Việc phân loại các ung thư biểu mô tuyến vùng nối thực quản - dạ dày là việc nên áp
dụng để có cơ sở so sánh với các nghiên cứu khác trên toàn cầu. Với nghiên cứu này cho
thấy theo cách phân loại của Siwert, type I chiếm 8,1%, Type II và III lần lượt là 41,5% và
50,4%. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về độ biệt hóa giữa type I và type II, III, tuy
nhiên thời gian sống thêm giữa các nhóm khác nhau không có ý nghĩa thống kê.
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ung thư biểu mô tuyến (adenocarcinoma) vùng nối giữa thực quản - dạ dày: kết quả điều trị phẫu thuật tại khoa phẫu thuật tiêu hóa bệnh viện Việt Đức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
66 TCNCYH 86 (1) - 2014
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
UNG THƯ BIỂU MÔ TUYẾN (ADENOCARCINOMA) VÙNG NỐI
GIỮA THỰC QUẢN - DẠ DÀY: KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT
TẠI KHOA PHẪU THUẬT TIÊU HÓA BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC
Đỗ Trường Sơn
Trường Đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả phẫu thuật đối với ung thư biểu mô tuyến (UTBMT) vùng nối thực
quản dạ dày (TQ - DD) tại khoa Phẫu thuật tiêu hóa, bệnh viện Việt Đức. Kết quả cho thấy 135 bệnh nhân
gồm 71 nam (52,6%), 64 nữ (47,4%); tuổi trung bình 54,3 ± 13,22 tuổi (19 - 82). Theo phân loại Siwert, type
I có 11 bệnh nhân (8,1%), type II 56 bệnh nhân (41,5%) và type III 68 bệnh nhân (50,4%). Chỉ có độ biệt hóa
là có sự khác biệt có ý nghĩa giữa các nhóm, các yếu tố khác như giới, tuổi, p(T), p(N) và giai đoạn bệnh
khác nhau không có ý ngh ĩa. Tỷ lệ sống 5 năm là 18,8% trong đó nhóm II là 13,2%, nhóm III là 18%. Việc
phân loại các ung thư biểu mô tuyến vùng nối thực quản - dạ dày theo Siwert là có tính khả thi và phù hợp
với các u ở vùng này. Tỷ lệ sống 5 năm ở nghiên cứu là tương đối thấp do đa số bệnh nhân đến viện muộn.
Từ khóa: ung thư vùng nối thực quản - dạ dày, phân loại Siwert, cắt toàn bộ dạ dày
Địa chỉ liên hệ: Đỗ Trường Sơn, Bộ môn Ngoại, trường
Đại Học Y Hà Nội.
Email: dotruongsonn28@gmail.com
Ngày nhận: 23/9/2013
Ngày được chấp thuận: 17/2/2014
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư biểu mô tuyến (adenocarcinoma)
vùng nối thực quản - dạ dày (TQ-DD) được
coi là thể bệnh ung thư đường tiêu hóa có tiên
lượng xấu và tỷ lệ mới mắc đang có xu hướng
gia tăng, nhất là ở các nước phát triển. Đa số
bệnh nhân đến viện với các biểu hiện lâm
sàng ở giai đoạn bệnh tiến triển và khả năng
mổ cắt được u triệt căn chỉ khoảng 50% [1].
Mặc dù về điều trị, ung thư vùng nối thực
quản - dạ dày thuộc nhóm điều trị đa phương
thức nhưng phẫu thuật lấy bỏ u triệt căn, khi
còn cơ hội, vẫn là lựa chọn chính để hy vọng
có thời gian sống thêm lâu dài.
Trong lĩnh vực phẫu thuật, do tổn thương
ác tính phát triển tại vùng giáp ranh giữa thực
quản và dạ dày, hai tạng này nằm ở hai
khoang giải phẫu lớn là lồng ngực và ổ bụng
nên hiện vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến trái chiều
về lựa chọn đường mổ cho phù hợp với loại
ung thư ở vị trí này. Các phẫu thuật viên lồng
ngực thường sử dụng đường mở ngực trong
khi các phẫu thuật viên tiêu hóa lại quen
đường mở bụng. Chính do vậy đã có khá
nhiều phương pháp mổ khác nhau cho các
ung thư vùng nối thực quản - dạ dày đã được
đề xuất và thực hiện như cắt thực quản qua
đường ngực hoặc qua lỗ hoành, cắt toàn bộ
dạ dày hoặc cắt dạ dày cực trên (phẫu thuật
Sweet) qua đường bụng hoặc qua đường
ngực trái. Cũng có nhiều ý kiến khác nhau về
mức độ rộng cắt bỏ u, đa số khuyến cáo nên
cắt mở rộng (extended resection) kèm theo
nạo vét hạch D2 để đảm bảo 2 mép cắt trên
và dưới của phần thực quản - dạ dày cắt bỏ
không còn tế bào ung thư (R0). Tóm lại, nhiều
ý kiến khác nhau về việc phân định các ung
thư biểu mố tuyến (UTBMT) ở vùng nối giữa
thực quản - dạ dày [2], thường xếp chung vào
một chẩn đoán là ung thư tâm vị, từ đó có
những quyết định về phương pháp mổ không
phù hợp, khó cho việc so sánh các thông tin
khoa học liên quan giữa các nhà nghiên cứu.
Chính vì vậy, tại Hội nghị khoa học của Hiệp
TCNCYH 86 (1) - 2014 67
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2014
hội ung thư dạ dày quốc tế và Hiệp hội bệnh
thực quản quốc tế họp tại Munich tháng
4/1997, các chuyên gia đã nhất trí chọn định
nghĩa và phân loại của Siwert [3] làm cơ sở để
nghiên cứu và báo cáo thông tin về điều trị
bệnh ung thư tâm vị. Nghiên cứu này nhằm
mục tiêu mô tả một số đặc điểm lâm sàng mô
bệnh học và kết quả điều trị phẫu thuật của
các ung thư biểu mô tuyến vùng nối dạ dày -
thực quản theo phân loại của Siwert tại Khoa
Phẫu thuật tiêu hóa, bệnh viện Việt Đức.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Bao gồm những bệnh nhân được chẩn
đoán là ung thư vùng nối giữa thực quản - dạ
dày và được mổ cắt u với ý đồ triệt căn, tại
khoa Phẫu thuật tiêu hóa, bệnh viện Việt Đức
trong khoảng thời gian từ tháng 1/2004 đến
tháng 12/2011.
Tiêu chuẩn chọn vào nhóm nghiên cứu:
- Vị trí tổn thương: tâm của khối u hay loét
phải nằm trong phạm vi 5cm trên và 5cm dưới
so với đường Z, đường phân định ranh giới
giữa niêm mạc thực quản và dạ dày.
- Có xác nhận kết quả giải phẫu bệnh là
adenocarcinome.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Xét nghiệm giải phẫu bệnh trả lời ung thư
biểu mô vẩy (squamous cell carcinoma).
- Ung thư đồng thời ở nhiều vị trí khác
nhau.
2. Phương pháp
Mô tả hồi cứu dựa trên cơ sở dữ liệu
(database) về ung thư dạ dày thực quản tại
khoa Phẫu thuật tiêu hóa, bệnh viện Việt Đức.
Phân loại ung thư vùng nối thực quản - dạ
dày theo Siwert: Type I, ung thư biểu mô
tuyến ở đầu xa của thực quản có tâm của u
nằm trong phạm vi từ 1 - 5 cm cách đường nối
giải phẫu giữa thực quản - dạ dày; type II: ung
thư tâm vị chính cống, có tâm u nằm trong
phạm vi 1 cm trên và 2 cm dưới đường nối
tiếp thực quản - dạ dày; type III: ung thư dưới
tâm vị, tâm của u nằm trong phạm vi 2 - 5 cm
cách dưới đường nối thực quản - dạ dày.
Phân loại độ biệt hóa và giai đoạn ung thư
(TNM) theo hướng dẫn của AJCC/UICC sửa
đổi phiên bản 7 năm 2009 [4].
Phẫu thuật triệt căn (R0) được định nghĩa
là không còn tổn thương ung thư khi kết thúc
cuộc mổ (cả về vi thể lẫn đại thể); R1: ở mép
cắt trên hoặc dưới của bệnh phẩm cắt bỏ,
mắt thường không nhìn thấy tổn thương
nhưng vi thể có thấy tế bào u; R2: mắt
thường đã phát hiện được tổn thương u ở 2
mép trên hoặc dưới.
3. Xử lý số liệu
Các số liệu được trình bày dưới dạng các
tỷ lệ % hoặc trung bình (± độ lệch chuẩn), giá
trị tối thiểu, tối đa; các biến liên tục được so
sánh bằng test Mann-Whitney; biến thứ hạng
được so sánh bằng test χ2; thời gian sống
thêm toàn bộ (OS, overall survival) tính theo
Kaplan-Meier, có sử dụng test log-rank để so
sánh các đường biểu diễn xác suất sống thêm
sau mổ với mức ý nghĩa khi p ≤ 0,05. Quá
trình phân tích có sử dụng phần mềm tính
toán SPSS 13.0.
4. Đạo đức nghiên cứu
Đây là một nghiên cứu quan sát, hoàn toàn
không có can thiệp mới, dựa trên các dữ liệu
hồ sơ bệnh nhân đã được phẫu thuật điều trị
ung thư vùng thực quản - dạ dày theo qui định
thường qui tại khoa Phẫu thuật tiêu hóa, bệnh
viện Việt Đức. Mục đích của nghiên cứu này
nhằm phân tích các yếu tố tác động đến kết
quả điều trị của người bệnh nhằm nâng cao
hơn nữa hiệu quả chữa bệnh trong tương lai.
68 TCNCYH 86 (1) - 2014
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Nghiên cứu này tuân thủ các qui định về Đạo
đức cho một nghiên cứu quan sát, đảm bảo
quyền tự quyết định của đối tượng khi tham
gia phỏng vấn để lấy thông tin sau mổ; không
công bố danh tính của người bệnh trong các
báo cáo khi công bố, và đã được Thường trực
Hội đồng Đạo đức cấp cơ sở bệnh viện Việt
Đức chấp thuận.
III. KẾT QUẢ
Trong 8 năm (1/2004 - 12/2011) đã có 135
bệnh nhân đủ tiêu chuẩn chọn vào nghiên cứu
này, gồm 71 nam (52,6%) và 64 nữ (47,4%);
tuổi trung bình 54,3 ± 13,22 tuổi (19 - 82).
Theo phân loại Siwert, type I có 11 bệnh nhân
(8,1%), type II 56 bệnh nhân (41,5%) và type
III 68 bệnh nhân (50,4%).
Không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống
về giới, tuổi của bệnh nhân thuộc các type
phân loại nêu trên, cụ thể lần lượt cho các
type I, II, III về giới có tỷ lệ nam: nữ là 1.2:1,
1.1:1, 1.3:1, và tuổi trung bình là 49,2 ± 15,24;
56,7 ± 13,87; 53,2 ± 12,12 (p = 0,142). Các
yếu tố khác như độ xấm lấn u (pT), hạch di
căn (pN) và giai đoạn bệnh cũng đều không
có sự khác biệt giữa các nhóm I, II, III; chỉ có
độ biệt hóa là có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa các nhóm này (bảng 1).
Bảng 1. Một số đặc điểm giải phẫu bệnh lâm sàng của các nhóm
Đặc điểm
Type I
n1 (%)
Type II
n2 (%)
Type III
n3 (%)
p
Độ biệt hóa
Mạnh
Vừa
kém
5 (45,5)
4 (36,4)
2 (18,2)
7 (12,5)
26 (46,4)
23 (41,1)
21 (15,6)
54 (40,0)
50 (44,4)
0,033
Xếp loại pT
T2
T3
T4
1 (9,1)
4 (36,4)
6 (54,5)
3 (5,4)
19 (33,9)
34 (60,7)
7 (10,3)
28 (41,2)
33 (48,5)
0,697
Xếp loại pN
N0
N1
N2
N3
0
4 (36,4)
5 (45,5)
2 (18,1)
8 (14,3)
18 (32,1)
13 (23,2)
17 (30,4)
13 (19,1)
19 (27,9)
23 (37,9)
13 (19,1)
0,194
Giai đoạn bệnh
IIb
IIIa
IIIb
IIIc
IV
1 (9,1)
3 (27,2)
1 (9,1)
5 (45,5)
1 (9,1)
8 (14,3)
4 (7,1)
8 (14,3)
35 (62,5)
1 (1,8)
16 (23,5)
9 (13,2)
9 (13,2)
28 (41,2)
6 (8,2)
0,194
Chỉ có độ biệt hóa là có ý nghĩa thống kê trong số các nhóm.
TCNCYH 86 (1) - 2014 69
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2014
Các phương pháp phẫu thuật đã áp dụng
Chủ yếu và nhiều nhất là cắt toàn bộ dạ
dày (TBDD) với 129 bệnh nhân (95,6%) trong
đó có 18 bệnh nhân (13,3%) có cắt kèm theo
một hoặc 2 tạng khác như lách, thân đuôi tụy,
cắt gan hạ phân thùy II, III (do có nhân di căn),
buồng trứng, nhiều nhất là cắt lách kèm theo
(15/135 bệnh nhân). Có 2 trường hợp cắt làm
phẫu thuật Sweet qua đường bụng (1,5%) và
4 trường hợp (3%) làm phẫu thuật Lewis
Santy (cắt thực quản và cực trên dạ dày,
miệng nối thực quản - dạ dày trong lồng ngực
qua đường mở bụng và ngực phải). Trong số
129 bệnh nhân cắt toàn bộ dạ dày có 15 bệnh
nhân (11,6%) được mổ bằng phẫu thuật nội
soi hỗ trợ, chủ yếu là những bệnh nhân thuộc
giai đoạn tương đối sớm (IIb hoặc IIIa) và
thuộc type II hoặc III.
Xét theo các tiêu chuẩn mổ triệt căn, chỉ có
66 bệnh nhân (48,9%) đạt loại R0, trong đó
type I có 3 bệnh nhân, type II 26 bệnh nhân và
type III 37 bệnh nhân. Sự khác biệt giữa các
nhóm không có ý nghĩa thống kê (p = 0,462).
Biến chứng và tử vong trong vòng 30
ngày sau mổ
Tỷ lệ biến chứng chung cho cả các nhóm
là 9,6% (13/135 bệnh nhân), trong đó viêm
phúc mạc do bục miệng nối có 2 trường hợp
(1,5%), áp xe tồn dư trong ổ bụng 2 bệnh
nhân, áp xe dưới cơ hoành 1 bệnh nhân, áp
xe thành bụng 2 bệnh nhân, tràn dịch màng
phổi 3 bệnh nhân và tràn máu màng phổi 2
bệnh nhân. Đặc biệt có một trường hợp viêm
phổi sau mổ dẫn đến suy thở và tử vong vào
ngày thứ 12 sau mổ.
Tử vong sau mổ có một bệnh nhân (0,7%),
72 tuổi, mổ cắt toàn bộ dạ dày qua đường
bụng, sau mổ bị viêm phổi dẫn đến suy thở và
tử vong.
Kết quả theo dõi xa sau mổ
Tính chung cho cả 3 nhóm, thời gian sống
thêm trung vị (median) của ung thư vùng nối
thực quản - dạ dày là 16 tháng (95% CI:
13,389 - 18,611). Thời gian này có liên quan
rất rõ đến giai đoạn bệnh (biểu đồ 1).
Biểu đồ 1. Xác xuất sống thêm theo giai đoạn bệnh
Log-rank test, p < 0,001.
70 TCNCYH 86 (1) - 2014
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bảng 2. Thời gian sống thêm theo các nhóm (Siwert types)
Type Siwert
Thời gian sống thêm trung vị (median) của các nhóm
Ước lượng Sai số chuẩn 95% CI
Type I
Type II
Type III
Chung 3 nhóm
12 tháng
13 tháng
18 tháng
16 tháng
2,752
1,247
1,123
1,332
6,605 - 17,395
10,555 - 15,445
15,798 - 20,202
13,389 - 18,611
Chưa phát hiện thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về sống thêm (trung vị) giữa các
nhóm theo phân loại Siwert.
Biểu đồ 2. Sống thêm của các nhóm theo phân loại Siwert
Log-rank test, p = 0,121.
Không phát hiện thấy sự khác biệt về thời gian sống thêm theo các nhóm.
IV. BÀN LUẬN
Phân loại các ung thư biểu mô tuyến tại
vùng nối thực quản - dạ dày của Siwert đã và
đang được chấp nhận và sử dụng rộng rãi
trong các báo cáo liên quan trên toàn thế giới
[5]. Tại Việt nam, cách phân loại này còn rất ít
được quan tâm sử dụng và cũng chưa có
công bố khoa học nào nào về đánh giá kết
quả xa sau mổ có sử dụng phân loại này.
Kết quả này của chúng tôi cho thấy, có 11
bệnh nhân (8,1%) trong nhóm I, 56 bệnh nhân
(42,5%) nhóm II và 68 bệnh nhân (50,4%)
nhóm III. Như vậy nhóm I (type I Siwert) là rất
thấp so với nhóm II và III. Tỷ lệ này thấp hơn
so với tác giả Ji-Gang Bai [6], Trung Quốc
(19,2%) nhưng lại quá cao so với số liệu công
bố của Takashi Ichikura [7], Nhật Bản (trong
số 65 bệnh nhân chỉ có 1 bệnh nhân - 1,5%
TCNCYH 86 (1) - 2014 71
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2014
thuộc type I). Sự khác biệt này có lẽ là do
cách nhận định bệnh phẩm sau khi mổ còn
chưa nhất quán.
Về đặc điểm lâm sang - mô bệnh học,
chúng tôi thấy đa số bệnh nhân được mổ là
đã ở giai đoạn muộn: 30,4% là giai đoạn IIa,
IIb và IIIa; Các giai đoạn IIIb, IIIc và IV chiếm
tới 69,6% số trường hợp. Chúng tôi không
thấy có sự khác biệt có ý nghĩa giữa các
nhóm như giới, tuổi, mức độ xấm lấn u (pT),
mức di căn hạch (pN) và giai đoạn bệnh
(theo phân loại của AJCC/UICC 7th), ngoại
trừ độ biệt hóa là có khác biệt có ý nghĩa
thống kê, trong đó độ biệt hóa mạnh của
nhóm I là cao nhất (45,5% biệt hóa mạnh) và
độ biệt hóa kém hay không biệt hóa thì nhóm
III là nhiều nhất (44,4% biệt hóa kém).
Về các phương pháp phẫu thuật chung
cho cả 3 nhóm thì cắt toàn bộ dạ dày là chiếm
đa số (129 bệnh nhân chiếm 95,6%) và chủ
yếu là đường mổ bụng đơn thuần, chỉ 4/135
trường hợp sử dụng đường mở ngực để
làm phẫu thuật Lewis Santy. Số trường hợp
mổ đạt tiêu chuẩn triệt căn (R0) chỉ đạt
66/135 bệnh nhân (48,9%), hơn 50% số
trường hợp chỉ đạt mức R1 hoặc R2 (còn
thấy tế bào ung thư trên diện cắt khi làm xét
nghiệm vi thể hoặc thấy rõ tổn thương u
trong khi mổ phải để lại). Có 8 bệnh nhân
(5,9%) khi mổ phát hiện có nhân di căn nhỏ
ở gan mà khối u vẫn còn khả năng cắt
được, các trường hợp này được coi như mổ
mang tính “tạm thời” (palliative). Tổng số
hạch vét được cho 135 bệnh nhân là 222
hạch trong đó tổng số hạch có di căn là 627
hạch. Như vậy số hạch trung bình lấy được
là 16,5 ± 6,00 (3 - 35 hạch), số hạch di căn
trung bình là 4,6 ± 4,10 hạch.
Kết quả sống thêm toàn bộ sau mổ trong
nghiên cứu này là không cao, tỷ lệ sống 5
năm tính chung cả 3 nhóm là 18,8%, trong đó
nhóm II là 13,2%, nhóm 3 là 18,0% (p > 0,05).
Riêng nhóm I trong số 11 bệnh nhân đã có 9
bệnh nhân tử vong với thời gian sống thêm
trung bình là 10,7 tháng (4 - 18 tháng), hai
bệnh nhân còn lại vẫn còn đang sống với thời
gian theo dõi là 26 và 30 tháng.
V. KẾT LUẬN
Việc phân loại các ung thư biểu mô tuyến
vùng nối thực quản - dạ dày là việc nên áp
dụng để có cơ sở so sánh với các nghiên cứu
khác trên toàn cầu. Với nghiên cứu này cho
thấy theo cách phân loại của Siwert, type I
chiếm 8,1%, Type II và III lần lượt là 41,5% và
50,4%. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
về độ biệt hóa giữa type I và type II, III, tuy
nhiên thời gian sống thêm giữa các nhóm
khác nhau không có ý nghĩa thống kê. Cần
tiếp tục tiến hành những nghiên cứu sâu hơn
với số lượng bệnh nhân nhiều hơn để có thể
khẳng định lợi ích của cách phân loại này đối
với các ung thư biểu mô tuyến vùng nối giữa
thực quản và dạ dày.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Crew KD, Neugut AI (2004). Epidemiol-
ogy of upper gastrointestinal malignancies,
Semin Oncol, 31, 450 - 464.
2. Marsman WA, Tytgat GNJ, Ten Kate
FJW, van Lanschot JJB (2005). Differences
and similarities of adenocarcinoma of the
esophagus and esophagogastric junction. J
Surg Oncol, 92, 160 - 168.
3. Siewert JR, Stein HJ (1996). Adenocar-
cinoma of the gastroesophageal junction: clas-
sification, pathology and extent of resection.
Dis Esophagus, 9, 173 - 182.
4. Edge SB, Byrd DR, Compton CC et al
(2009). AJCC Cancer Staging Manual 7th ed.
New York: Springer.
72 TCNCYH 86 (1) - 2014
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
5. Hiroaki Ito,Haruhiro Inoue, Noriko
Odaka et al (2013). Comparison of Clinicopa-
thological Characteristics in the Patients with
Cardiac Cancer with or without Esophagogas-
tric Junctional Invasion: ASingle-Center Retro-
spective Cohort Study. International Journal of
Surgical Oncology Article ID 189459, 7 pages
6. Ji-Gang Bai,Yi Lv and Cheng-Xue
Dang (2006). Adenocarcinoma of the
Esophagogastric Junction in China According
to Siewert’s Classification, Jpn J Clin Oncol;
36(6), 364 - 367.
7. Takashi Ichikura, M.D., Toshiya
Ogawa, M.D., Toshinobu Kawabata, M.D
et al (2003). Is Adenocarcinoma of the Gastric
Cardia a Distinct Entity Independent of
Subcardial Carcinoma? World J. Surg. 27,
334 - 338.
Summary
ADENOCARCINOMA OF THE ESOPHAGOGASTRIC JUNCTION:
OUTCOMES OF SURGICAL TREATMENT AT THE DEPARTMENT OF
DIGESTIVE SURGERY, VIET DUC HOSPITAL
The objective of this study was to evaluate the surgical outcomes of adenocarcinoma at
esophago-gastric junction by long-term follow-up after surgery. The results showed that there
were 135 patients involved this study, which consisted of 72 male (52.6%) and 64 female patients
(47.4%). The median age was 54.3 ± 13.22 years old (19 - 82). According to Siwert classification,
11 patients were classified as having type I (8.1%), 56 patients had type II (41.5%) and 68
patients had type III (50.4%) adenocarcinoma at the esophagogastric junction. Only the differen-
tiation grading was significantly different between these groups. Other characteristic such as
gender, age, p (T), p (N) and disease staging were insignificantly different. The overall 5-years
survival rate of the whole study was 18.8% with 13.2% in type II and 17% in type III. In conclusion,
The Siwert classification for adenocarcinoma of esophagogastric junction was feasible and appro-
priate to carcinoma of this area. The 5-years survival rate of the patients in this study was rela-
tively low due to advanced diseases.
Keywords: EGJ carcinoma, Siwert classification, total gastrectomy
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21_67_1_pb_0022.pdf