Tỷ lệ biến chứng nặng ở bệnh nhân viêm cầu thận lupus là 6,2%, 93,8% bệnh nhân
viêm cầu thận lupus được thực hiện sinh thiết an toàn không có biến chứng nặng. Yếu
tố nguy cơ với việc xuất hiện biến chứng nặng là số lượng tiểu cầu thấp, biến chứng
nặng xuất hiện 100% ở nhóm có số lượng tiểu cầu < 150 G/l khi vào viện và OR = 36,29
khi so sánh với nhóm có số lượng tiểu cầu ≥ 150 G/l, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0,018.
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỷ lệ và một số yếu tố liên quan với biến chứng sinh thiết thận qua da ở bệnh nhân viêm cầu thận lupus, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
24 TCNCYH 86 (1) - 2014
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Địa chỉ liên hệ: Vương Tuyết Mai, bộ môn Nội tổng hợp,
trường đại học Y Hà Nội
Email: vuongtuyetmai@gmail.com
Ngày nhận: 25/9/2013
Ngày được chấp thuận: 17/2/2014
TỶ LỆ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN VỚI BIẾN CHỨNG
SINH THIẾT THẬN QUA DA Ở BỆNH NHÂN VIÊM CẦU THẬN LUPUS
Vương Tuyết Mai1, Kim Ngọc Thanh2
1Trường Đại học Y Hà Nội; 2Bệnh viện Bạch Mai
Nghiên cứu được tiến hành nhằm tìm hiểu tỷ lệ biến chứng sinh thiết thận và một số yếu tố liên quan với
xuất hiện biến chứng ở bệnh nhân viêm cầu thận lupus. 81 bệnh nhân được chẩn đoán xác định viêm cầu
thận lupus và thực hiện sinh thiết thận tại khoa Thận - Tiết niệu, bệnh viện Bạch Mai. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, bệnh nhân được thực hiện sinh thiết an toàn là 93,8%. Tỷ lệ biến chứng nặng chiếm tỷ lệ 6,2%,
trong đó tụ máu dưới bao thận chiếm 3,7% và đái máu đại thể chiếm 2,5%. Yếu tố nguy cơ cho việc xuất
hiện biến chứng nặng là số lượng tiểu cầu thấp, biến chứng nặng xuất hiện 100% ở nhóm có số lượng tiểu
cầu < 150 G/l khi vào viện và OR = 36,29 khi so sánh với nhóm có số lượng tiểu cầu ≥ 150 G/l
(p = 0,018).
Từ khoá: sinh thiết thận, viêm cầu thận lupus
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sinh thiết thận qua da là kỹ thuật thăm dò
được áp dụng lấy mảnh tổ chức thận để đánh
giá tổn thương mô bệnh học thận, điều này có
vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc chẩn
đoán, điều trị và tiên lượng cho nhóm bệnh
cầu thận. Sinh thiết thận được áp dụng trong
hơn một thế kỷ và kỹ thuật sinh thiết thận qua
da được tiến hành từ những năm 1940. Năm
1950, Pezer là người đầu tiên sinh thiết thận
qua da để tìm hiểu những tổn thương và
chẩn đoán bệnh thận [1; 2]. Nhờ tiến bộ trong
khoa học kỹ thuật, kỹ thuật sinh thiết thận
được tiến hành dưới hướng dẫn siêu âm và
sử dụng súng sinh thiết tự động vào cuối
năm những năm 1980 [3]. Cho đến nay, kỹ
thuật sinh thiết thận không ngừng được cải
tiến, giúp việc xác định vị trí sinh thiết trở nên
chính xác, đơn giản, dễ thực hiện, mà an
toàn và hiệu quả cao. Tuy nhiên do sinh thiết
thận là kỹ thuật xâm nhập nên vẫn có nguy cơ
xảy ra biến chứng trong và sau sinh thiết thận
đặc biệt chú ý là nhóm viêm cầu thận lupus.
Viêm cầu thận lupus thuộc nhóm bệnh tự
miễn do sự rối loạn của quá trình đáp ứng
miễn dịch. Hậu quả là khi các phức hợp miễn
dịch lưu hành trong máu sẽ đi đến các cơ
quan khác nhau và khởi động quá trình viêm
tại cơ quan đó, gây ra bệnh cảnh lâm sàng
mang tính chất tổn thương hệ thống và đa
dạng của lupus. Sự lắng đọng phức hợp miễn
dịch tại cầu thận gây hoạt hóa bổ thể, kích
thích các bạch cầu, giải phóng các chất trung
gian hóa học và các cytokine gây tổn thương
cầu thận, hậu quả dẫn đến tổn thương màng
đáy, tăng sinh tế bào ngoại mạch gây xơ hóa
cầu thận.
Sinh thiết thận đóng vai trò quan trọng
trong tìm hiểu tổn thương tại thận ở viêm cầu
thận lupus. Ngày nay, sự an toàn và tỷ lệ biến
chứng của thủ thuật sinh thiết thận có cải
thiện, tuy nhiên vẫn có những biến chứng xuất
hiện đặc biệt ở nhóm bệnh nhân viêm cầu
thận lupus. Các biến chứng quan trọng của
sinh thiết thận thường liên quan đến chảy
máu: đái máu đại thể, tụ máu nơi chọc và
quanh thận, rò động tĩnh mạch trong thận
TCNCYH 86 (1) - 2014 25
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2014
Một số nghiên cứu ghi nhận tỉ lệ biến chứng
nặng sau sinh thiết thận ở bệnh nhân viêm
cầu thận lupus dao động 0 - 6,4%; đặc biệt là
các biến chứng liên quan đến chảy máu [2].
Một số ý kiến cho rằng bệnh nhân viêm cầu
thận lupus nguy cơ biến chứng chảy máu khi
sinh thiết thận tăng cao hơn các trường hợp
khác do rối loạn chức năng tiểu cầu và/hoặc
do có những rối loạn đông máu khác. Do đó
nghiên cứu được thực hiện nhằm mục tiêu:
Xác định tỷ lệ biến chứng sinh thiết thận và
một số yếu tố liên quan với xuất hiện biến
chứng ở bệnh nhân viêm cầu thận lupus.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Nghiên cứu thực hiện trên tổng số 81 bệnh
nhân viêm cầu thận lupus: nghiên cứu tiến
cứu được thực hiện trên 26 bệnh nhân từ
12/2011 - 7/2012 và hồi cứu 55 bệnh nhân từ
1/2008 - 11/2011. Các thông số được thu thập
theo mẫu thống nhất ở tất cả các đối tượng
nghiên cứu.
2. Phương pháp
Bệnh nhân được chẩn đoán xác định viêm
cầu thận lupus và thực hiện sinh thiết tại khoa
Thận - Tiết niệu, bệnh viện Bạch Mai. Tiêu
chuẩn chẩn đoán xác định viêm cầu thận
lupus theo 4/11 tiêu chuẩn của ACR năm
1997 [4] và có protein niệu ≥ 0,5g/24h. Sinh
thiết thận qua da dưới hướng dẫn siêu âm
được thực hiện bằng súng tự động Bard®
Magnum® tại Khoa Thận - Tiết niệu, bệnh viện
Bạch Mai. Bệnh nhân viêm cầu thận lupus chỉ
được thực hiện sinh thiết thận khi không có
chống chỉ định sinh thiết thận. Không sinh thiết
thận các trong trường hợp sau: tăng huyết áp
không khống chế; rối loạn đông cầm máu;
thận xơ hóa trong bệnh thận giai đoạn cuối;
hoặc chỉ có một thận duy nhất.
Đánh giá biến chứng của sinh thiết thận:
Biến chứng nặng được định nghĩa là đái máu
đại thể, hoặc bệnh nhân có máu tụ, hoặc chảy
máu đến mức ảnh hưởng đến huyết động cần
truyền máu và/hoặc nút thông động tĩnh mạch,
can thiệp ngoại khoa [5].
3. Xử lý số liệu: các thông tin thu thập
theo mẫu bệnh án nghiên cứu. Các số liệu
được mã hóa và xử lý bằng chương trình
SPSS 17.0.
4. Đạo đức nghiên cứu
Qui trình kỹ thuật sinh thiết thận trong
nghiên cứu đã được thông qua hội đồng
nghiệm thu kỹ thuật của Bộ Y tế và thực hiện
thường qui ở khoa Thận - Tiết niệu bệnh viện
Bạch Mai. Các xét nghiệm đông máu cơ bản,
xét nghiệm đánh giá chức năng thận và các
xét nghiệm máu cũng như nước tiểu sử dụng
trong nghiên cứu cũng là những xét nghiệm
thường qui trong thực hành lâm sàng ở bệnh
nhân viêm cầu thận lupus nhằm phục vụ chẩn
đoán, điều trị và tiên lượng cho bệnh nhân.
III. KẾT QUẢ
Tỷ lệ biến chứng gặp ngay sau sinh thiết là
bí đái, chiếm 6,2% (n = 5), đau nhiều vùng
sinh thiết là 4,9% (n = 4), sốt là 2,5% (n = 2).
Tụ máu dưới bao thận gặp ở 3 bệnh nhân,
chiếm 3,7% và đái máu đại thể gặp ở 2 bệnh
nhân, chiếm 2,5%. Các biến chứng nặng
khác như đái máu nặng cần truyền máu, dò
động tĩnh mạch, can thiệp ngoại khoa không
gặp trong nhóm bệnh nhân nghiên cứu của
chúng tôi (bảng 1).
Tỷ lệ biến chứng nặng chiếm 6,2% (n = 5)
bao gồm đái máu đại thể 2,5% (n = 2) và tụ
máu dưới bao thận 3,7% (n = 3). Như vậy
93,8% (n = 76) bệnh nhân được thực hiện
sinh thiết an toàn không có biến chứng nặng.
26 TCNCYH 86 (1) - 2014
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bảng 1. Tỷ lệ xuất hiện biến chứng sau sinh thiết thận
Biến chứng Số bệnh nhân (n = 81) %
Chảy máu vị trí sinh thiết 0 0
Đái máu đại thể 2 2,5
Tụ máu dưới bao thận 3 3,7
Dò động tĩnh mạch 0 0
Can thiệp ngoại khoa 0 0
Truyền máu 0 0
Sốt 2 2,5
Vô niệu 0 0
Bí đái 5 6,2
Đau vùng sinh thiết 4 4,9
Bảng 2. Tần xuất xuất hiện biến chứng nặng và huyết áp
Huyết áp tâm thu (mmHg)
Biến chứng nặng
Tổng số
OR
95% CI
(khoảng tin cậy)
p
Không Có
< 140 mmHg
Số bệnh nhân 52 3 55 1
(Reference) % 94,5% 5,5% 100%
140 - 160 mmHg
Số bệnh nhân 21 0 21 0,35
(0,017 - 7,045) 0,49 % 100% 0 100%
> 160 mmHg
Số bệnh nhân 4 1 5 4,33
(0,362 - 51,808) 0,25 % 80% 20% 100%
Tổng số
Số bệnh nhân 77 4 81
NS % 95,1% 4,9% 100%
*NS: Non significant (không có ý nghĩa thống kê).
Nhóm bệnh nhân có HATT > 160 mmHg khi vào viện có tỷ lệ biến chứng nặng cao nhất là
20% (n = 1/5). Trong khi nhóm bệnh nhân có HATT < 140 mmHg có tỷ lệ biến chứng nặng là
5,5% (n = 3/55). Tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
TCNCYH 86 (1) - 2014 27
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2014
Bảng 3. Tần xuất xuất hiện biến chứng nặng ở nhóm phân loại mức lọc cầu thận
Phân loại mức lọc cầu thận
(ml/phút/1,73m2)
Biến chứng nặng
Tổng số OR 95% CI (khoảng tin cậy)
P value Không Có
≥ 90
Số bệnh nhân 11 0 11
1 (Reference)
% 100% 0 100%
60 - 89
Số bệnh nhân 11 2 13 5
(0,215 - 116,042) 0,32 % 84,6% 15,4% 100%
30 - 59
Số bệnh nhân 23 0 23 0,49
(0,009 - 26,267) 0,73 % 100% 0 100%
15 - 29
Số bệnh nhân 18 0 18 0,62
(0,012 - 33,551) 0,82 % 100% 0 100%
< 15
Số bệnh nhân 14 2 16 3,97
(0,173 - 91,025) 0,39 % 87,5% 12,5% 100%
Tổng số
Số bệnh nhân 77 4 81
NS
% 95,1% 4,9% 100%
*NS: Non significant (không có ý nghĩa thống kê).
Sự khác biệt về tỷ lệ biến chứng nặng gặp ở các nhóm bệnh thận mạn ở các giai đoạn 1 đến
5 khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 4. Tần xuất xuất hiện biến chứng nặng ở những bệnh nhân có mức lọc cầu thận
< 60 ml/phút/1,73m2so với nhóm có mức lọc cầu thận ≥ 60 mml/phút/1,73m2
Mức lọc cầu thận ước tính
(mml/phút/1,73m2)
Biến chứng nặng
Tổng số OR 95% CI (khoảng tin cậy) p Không Có
≥ 60 ml/phút/1,73m2
Số bệnh nhân 22 2 24
1 (Reference)
% 91,7% 8,3% 100%
< 60 ml/phút/1,73m2
Số bệnh nhân 55 2 57 0,4
(0,053 - 3,020) 0,37 % 96,5% 3,5% 100%
Tổng số
Số bệnh nhân 77 4 81
NS
% 95,1% 4,9% 100%
*NS: Non significant (không có ý nghĩa thống kê).
Biến chứng nặng xảy ra ở cả 2 nhóm bệnh nhân và sự khác biệt giữa hai nhóm không có ý
nghĩa thống kê.
28 TCNCYH 86 (1) - 2014
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bảng 5. Tần suất xuất hiện biến chứng nặng và số lượng tiểu cầu
Số lượng tiểu cầu
Biến chứng nặng
Tổng số OR 95% CI (khoảng tin cậy)
p Không Có
≥ 150 G/l
Số bệnh nhân 62 0 62 1
(Reference) % 100% 0 100%
< 150 G/l
Số bệnh nhân 15 4 19 36,29
(1,854 - 710,385) 0,018 % 78,9% 21,1% 100%
Tổng số
Số bệnh nhân 77 4 81
% 95,1% 4,9% 100%
100% bệnh nhân có biến chứng nặng đều có số lượng tiểu cầu < 150 G/l khi vào viện và ở
nhóm có giá trị tiểu cầu thấp này OR = 36,29 khi so sánh với nhóm có số lượng tiểu cầu
≥ 150 G/l. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0,018.
IV. BÀN LUẬN
Biến chứng nặng trong và sau sinh thiết
thận là hiếm khi xảy ra nhưng vẫn có thể có
biến chứng dẫn đến việc mất thận thậm chí tử
vong cho bệnh nhân [6; 7], do vậy việc lựa
chọn bệnh nhân trước khi tiến hành sinh thiết
đóng một vai trò quan trọng trong việc phòng
tránh các biến chứng. Không chỉ ở những
bệnh nhân viêm cầu thận lupus mà ở tất cả
các trường hợp bệnh cầu thận trước khi thực
hiện sinh thiết thận, bệnh nhân bắt buộc phải
được đánh giá về tình trạng có xuất huyết hay
không, việc sử dụng thuốc chống viêm không
steroid trong thời gian gần với thời điểm sinh
thiết, kiểm soát tăng huyết áp, khả năng tuân
thủ của bệnh nhân theo các hướng dẫn trong
quá trình sinh thiết và tình trạng nhiễm trùng,
ví dụ như kiểm tra xem bệnh nhân có viêm
thận bể thận hoặc viêm ngoài da ở gần chỗ
chuẩn bị làm sinh thiết hay không [8].
Trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi,
các biến chứng nặng như đái máu nặng cần
truyền máu, dò động tĩnh mạch, can thiệp
ngoại khoa không gặp trong nhóm bệnh nhân
nghiên cứu của chúng tôi. Tỷ lệ biến chứng
nặng được tính là đái máu và tụ máu dưới
bao thận chiếm 6,2%, như vậy 93,8% bệnh
nhân viêm cầu thận lupus được thực hiện sinh
thiết an toàn không có biến chứng nặng. Biến
chứng thông thường ngay sau sinh thiết là bí
đái, chiếm 6,2%, đau nhiều vùng sinh thiết là
4,9%, sốt là 2,5%.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
rằng sinh thiết thận qua da có khả năng gây
đau và có bệnh nhân cần dùng thuốc giảm
đau, tuy nhiên chúng tôi cũng không đánh giá
được cụ thể các mức độ đau trong số 4,9%
bệnh nhân kêu đau vùng sinh thiết. Có thể có
sự khác biệt giữa các bệnh nhân trong khả
năng chịu đựng đau nên có thể có những
bệnh nhân yêu cầu thuốc để giảm đau và một
số bệnh nhân không yêu cầu.
Tìm hiểu về mối liên quan của một số yếu
tố có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ xuất hiện biến
chứng sinh thiết thận ở bệnh nhân viêm cầu
thận lupus chúng tôi nhận thấy nhóm bệnh
nhân khi vào viện có HATT > 160 mmHg có tỷ
lệ biến chứng nặng cao nhất là 20% (n = 1/5).
TCNCYH 86 (1) - 2014 29
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2014
Trong khi nhóm bệnh nhân có HATT < 140
mmHg có tỷ lệ biến chứng nặng là 5,5%
(n = 3/55). Nhóm bệnh nhân có HATT từ 140
- 160 mmHg không gặp biến chứng nặng.
OR = 4,33 ở nhóm có HATT > 160 mmHg so
với nhóm HATT < 140 mmHg, tuy nhiên sự
khác biệt này chưa có ý nghĩa thống kê với
p = 0,25. Chúng tôi xin được lưu ý là chỉ số
huyết áp được phân tích là chỉ số khi bệnh
nhân vào viện. Tại thời điểm tiến hành sinh
thiết thận các bệnh nhân đều đã được được
khống chế huyết áp về mức ≤ 130/80mmHg.
Kết quả nghiên cứu của Abel Torres M. và
cộng sự. khi thực hiện nghiên cứu ở 646 sinh
thiết thận thực hiện với súng sinh thiết tự động
dưới hướng dẫn siêu âm thì cho thấy huyết áp
tâm trương ≥ 90 mmHg là nguy cơ xuất hiện
biến chứng sau sinh thiết thận với RR = 7,6
(95% CI 1,35 - 43). Sự khác biệt này có thể do
cỡ mẫu trong nghiên cứu của Abel Torres M.
và cộng sự lớn hơn nên có cơ hội phát hiện
được sự khác biệt nhỏ trong quần thể [9].
Nghiên cứu của Abel Torres M. và cộng sự
cũng cho thấy sự suy giảm chức năng thận là
yếu tố nguy cơ của biến chứng sau sinh thiết,
ure trong máu (BUN) ≥ 60 mg/dl, RR = 9,27
(95% CI 2,8 - 30,7) [9]. Tuy nhiên, trong
nghiên cứu của chúng tôi khi phân tích về liên
quan của mức lọc cầu thận với biến chứng
nặng chúng tôi không nhận thấy sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê của tỷ lệ xuất hiện biến
chứng trong các nhóm bệnh thận mạn khi
phân loại theo mức lọc cầu thận. Để làm tăng
cỡ mẫu chúng tôi xếp hai nhóm bệnh nhân có
mức lọc cầu thận ước tính < 60 mml/
phút/1,73m2 và ≥ 60 mml/phút/1,73m2 để tiến
hành so sánh nhưng tỷ lệ biến chứng nặng
trong hai nhóm bệnh thận mạn tính khác biệt
không có ý nghĩa thống kê.
Các xét nghiệm máu kiểm tra về thời gian
prothrombin và INR được chọn vào làm
thường qui ở bệnh nhân trước khi tiến hành
sinh thiết thận [10]. Tuy nhiên cũng chưa có
sự thống nhất hoàn toàn về vai trò của hai yếu
tố này trong các báo cáo. Tác giả Stiles và
cộng sự khi nghiên cứu các biến chứng ở 112
trường hợp sinh thiết thận thì kết quả cho thấy
không có sự liên quan của thời gian
prothrombin và INR đến việc làm thay đổi
đáng kể tỷ lệ biến chứng lớn ở bệnh nhân
[11]. Tuy nhiên, nghiên cứu của Manno và
cộng sự khi đánh giá các nguy cơ biến chứng
sau sinh thiết thận trong 471 bệnh nhân kết
luận rằng giới tính, tuổi và thời gian
thromboplastin là những chỉ số dự báo quan
trọng trong nguy cơ xuất hiện biến chứng sau
sinh thiết thận [12].
Trong nghiên cứu của Manno và cộng sự
cho thấy tỷ lệ xuất hiện biến chứng chảy máu
sau sinh thiết thận xuất hiện nhiều hơn ở nữ
(39,7%) so với nam (30,3%) với OR = 2,05,
khoảng tin cậy 1,26 - 3,31 và p = 0,004. Đồng
thời tác giả cũng báo cáo tỷ lệ xuất hiện biến
chứng chảy máu ở nhóm tuổi 11 đến 20 và
nhóm tuổi 21 đến 30 cao hơn so với nhóm
tuổi 30 đến 40 tuổi. Trong nghiên cứu của
chúng tôi không cho thấy tỷ lệ biến chứng
nặng có liên quan với tuổi, có thể do nghiên
cứu của chúng tôi thực hiện ở người lớn và
không có đối tượng tuổi nhỏ như nghiên cứu
của Manno và cộng sự [12].
Kết quả nghiên cứu này cho thấy 100%
bệnh nhân có biến chứng nặng đều có giá trị
tiểu cầu < 150 G/l khi vào viện và ở nhóm có
giá trị tiểu cầu thấp này OR = 36,29 khi
so sánh với nhóm có số lượng tiểu cầu ≥ 150 G/l,
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p = 0,018. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
tương tự như nghiên cứu của Abel Torres M.
và cộng sự khi thực hiện nghiên cứu ở 646
30 TCNCYH 86 (1) - 2014
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
sinh thiết thận cho thấy số lượng tiểu cầu ≤
120 × 103/μl là yếu tố nguy cơ quan trọng
trong xuất hiện biến chứng sau sinh thiết với
RR = 7,0 (95% CI 1,9 - 26,2) [9].
V. KẾT LUẬN
Tỷ lệ biến chứng nặng ở bệnh nhân viêm
cầu thận lupus là 6,2%, 93,8% bệnh nhân
viêm cầu thận lupus được thực hiện sinh thiết
an toàn không có biến chứng nặng. Yếu
tố nguy cơ với việc xuất hiện biến chứng
nặng là số lượng tiểu cầu thấp, biến chứng
nặng xuất hiện 100% ở nhóm có số lượng
tiểu cầu < 150 G/l khi vào viện và OR = 36,29
khi so sánh với nhóm có số lượng tiểu cầu
≥ 150 G/l, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
với p = 0,018.
Lời cảm ơn
Chúng tôi xin gửi lời cảm ơn ban chủ
nhiệm, các bác sỹ và điều dưỡng khoa Thận -
Tiết niệu và phòng Kế hoạch tổng hợp, bệnh
viện Bạch Mai đã tạo điều kiện cho chúng tôi
trong quá trình nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cameron JS, Hicks J (1997). The
introduction of renal biopsy into nephrology
from 1901 to 1961: A paradigm of the forming
of nephrology by technology. Am J Nephrol
17, 347 - 358,
2. Iversen P, Brun C (1951). Aspiration
biopsy of the kidney. Am J Med, 11, 324 - 330.
3. Wiseman DA, Hawkins R, Numerow
LM et al (1990) Percutaneous renal biopsy
utilizing real time, ultrasonic guidance and a
semiautomated biopsy device. Kidney Int, 38,
347 - 349.
4. Hochberg MC (1997). Updating the
American College of Rheumatology revised
criteria for the classification of systemic lupus
erythematosus. Arthritis Rheum, 40(9), 1725.
5. Tondel C, Vikse BE, Bostad L et al
(2012). Safety and Complications of
Percutaneous Kidney Biopsies in 715 Children
and 8573 Adults in Norway 1988-2010. Clin J
Am Soc Nephrol, 7(10), 1591 - 1597.
6. Kim D, Kim H, Shin G et al (1998). A
randomized, prospective, comparative study of
manual and automated renal biopsies. Am J
Kidney Dis, 32, 426 - 431.
7. Parrish AE (1992). Complications of
percutaneous renal biopsy: A review of 37
years’ experience. Clin Nephrol, 38, 135 - 141.
8. Korbet SM (2002). Percutaneous renal
biopsy. Semin Nephrol, 22, 254 - 267.
9. Abel Torres M., Rafael Valdez-Ortiz1,
Carlos Gonzalez-Parra1 et al (2011).
Percutaneous renal biopsy of native kidneys:
efficiency, safety and risk factors associated
with major complications. Arch Med Sci, 7(5),
823 - 831.
10. Peterson P, Hayes TE, Arkin CF et al
(1998). The preoperative bleeding time test
lacks clinical benefit: College of American
Pathologists’ and American Society of Clinical
Pathologists’ position article. Arch Surg, 133,
134 - 139.
11. Stiles KP, Hill C, LeBrun CJ et al
(2001). The impact of bleeding times on major
complications rates after percutaneous real-
time ultrasound-guided renal biopsies. J
Nephrol, 14, 275 - 27 9.
12. Manno C, Strippoli GF, Arnesano L
et al (2004). Predictors of bleeding
complications in percutaneous ultrasound-
guided renal biopsy. Kidney Int. 66, 1570 - 1577.
TCNCYH 86 (1) - 2014 31
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2014
Summary
COMPLICATIONS OF RENAL BIOPSY
AND RISK FACTORS RELATED TO APPEARANCE OF
COMPLICATIONS IN PATIENTS WITH LUPUS NEPHRITIS
We conducted this study to estimate the complications of renal biopsy and risk factors related
to complications in patients with lupus nephritis. The study included 81 patients diagnosed with
lupus nephritis who underwent renal biopsy in the Nephro - Urology Department, Bach Mai
hospital. 93.8 % of Lupus nephritis patients underwent safe renal biopsy. The major complications
were 6.2% with 2.5% of the patients developping macroscopic hematuria and 3.7 % of patients
developing hematoma post biopsy. The risk factor for major complications was low platelets level.
100% of serious complications appeared in patients with the platelets level < 150 G/l and
OR = 36.29 when compared with patients who had a higher level of platelets ≥ 150 G/l
(p = 0.018).
Keywords: Renal biopsy, lupus nephritis
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 17_64_1_pb_5219.pdf