngoại hối, trong khi tỉ giá hối đoái tương đối ổn định. Lạm phát trong 3 tháng đầu năm đã lên tới 4,12% và áp lực lạm phát còn cao, trong khi chỉ tiêu Quốc hội đề ra cho năm 2010 là 7 %. Lạm phát cao ảnh hưởng đến nhu cầu sức mua và hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực doanh nghiệp. Hậu quả là, nhu cầu vay vốn đạt thấp với tổng tín dụng cho nền kinh tế trong quí 1 chỉ tăng 3,34%. QUÝ II DIỄN BIẾN Sau khi phục hồi và đạt đỉnh điểm vào phiên giao dịch ngày 6/5 với Vn-index và Hn-index lần lượt là 549,25 điểm và 187,22 điểm, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam bắt đầu xu hướng giảm và kết thúc quí II không mấy khả quan. Kết thúc phiên giao dịch ngày 30/6, chỉ số Vn-Index giảm 13 phiên liên tiếp và đóng cửa ở mốc 507,14 điểm, giảm 9,52 điểm so phiên giao dịch trước đó, tăng lần lượt 7,9 điểm và 12,37 điểm so với phiên giao dịch ngày 31/03 và ngày 31/12/2009; chỉ số Hn-index giảm sâu ngay và dừng lại ở mốc 158,81 điểm, giảm 2,52 điểm so với phiên giao dịch trước đó, giảm lần lượt 1,74 điểm và 9,36 điểm so với phiên giao dịch ngày 31/03 và ngày 31/12/2009 các cổ phiếu tăng mạnh nhất đều là những penny-stock niêm yết trên HNX. Giá trị giao dịch trên HNX tăng vọt và thậm chí có những phiên còn lớn hơn HoSE, nơi có giá trị thị trường gấp 4 lần NGUYÊN NHÂN Đợt suy giảm mạnh của thị trường từ tháng 5 đến nay được xem có nguyên nhân chính là do chính sách tăng cường an toàn cho hệ thống tài chính với bằng cách ban thành Thông tư 13 của NHNN. Ngoài ra, biến động của tỷ giá và lạm phát cũng ảnh hưởng mạnh đến tâm lý nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Cùng với việc mất điểm mạnh của các chỉ số chứng khoán, nhiều cổ phiếu giảm rất mạnh, thậm chí giá của nhiều cổ phiếu thấp hơn mức đáy của các chỉ số thị trường vào tuần cuối cùng của  tháng 2 năm 2009, khi VN-Index đạt 235.5 điểm và HNX-Index đạt 78.06 điểm. TTCK Việt Nam lình xình chủ yếu là do suy thoái kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng xấu đến tình hình hoạt động của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư Việt Nam đã tích lũy được một số kiến thức và kinh nghiệm cần thiết trong kinh doanh chứng khoán sau khi đã nếm trải những thất bại nặng nề. Cũng như nhiều nước châu Á khác, kinh tế Việt Nam phụ thuộc đáng kể vào xuất khẩu. Vì thế, suy thoái kinh tế toàn cầu đã gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp, trong khi lãi suất ngân hàng vẫn còn cao, giá đầu vào tăng cao và lo ngại lạm phát trong những tháng đầu năm, ảnh hưởng xấu đến kết quả hoạt động kinh doanh và diễn biến TTCK. Một yếu tố cần tính đến là vai trò của các nhà đầu tư nước ngoài, khi dòng vốn đầu tư gián tiếp đã đạt 800 triệu USD trong sáu tháng qua sau khi giảm 500 triệu USD vào năm 2009, nhưng cũng khó hỗ trợ nhiều cho TTCK kinh tế thế giới chưa kịp phục hồi sau khủng hoảng đã phải đối phó với thâm hụt nợ công tại châu Âu QUÝ III DIỄN BIẾN Kết thúc phiên giao dịch ngày 30/09/2010, VN-Index đóng cửa ở mức 454.52 điểm, mất 40.25 điểm so với phiên đóng cửa cuối năm 2009, tương đương 8.14%. Trong khi đó, HNX-Index đóng cửa cuối ngày 30/09/2010 ở mức 127.29 điểm, mất đến 40.88 điểm so với đầu năm 2010, tương đương 24.31%, cao hơn rất nhiều so với VN-Index. Đây là thời gian phục hồi nhẹ và giảm điểm của cả 2 chỉ số Suốt trong thời gian qua, khối ngoại tăng cường mua ròng khá mạnh những cổ phiếu niêm yết trên sàn, đặc biệt là cổ phiếu bluchips trên HoSE. Tổng giá trị mua ròng của khối ngoại tính từ đầu năm 2010 đến ngày 11/10/2010 đã lên tới 10,229 tỷ đồng trên HoSE và 609 tỷ đồng trên HNX. Giá trị mua ròng này lớn gần gấp đôi so với năm 2009. Điều này cho thấy dòng vốn đầu tư gián tiếp (FPI) vẫn không ngừng đổ vào Việt Nam. NGUYÊN NHÂN GDP: GDP quý III của cả nước tăng trưởng 7,16%, một điểm sáng trong các tin tức vĩ mô được đưa ra trong thời gian vừa qua, GDP 9 tháng của cả nước tăng 6,25%, cả năm khả năng GDP cả nước đạt 6,7%, cao hơn chỉ tiêu đặt ra đầu năm là 6,5%. Lạm phát: CPI tháng 10 của cả nước tăng 1,02% so với năm trước tiếp tục tạo ra bất ngờ đối với giới đầu tư, vì hầu hết giới phân tích cho rằng CPI tháng 10 sẽ nằm trong khoảng từ 0,8 - 0,9% khi CPI TPHCM chỉ tăng 0,45%. Lãi suất: Tính tại thời điểm gần nhất 19/10, theo công bố của Ngân hàng Nhà nước, lãi suất huy động có kỳ hạn 3 tháng phổ biến ở mức 8-11%/năm, trên 3 tháng phổ biến ở mức 11 - 11,2%/năm. Lãi suất cho vay từ 12,5% - 14,5% (kỳ hạn ngắn), từ 13,5% - 15,5% (kỳ hạn trung và dài hạn). Câu 35 : Những vấn đề đang được quan tâm trong dự thảo luật CK sữa đổi. Nêu kiến nghị của bạn về những vấn đề đó. 1. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐANG ĐƯỢC QUAN TÂM TRONG DỰ THẢO LUẬT CK SỬA ĐỔI: Luật Chứng khoán được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29/6/2006, có hiệu lực thi hành từ 01/01/2007. Qua hơn 3 năm thực hiện, Luật Chứng khoán đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cao trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.Tuy nhiên, sau một thời gian phát triển, hoạt động về chứng khoán và TTCK khoán có những bước phát triển mới, đòi hỏi phải bổ sung các quy định pháp luật cho phù hợp với tình hình mới.Dự luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán dự kiến được Quốc hội xem xét thông qua vào cuối năm nay sẽ khắc phục các hạn chế trên đây, hoàn thiện hơn khung khổ pháp lý cho thị trường chứng khoán, đáp ứng yêu cầu thực tế của hoạt động chứng khoán và TTCK cũng như xu thế hội nhập với thị TTCK các nước và khu vực. Có 6 vấn đề được tập trung sửa đổi bổ sung trong dự Luật, bao gồm phát hành ra công chúng, phát hành riêng lẻ, công ty chứng khoán (CTCK), công ty quản lý quỹ, công bố thông tin và xử lý vi phạm hành chính - Về phát hành riêng lẻ: DN, tổ chức muốn huy động vốn bằng cách phát hành riêng lẻ sẽ phải đăng ký với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK). Tuy vậy, Luật chỉ chế tài với trường hợp phát hành của các công ty đại chúng, còn DN không thuộc diện đó sẽ thực hiện theo Luật Doanh nghiệp và Nghị định 01/2009/NĐ-CP về phát hành riêng lẻ. Đối với phát hành ra công chúng: Dự thảo Luật quy định thêm một số nhóm đối tượng được phát hành theo phương thức này như công ty TNHH một thành viên chuyển đổi sang mô hình công ty cổ phần, công ty nước ngoài chào bán chứng khoán trên thị trường Việt Nam, các DN trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, công nghệ cao, ngân hàng… thực hiện phát hành ra công chúng để huy động vốn thành lập DN.Liên quan đến nội dung này, có ý kiến cho rằng, các nhà làm luật nên tính đến việc có yêu cầu tối thiểu về quy mô của đợt phát hành ra công chúng, tránh trường hợp đã xảy ra khi có DN nộp hồ sơ huy động vỏn vẹn 2,7 tỷ đồng để đầu tư thang máy cho tòa nhà với giá phát hành 10.050 đồng/cổ phiếu. Với quy mô như thế, DN có cần thiết phải phát hành ra đại chúng hay nên tìm đến vay ngân hàng? Với CTCK: Đây là nhóm ngành kinh doanh có điều kiện, trên thị trường chỉ có CTCK mới được hoạt động 4 nghiệp vụ môi giới, tư vấn, tự doanh và bảo lãnh phát hành (ngoại trừ ngân hàng thương mại được phát hành, kinh doanh trái phiếu). Dự thảo Luật bổ sung CTCK được thực hiện thêm nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư đối với các cá nhân. Thực ra, đây không phải là nghiệp vụ hoàn toàn mới với các CTCK, trước đây họ đã được cung cấp dịch vụ này cho NĐT, nhưng phải tạm ngừng khi Luật Chứng khoán có hiệu lực. Luật cấm, nhưng nhu cầu thực tế có khiến dịch vụ này tồn tại dưới hình thức ngầm và quyền lợi NĐT không được đảm bảo khi giữa hai bên không có hợp đồng quy định trách nhiệm đầy đủ của CTCK. Ngoài ra, dự Luật cũng yêu cầu các cơ quan hành pháp bổ sung chỉ tiêu an toàn tài chính của các CTCK và trong trường hợp CTCK muốn cung cấp dịch vụ tài chính khác phải có hướng dẫn của Chính phủ và Bộ Tài chính (đơn cử như CTCK cung cấp dịch vụ sàn vàng). Công ty quản lý quỹ: Được bổ sung thực hiện nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán. Hiện công ty quản lý quỹ có chức năng quản lý danh mục đầu tư cho các cá nhân và tổ chức, khi thực hiện quản lý vốn họ có thể đưa ra thông tin để NĐT lựa chọn ủy thác vốn cho công ty quản lý quỹ đầu tư. Điều này đồng nghĩa với việc các công ty quản lý quỹ thực hiện nghiệp vụ tư vấn chứng khoán, đưa nội dung này vào luật sẽ giúp thị trường minh bạch hơn khi có sự cạnh tranh giữa CTCK và công ty quản lý quỹ. Công bố thông tin trên TTCK: Được cụ thể hóa các nhóm đối tượng gồm cả tổ chức niêm yết và công ty đại chúng. Dự thảo Luật cũng yêu cầu có quy định rõ những nội dung phải công bố định kỳ, bất thường và thống nhất lại các phương tiện công bố thông tin. Về nội dung xử phạt vi phạm hành chính: Dự thảo Luật thống nhất mức phạt cao nhất là 500 triệu đồng (phù hợp với quy định của Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính); bỏ quy định phạt từ 1 - 5 lần giá trị khoản lợi nhuận thu được bất chính. Ngoài 6 vấn đề trên, trong phiên họp thứ 34 của UB Thường vụ Quốc hội ngày 16/9, các ĐB cũng đã bàn thêm đến 3 vấn đề khá nhạy cảm với nhà quản lý TTCK lúc này. Đó là địa vị pháp lý của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK); giải pháp cho tình trạng thao túng, làm giá trên TTCK và cơ quan nào sẽ quản lý thị trường UPCoM. Về địa vị pháp lý của UBCK, một số ý kiến cho rằng, phạm vi sửa đổi, bổ sung Luật vẫn còn hạn hẹp, chưa triệt để, do đó có một số bất cập phát sinh chưa được giải quyết hoặc giải quyết chưa thấu đáo. Cụ thể, theo Luật hiện hành, UBCK là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính, nên không tránh khỏi bị hạn chế về thẩm quyền, do đó không thể xử lý nhanh nhạy những tình huống phát sinh trên TTCK - một thị trường có tính phức tạp và luôn có những diễn biến, thay đổi rất nhanh và chịu tác động của nhiều yếu tố trong và ngoài nước. Dự thảo sửa đổi, bổ sung Luật lại chưa đề cập đến vấn đề này.   Tuy nhiên, Thường trực Ủy ban Kinh tế cho rằng, địa vị pháp lý của UBCK là một vấn đề lớn, có ảnh hưởng chi phối rất nhiều nội dung khác của Luật, trong khi Luật Chứng khoán mới có hiệu lực thi hành hơn 3 năm, cần có thêm thời gian để tổng kết đánh giá một cách đầy đủ. Hơn nữa, Luật hiện hành cũng đã trao khá nhiều quyền hạn cho UBCK, do vậy cơ quan này tán thành chưa sửa đổi những quy định về địa vị pháp lý của UBCK trong lần sửa đổi này. Về vấn đề thao túng, làm giá trên TTCK, Thường trực Ủy ban Kinh tế cho rằng, hiện nay trên thị trường có không ít  hành vi thao túng thị trường, kiếm lời  bất chính, gây ảnh hưởng xấu đến lợi ích của các nhà đầu tư và sự phát triển của TTCK, nhưng chưa được xử lý nghiêm khắc. Chẳng hạn, một số nhà đầu tư câu kết thực hiện các giao dịch giả mạo để làm tăng hoặc giảm giá một số mã chứng khoán, qua đó để đầu cơ kiếm lời. Một trong những lý do chưa ngăn chặn và xử lý được các hành vi này là do cơ quan quản lý nhà nước chưa có đủ công cụ và thẩm quyền để xác minh bằng chứng gian lận. Vì vậy, cơ quan này đề nghị bổ sung quy định: "Các tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu cho UBCK theo quy định của Chính phủ để UBCK thực hiện chức năng thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật". Về cơ sở pháp lý cho hoạt động của thị trường UPCoM, tại Điều 33, Luật Chứng khoán quy định: "Sở giao dịch chứng khoán tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán cho chứng khoán của tổ chức phát hành đủ điều kiện niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán. Trung tâm giao dịch chứng khoán tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán cho chứng khoán của tổ chức phát hành không đủ điều kiện niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán". Như vậy, khi Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội chuyển đổi thành Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội thì việc quản lý thị trường giao dịch của công ty đại chúng chưa niêm yết (UPCoM) là không phù hợp với quy định pháp luật hiện hành. Về vấn đề này, Thường trực Ủy ban Kinh tế cho rằng, trong giai đoạn tới, việc tổ chức hoạt động của thị trường UPCoM vẫn thật sự cần thiết, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và thu hẹp dần thị trường giao dịch không chính thức, do đó, cơ quan này đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, chỉnh sửa quy định về tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán để bảo đảm tính thống nhất, hợp lý của hệ thống pháp luật. Cụ thể, kiến nghị sửa đổi khoản 1 và 2 Điều 33 của Luật Chứng khoán hiện hành thành 1 khoản như sau: "Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch tổ chức thị trường chứng khoán theo quy định của Chính phủ". Ngoài 6 điểm được sửa đổi trong dự thảo Luật Chứng khoán (chủ yếu là các vấn đề mang tính kỹ thuật), một số vấn đề mà thị trường mong sửa nhất như địa vị pháp lý của UBCK; phân biệt rõ tiêu chuẩn giữa các loại thị trường; giải pháp cho tình trạng thao túng, làm giá đang diễn ra ngày càng tinh vi, phổ biến… cho đến thời điểm này, vẫn chưa có được câu trả lời đủ thuyết phục. TTCK gần như vô cảm với nội dung sửa Luật Chứng khoán, một nội dung đáng được coi là quan trọng bậc nhất trên TTCK lần này II/ ĐỀ XUẤT: Minh bạch thông tin phải được coi trọng Minh bạch thông tin là yếu tố rất quan trọng đối với thành công của thị trường chứng khoán, vì đây là thị trường lòng tin. Do đó, cần có càng nhiều thông tin càng tốt, càng chi tiết càng tốt, càng tạo lòng tin càng có hiệu lực. Về tư tưởng chỉ đạo là tạo ra sự rõ ràng công khai minh bạch thì làm; cái gì bó buộc quá thì thôi; không nên gây hoảng loạn; tin đồn thì nên bỏ triệt để. Sửa luật nên hài hòa 4 yếu tố: chào bán chứng khoán, quản trị công ty, công bố thông tin và xử lý vi phạm.   Cần có cơ chế phối hợp với ngành tư pháp Hoạt động của thanh tra chứng khoán không giống như các cơ quan điều tra hình sự.Cần thiết kế cơ chế sử dụng mối quan hệ giữa các cơ quan tư pháp và cơ quan hành chính để điều tra các vụ vi phạm trong thị trường chứng khoán. Khi luật không cho phép cơ quan hành chính điều tra thì phải dựa vào cơ quan tư pháp, dựa vào lệnh của tòa án để thực hiện. Có thể bổ sung thêm quyền cho thanh tra chứng khoán để phát hiện những căn cứ và quyền yêu cầu khởi tố, dùng sức ép của cơ quan tư pháp nếu các biện pháp của thanh tra chưa đủ. Quy định các hành vi bị xử phạt khác phải bảo đảm tính minh bạch và quy định hình thức trong luật. Trong dự thảo luật quy định một số hành vi, còn những hành vi chưa quy định thì giao cho Chính phủ là mâu thuẫn. Sự ra đời, tồn tại, tiêu vong của CTCK theo quy định về tiêu chí nhưng dự thảo luật sửa đổi về hạn chế sự ra đời của CTCK còn chung chung, rộng quá. Số lượng CTCK, công ty quản lý quỹ phải theo quy luật thị trường. Quy định "phải có phương án hoạt động kinh doanh"… là quá rộng, cơ quan cấp phép khó xác định thế nào là chiến lược phát triển, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, cần có tiêu chí cụ thể hơn nữa.   Liên kết thị trường ASEAN Về liên kết thị trường ASEAN, Việt Nam hiện đang triển khai tham gia liên kết với thị trường chứng khoán ở 6 nước, nhưng gặp vướng mắc liên quan đến khung pháp lý do luật hiện hành chưa quy định. Vì vậy, nên bổ sung để có điều kiện hội nhập khu vực, bảo đảm cam kết liên thông vào năm 2015, mở ra khả năng hội nhập. Địa vị thanh tra của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) phải được nâng lên, vì thị trường chứng khoán vừa qua phát triển rất nhanh, mặt trái rất nhiều, theo quy định hiện hành chỉ phạt 50 - 70 triệu đồng thì không đáng kể. Hiện chúng ta chưa có căn cứ quy định nào phối hợp với cơ quan an ninh, điều tra, nên quy định công cụ cho thanh tra của UBCKNN để xử lý được các vi phạm, hạn chế bớt các tiêu cực. Thúc đẩy công ty đại chúng giao dịch trên thị trường Về quản lý Nhà nước, công ty niêm yết rất ít so với số lượng công ty đại chúng, dẫn đến các giao dịch chứng khoán trên thị trường, kể cả trên thị trường UPCOM, gây khó khăn cho cơ quan quản lý Nhà nước, đồng thời không bảo đảm lợi ích chung cho các nhà đầu tư trong xã hội. Dự thảo luật điều chỉnh theo hướng thúc đẩy công ty đại chúng giao dịch trên thị trường, nếu đủ điều kiện thì giao dịch trên thị trường có tổ chức, nếu chưa đủ điều kiện thì đưa ra các điều kiện để thực hiện mục tiêu này. Thành lập định chế tài chính bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư   Cần bổ sung quy định về định chế tài chính để bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư trong trường hợp CTCK bị giải thể, phá sản hoặc gặp khó khăn lớn về tài chính mà không có khả năng bảo toàn một phần vốn của nhà đầu tư. Hiện nay, trên thị trường chứng khoán Việt Nam có hơn 100 CTCK đang hoạt động, còn nhiều bất cập như: phân tán nguồn lực, chất lượng chưa đạt yêu cầu, cạnh tranh gay gắt, không lành mạnh, rủi ro cao do cạnh tranh về dịch vụ sử dụng đòn bẩy tài chính ở mức cho vay rất cao, dẫn đến rủi ro về vốn và chứng khoán của CTCK, đồng thời ảnh hưởng đến sự an toàn về tiền và cổ phiếu của các nhà đầu tư. Nhà đầu tư cá nhân chiếm đa số phần tổng giá trị giao dịch mua bán cổ phiếu chứng khoán hàng ngày, kiến thức còn hạn chế, khó có khả năng nhận biết về tình hình hoạt động của CTCK, cũng như khó có khả năng phân biệt CTCK tốt hay xấu. Việc thành lập một định chế tài chính bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư từ việc hình thành quỹ đền bù sẽ tạo an tâm cho các nhà đầu tư chứng khoán, giảm thiểu những rủi ro không mong muốn xảy ra đối với các nhà đầu tư cá nhân, sẽ góp phần phát triển bền vững thị trường chứng khoán. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy đã từng xảy ra những vụ giải thể, phá sản hay mất khả năng thanh toán của một số CTCK dẫn đến việc làm thiệt hại đến tài sản của nhà đầu tư. Vì vậy, việc thành lập một định chế tài chính bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư là sự cần thiết khách quan, tương tự như bảo hiểm tiền gửi cho người gửi tiền trong dịch vụ ngân hàng.   Câu 36. Nhận định sự tăng trưởng của thị trường chứng khoán trong thời gian tới NHẬN ĐỊNH SỰ TĂNG TRƯỞNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 11 tháng đầu năm trở nên buồn tẻ với đa số nhà đầu tư, chỉ số VN-Index đi được gần hết quãng đường của năm trong kênh xu hướng xuống. Phiên mở cửa năm 2010, chỉ số VN-Index ở mốc 540 điểm, kết thúc phiên 30/11, VN-Index còn 446 điểm, mất 94 điểm. Ngày 06/05, chỉ số lên cao nhất với 549 điểm và giảm điểm thấp nhất tại ngày 25/08 khi đóng cửa chỉ số còn 423 điểm. Các sóng tăng trưởng trong năm cũng yếu ớt và thường diễn ra trong khoảng thời gian ngắn từ 1 tuần đến 1 tháng với cường độ thấp còn các sóng điều chỉnh lại diễn ra với cường độ mạnh và thời gian dài hơn. Nhà đầu tư đã nếm trải nhiều cảm xúc trong 11 tháng đầu năm Thanh khoản giảm đáng kể Mặc dù lượng cổ phiếu niêm yết (bao gồm những cổ phiếu mới niêm yết và cổ phiếu phát hành thêm) 6 tháng đầu năm đã bằng lượng bổ sung thêm của cả năm 2009, nhưng thanh khoản của thị trường lại không được cải thiện so với năm 2009. Thanh khoản có xu hướng giảm từ tháng 7 trở lại đây, thể hiện niềm tin của nhà đầu tư đang mất dần, một lượng tiền đã chuyển qua các kênh đầu tư khác có tỷ suất sinh lời hấp dẫn hơn như ngoại hối, vàng… hoặc để tiền trong tài khoản chờ đợi một xu hướng thị trường tăng một cách rõ ràng hơn mới gia nhập. Khối lượng giao dịch bình quân mỗi phiên của cả hai sàn trong 11 tháng đạt khoảng 30.3 triệu cổ phiếu và giá trị bình quân khoảng 1,018 tỷ đồng. Trong khi đó con số này trong năm 2009 là 42 triệu cổ phiếu và giá trị giao dịch đạt 1,400 tỷ đồng. Khối lượng giao dịch đạt thấp kỷ lục vào ngày 01/11 với chỉ 18.02 triệu cổ phiếu được chuyển nhượng, và đạt điểm đỉnh vào ngày 07/05 với khối lượng là 105.28 triệu cổ phiếu. Khối ngoại đẩy mạnh mua ròng Một điểm tích cực trong 11 tháng là sự gia tăng của nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN). Thông tin từ Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam (VSD) cho biết, tính đến ngày 30/11/2010, Trung tâm đã cấp mã số giao dịch chứng khoán cho 14,731NĐTNN, trong đó có 1,416 nhà đầu tư tổ chức và 13,315 nhà đầu tư cá nhân. Liên quan đến hoạt động và giao dịch của NĐTNN, một sự ngạc nhiên thú vị là khi các báo cáo của các tổ chức nước ngoài tỏ ra khá bi quan về vấn đề lạm phát, thâm hụt thương mại, lo ngại về chính sách tiền tệ của Việt Nam thì đó cũng là lúc khối ngoại có 7 tháng mua ròng tính tới hết tháng 11. Trong 11 tháng đầu năm, các NĐTNN đã mua 11,572 tỷ đồng. Giao dịch của khối ngoại chiếm trung bình khoảng 6-8% giá trị giao dịch toàn thị trường, họ đã không còn là kim chỉ nam định hướng cho thị trường như trong năm 2009 nữa. Khoảng thời gian gần đây động thái đỡ giá cổ phiếu Bluechip được diễn ra một cách khá lộ liễu. Với động thái mua ròng liên tục trong 7 tháng liền chứng tỏ một sự kỳ vọng của nhà đầu tư nước ngoài vào nền kinh tế Việt Nam trong tương lai gần. Vĩ mô còn nhiều bất ổn Năm 2010 sắp qua đi, một năm chứng khoán gắn liền với chính sách tiền tệ, sự tăng trưởng tín dụng khó khăn của những tháng đầu năm đã hạn chế dòng tiền chảy vào thị trường chứng khoán. Tưởng chừng con số tăng trưởng lạm phát 7% so với năm 2009 dễ dàng đạt được khi 7 tháng đầu năm CPI mới tăng 4.84% và tăng trưởng tín dụng mới có 12.97%. Nhưng những tháng cuối năm lạm phát tăng chóng mặt, tháng 11 tăng gần 2%, tăng trưởng tín dụng tháng 9 lên đến 4.25%. Hiện tại lãi suất cho vay tiêu dùng và sản suất đang ở mức khá cao, giao động ở 15 – 20%. Nhiều ngân hàng lại có “sân chơi sau” khi Nhà nước phát hành ra một lượng trái phiếu chính phủ khổng lồ với lãi suất đủ hấp dẫn. Họ mua trái phiếu chính phủ trên và mang thế chấp trên thị trường mở lấy vốn lãi suất thấp hơn để cho vay hưởng chênh lệch lãi suất. Và đây là mảng nhiều ngân hàng đang hướng tới trong giai đoạn khó khăn này. Với lãi suất đầu ra cao, cộng với sự không mặn mà của các ngân hàng thương mại, nó tạo lực cản cho dòng tiền vào thị trường chứng khoán, tạo nên một thị trường ảm đạm trong những tháng đầu năm. Trong ngắn hạn, việc lãi suất huy động cao cũng tạo ra yếu tố tích cực, giúp thu hút một lượng ngoại tệ rất lớn chảy vào trong nước nhờ chênh lệch lãi suất VND tại Việt Nam và lãi suất của các đồng ngoại tệ tại các nước. Lãi suất của Việt Nam cao gấp 10 lần so với lãi suất USD ở Mỹ, tương tự với đồng Yên nhật. Vì vậy, nhà đầu tư nước ngoài mang ngoại tệ vào Việt Nam đầu tư gián tiếp qua các kênh chứng khoán (một nguyên nhân lý giải cho động thái mua ròng nhà đầu tư nước ngoài những tháng gần đây), tiền gửi ngân hàng Việt Nam… Nhưng nó cũng tiềm ẩn một rủi ro vì đây là khoản đầu tư ngắn hạn, có tính thanh khoản cao nên khi có biến họ có thể dễ dàng rút tiền ra khỏi hệ thống và làm xáo trộn thị trường ngoại hối của Việt Nam. Nỗi ám ảnh mang tên… 13 Thông tư 13 được đưa ra vào tháng 5/2010 với thời hạn áp dụng dự kiến vào ngày 01/10/2010. Vào thời điểm đó nhà đầu tư dường như không để ý tới nội dung của thông tư này. Nhưng càng đến gần ngày áp dụng, nó lại là nguyên nhân chính gây nên một đợt sóng giảm dài và mạnh trên thị trường từ giữa tháng 7 đến gần cuối tháng 8. Không loại trừ tác động của những “nhà tạo lập thị trường” muốn té nước theo mưa, cố tình tạo một tâm lý bi quan cho nhà đầu tư để đẩy thị trường xuống sâu hơn. Sau khi thông tư 19 đưa ra, bổ sung cho những bất cập của thông tư 13 đã giải tỏa tâm lý đang bị đè nặng bởi cái bóng của thông tư 13. Và những con số tích cực được công bố như GDP quý 3 tăng 7.16%, chín tháng đầu năm tăng 6.52%, nhưng cũng không cải thiện được xu hướng giảm với giá trị giao dịch èo uột của thị trường. Với lỗ lực cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước của chính phủ, ngân hàng nhỏ tăng vốn điều lệ lên 3,000 tỷ đồng. Cộng thêm lượng cổ phiếu chia tách, phát hành thêm của các doanh nghiệp đang niêm yết đã tạo nên một lượng cung ồ ạt trên thị trường. Trong khi đó, dòng tiền mới không được bổ sung vào thị trường, lượng tiền ít ỏi hiện tại đang có xu hướng rời bỏ thị trường do không có khả năng kiếm lời đã tạo nên một bức tranh ảm đạm cho thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2010. Điều gì sẽ tác động đến thị trường? Một số nhận định về xu hướng thị trường từ giờ tới cuối năm 2010. Trong đó những yếu tố tích cực và tiêu cực sẽ tác động tới thị trường: Những yếu tố tích cực sẽ tác động tới thị trường trong thời gian tới: - Nền kinh tế thế giới đã bước vào giai đoạn phục hồi sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt nguồn từ Mỹ. Những lạc quan về triển vọng kinh tế thế giới sẽ là cú hích cho sự tăng trưởng của thị trường chứng khoán toàn cầu nói chung và thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng. - Với mục tiêu tăng trưởng GDP 6,5%, Chính phủ thực hiện nhiều giải pháp để kích thích nền kinh tế trong 6 tháng cuối năm. Ngoài ra, việc mặt bằng lãi suất có xu hướng giảm trong thời gian tới, cùng với việc thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bằng VND là những tín hiệu tích cực cho thị trường vốn và thị trường chứng khoán. - Thị trường Việt Nam đang được nhắc đến như là một trong những điểm đến hấp dẫn của dòng vốn đầu tư nước ngoài. Giải ngân vốn đầu tư trực tiếp (FDI) liên tục đạt những kỷ lục mới. Bên cạnh đó, dòng vốn đầu tư gián tiếp (FII) đã đạt mức thặng dư 1,8 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm (thay vì thâm hụt 492 triệu USD cùng kỳ năm 2009) và nhà đầu tư nước ngoài vẫn liên tục có những phiên mua ròng trên thị trường chứng khoán Việt Nam. - Yếu tố tích cực có từ kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết. Đa số các doanh nghiệp niêm yết sẽ có kết quả kinh doanh khả quan và đạt kế hoạch trong năm 2010; đặc biệt là một số ngành như tài chính, vật liệu xây dựng, vận tải biển… Những yếu tố tiêu cực sẽ tác động tới thị trường trong thời gian tới: - Thứ nhất, tình hình nợ công và suy thoái kinh tế tại châu Âu, Mỹ và Nhật, tăng trưởng kinh tế đang trên đà chậm lại tại Trung Quốc, có thể gây nên nhiều bất ổn trên thị trường chứng khoán thế giới, tạo tâm lý tiêu cực lên thị trường chứng khoán trong nước. - Thứ hai, lượng cung hàng hóa tăng cao trong nửa sau của năm trên thị trường, cộng với nhu cầu nâng vốn của nhiều ngân hàng (3.000 tỷ đồng), trong khi lượng tiền vào thị trường vẫn chưa có sự cải thiện rõ rệt. - Thứ ba, một số quan ngại về các vấn đề nội tại của kinh tế Việt Nam như tình trạng thâm hụt mậu dịch vẫn cao gây sức ép lên tỷ giá, điều này vẫn là quan ngại của nhà đầu tư nước ngoài. - Ngoài ra cũng cần kể đến một số vấn đề như vấn đề về tỷ giá do tác động cầu USD trong nước vào thời điểm cuối năm lên cao. Lượng cổ phiếu phát hành thêm sẽ tăng mạnh vào thời điểm cuối năm. Nhà nước cần một lượng tiền lớn để cứu vãn Vinashin. Những kênh đầu tư thay thế như vàng, USD đang hấp dẫn nhà đầu tư… Thị trường có khả năng phục hồi vào tháng 1/2011 Báo Mỹ khuyên nhà đầu tư mua chứng khoán Việt : Việt Nam là thị trường đang nổi lên với tốc độ phát triển nhanh và TTCK của VN là một trong những thị trường rẻ nhất thế giới, vì vậy các NĐT vẫn nên mua CK Việt Nam. Thông tin trên được đăng trên báo Investment U của Mỹ số ra mới đây. Báo trên khuyên các nhà đầu tư nên mua chứng khoán tổng hợp Việt Nam (MarketVectors Vietnam - VNM), loại chứng khoán bắt đầu được giao dịch tại thị trường chứng khoán New York vào tháng 8/2009, với 68% được đầu tư tiếp vào các công ty Việt Nam, số còn lại vào các công ty trên toàn thế giới có hoạt động kinh doanh lớn tại Việt Nam. Báo dẫn lời ông Bill Stoops, quan chức phụ trách đầu tư của công ty Dragon Capital, khẳng định: "Thị trường Việt Nam đã hạ nhiệt nhưng lợi nhuận vẫn đang tăng" vì nền kinh tế Việt Nam được dự báo là sẽ phát triển với tốc độ nhanh thứ ba tại châu Á, sau Trung Quốc và Ấn Độ, và các công ty chứng khoán hy vọng đạt tỷ lệ tăng lợi nhuận trung bình là 27% mỗi cổ phiếu. Báo Investment U thành lập vào năm 1999, có trụ sở tại bang Maryland, chuyên cung cấp các bài viết về tài chính và đầu tư nhằm đưa ra lời khuyên vô tư cho các nhà đầu tư đổ tiền vào các thị trường chứng khoán. Theo báo cáo, kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng tốt trong năm 2011, đạt mức 7,6%. Ngoài ra, năm 2011 sẽ là năm của những cải cách có lợi cho thị trường. Chẳng hạn, Chính phủ đang xem xét điều chỉnh một số quy định trên thị trường chứng khoán như rút ngắn thời gian hoàn tất giao dịch T+2 thay cho T+3, nâng tỉ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, có thể lên 69% (đối với các lĩnh vực không thuộc diện chiến lược). Thêm vào đó, yếu tố chính trị ổn định và thị trường chứng khoán khó giảm sâu so với hiện tại

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctong_hop_ly_thuyet_chung_khoan_2673.doc
Tài liệu liên quan