Tình trạng thừa cân béo phì và một số yếu tố liên quan ở học sinh hai trường tiểu học của huyện Đông Anh, Hà Nội

Nghiên cứu cắt ngang mô tả tình trạng thừa cân béo phì (TCBP) và một số yếu tố liên quan, thực hiện trên 492 học sinh của hai trường tiểu học huyện Đông Anh, Hà Nội từ tháng 11 năm 2011 đến tháng 4 năm 2012. Kết quả cho thấy: Học sinh có nguy cơ thừa cân cao hơn 3,5 lần khi có cha thừa cân và 6,7 lần khi cả cha và mẹ đều thừa cân. Háu ăn, ăn nhanh, ăn nhiều và ăn thêm nhiều bữa phụ trong ngày đều làm tăng nguy cơ thừa cân, những học sinh có đặc tính trên có nguy cơ thừa cân cao gấp 2,5; 3,8; 6,0 và 2,9 lần so với những học sinh khác. Học sinh ăn nhiều thực phẩm giàu chất béo, đường và ăn ít rau quả có nguy cơ thừa cân cao gấp 2,2; 2,6 và 2,0 lần so với những học sinh khác. Thể dục thường xuyên làm giảm nguy cơ thừa cân béo phì, những học sinh ít thể dục có nguy cơ thừa cân béo phì cao gấp 2,1 lần những học sinh thể dục thường xuyên.

pdf8 trang | Chia sẻ: Mịch Hương | Ngày: 29/03/2025 | Lượt xem: 236 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình trạng thừa cân béo phì và một số yếu tố liên quan ở học sinh hai trường tiểu học của huyện Đông Anh, Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TCNCYH 82 (2) - 2013 159 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Summary KNOWLEDGES OF DIARRHEA AND SANITATIONS OF THE PEOPLE IN CHUC SON TOWN, A SUBURBAN OF HA NOI The aim of this study is to assess the knowledge of food hygiene and safety of the people in Chuc Son in 2009. Methods: This is a cross-sectional study of 384 housewives in Chuc Son. Results: The percentage of people who knew about the transmission of diarrhea by people infected with chol- era to healthy people, or from sick human wastes through flies-to-food-to-people was high with 89% and 90.4%, respectively. 38.0% percent of people did not know about disease transmission through patient - to-waste - water - food route to people. Most people thought that shrimp sauce and dog meat accounted for 90.4% of pathogens. Many people also blamed salad leaves (77.3%) and blood (25.8%) for some infectious diseases. Knowledge of sanitation practices was high with 97.4% of the respon- dents threw household wastes to garbage truck, 2.6% of the people burned house wastes in their gar- dens. As for household sanitation accesses, 92.7% of the households had general drainage sewer system while only 7.3% has drainage line ponds. Conclusions: In general, the majority of people of Chuc Son knew the mode and sources of diarrhea. They also demonstrated excellent knowledge about sanitation practices to prevent pathogen infection causing diarrhea. Keywords: knowledge, practice, diarrhea, sanitation TÌNH TRẠNG THỪA CÂN BÉO PHÌ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở HỌC SINH HAI TRƯỜNG TIỂU HỌC CỦA HUYỆN ĐÔNG ANH, HÀ NỘI Nguyễn Đỗ Huy Viện Dinh dưỡng Quốc gia Nghiên cứu cắt ngang mô tả tình trạng thừa cân béo phì (TCBP) và một số yếu tố liên quan, thực hiện trên 492 học sinh của hai trường tiểu học huyện Đông Anh, Hà Nội từ tháng 11 năm 2011 đến tháng 4 năm 2012. Kết quả cho thấy: Học sinh có nguy cơ thừa cân cao hơn 3,5 lần khi có cha thừa cân và 6,7 lần khi cả cha và mẹ đều thừa cân. Háu ăn, ăn nhanh, ăn nhiều và ăn thêm nhiều bữa phụ trong ngày đều làm tăng nguy cơ thừa cân, những học sinh có đặc tính trên có nguy cơ thừa cân cao gấp 2,5; 3,8; 6,0 và 2,9 lần so với những học sinh khác. Học sinh ăn nhiều thực phẩm giàu chất béo, đường và ăn ít rau quả có nguy cơ thừa cân cao gấp 2,2; 2,6 và 2,0 lần so với những học sinh khác. Thể dục thường xuyên làm giảm nguy cơ thừa cân béo phì, những học sinh ít thể dục có nguy cơ thừa cân béo phì cao gấp 2,1 lần những học sinh thể dục thường xuyên. Từ khóa: thừa cân béo phì, yếu tố nguy cơ, học sinh tiểu học I. ĐẶT VẤN ĐỀ Từ sau khi đất nước đổi mới, đời sống kinh tế, xã hội của người dân được cải thiện, nhu cầu ăn no, mặc ấm không còn nữa mà thay vào đó là ăn ngon, đủ chất, và cân đối dinh dưỡng để tránh mắc phải những bệnh do mất cân bằng dinh dưỡng gây ra, đặc biệt là tình trạng thừa cân, béo phì. Bên cạnh sự phát triển của kinh tế, các dịch vụ ăn uống cũng phát triển một cách nhanh chóng, các dịch vụ thức ăn nhanh, thức ăn đường phố ngày càng nhiều, các loại dịch vụ này đã và đang hấp 160 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Đỗ Huy, Viện Dinh Dưỡng, 48 B Tăng Bạt Hổ Email: nguyendohuy1965@yahoo.com Ngày nhận: 24/01/2013 Ngày được chấp thuận: 26/4/2013 dẫn trẻ em, đặc biệt là học sinh tiểu học, từ đó làm thay đổi thói quen và tập quán ăn uống của trẻ, đây cũng là một nguyên nhân quan trọng gây nên tình trạng thừa cân béo phì ở trẻ em tiểu học. Tỷ lệ học sinh tiểu học thừa cân béo phì sẽ tỷ lệ thuận với tỷ lệ thừa cân, béo phì của người trưởng thành. Hậu quả đối với sức khỏe của thừa cân béo phì gây ra là làm gia tăng các bệnh mãn tính không lây có liên quan tới dinh dưỡng như tiểu đường, huyết áp cao, thừa mỡ trong máu, các bệnh về tim mạch Trong những năm gần đây, nhờ có chương trình phòng chống suy dinh dưỡng quốc gia, tỷ lệ trẻ bị suy dinh dưỡng đã giảm đáng kể. Tuy nhiên, tỷ lệ học sinh béo phì lại có xu hướng tăng cao. Kết quả một số nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy tỷ lệ béo phì ở trẻ tại các thành phố lớn khá cao. Theo điều tra của Trần Thị Hồng Loan năm 1998, tỷ lệ học sinh từ 6 đến 11 tuổi mắc béo phì tại một quận nội thành thành phố Hồ Chí Minh là 18% [1]. Kết quả điều tra năm 2000 tại các thành phố lớn cho thấy tỷ lệ thừa cân ở lứa tuổi học sinh tiểu học ở Hà nội là 10% và thành phố Hồ Chí Minh là 12%. Tỷ lệ trẻ 4 - 5 tuổi tại thành phố Hồ Chí Minh có tình trạng thừa cân là 2,5%; 3,1% và 3,3%, theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Hưng năm 1995, 2000, 2001 [2]. Điều tra năm 2006 tại thành phố Hồ Chí Minh của Huỳnh Thị Thu Diệu cho thấy ở lứa tuổi tiền học đường, tỷ lệ thừa cân là 20,5% và béo phì là 16,3% [3]. Trong quá trình đô thị hóa với tốc độ ngày một cao, ngoại thành Hà Nội là khu vực chịu tác động đáng kể. Đô thị hóa làm thay đổi bộ mặt nông thôn, tình hình sức khỏe, dinh dưỡng của cộng đồng cũng thay đổi, tình hình thể lực của học sinh tiểu học cũng được cải thiện theo hướng tích cực. Tuy nhiên, thừa cân béo phì cũng là một tình trạng có xu hướng phát triển. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục tiêu: Đánh giá tình trạng thừa cân béo phì của học sinh hai trường tiểu học huyện Đông Anh, Hà Nội. Mô tả một số yếu tố liên quan tới tình trạng thừa cân béo phì trong nghiên cứu. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Thời gian và địa điểm Nghiên cứu tiến hành từ tháng 11 năm 2011 đến tháng 4 năm 2012 tại hai trường tiểu học Đông Hội và Thụy Lâm huyện Đông Anh, Hà Nội. 2. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả. 3. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh hai trường tiểu học Đông Hội và Thụy Lâm, có độ tuổi từ 6 - 10 tuổi đồng ý tham gia nghiên cứu. 4. Cỡ mẫu được tính theo công thức Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho ước tính một tỷ lệ trong quần thể: Trong đó: p: Tỷ lệ trẻ bị thừa cân, p = 0,18 [1]; chọn α = 0,05; Z(1-α/2): Giá trị Z tương ứng α = 0,05; d = 0,05; Hệ số thiết kế nghiên cứu (DE) = 2; Tính được n = 492 trẻ, mỗi trường là 246 trẻ. Mẫu được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên nhiều giai đoạn: Giai đoạn 1: Chọn mẫu ngẫu nhiên hai trường đại diện trong huyện Đông Anh. Giai đoạn 2: Áp dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng, coi mỗi n = Z2 (1-α/2) x 1 - p d2 TCNCYH 82 (2) - 2013 161 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC khối học là một tầng. Tại mỗi trường tiểu học được lựa chọn ngẫu nhiên 246 học sinh tại 5 khối. Các biến số, chỉ số chính: Tỷ lệ các nhóm tuổi theo giới, cân nặng, chiều cao trung bình, tỷ lệ học sinh thừa cân, béo phì, liên quan giữa điều kiện gia đình với thừa cân béo phì, liên quan giữa tập tính, sở thích ăn uống và sinh hoạt với thừa cân béo phì của học sinh, nhận thức của phụ huynh về thừa cân béo phì ở học sinh. Phương pháp thu thập thông tin: Tuổi của trẻ được tính theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) 2006. Cân nặng: dùng cân Seca, cân được kiểm tra và chỉnh trước khi cân, kết quả được ghi theo kg và một số lẻ. Đo chiều cao đứng bằng thước microtoise kết quả thu được theo cm với một số lẻ. Các yếu tố liên quan đến thừa cân béo phì được thu thập theo bộ câu hỏi thiết kế sẵn, được thử nghiệm trước khi tiến hành nghiên cứu. Phân tích thống kê: Số liệu được phân tích bằng phần mềm SPSS 16.0. Sử dụng kiểm định Khi bình phương (χ2) hoặc Fisher's Exact Test để so sánh các tỷ lệ, tỷ suất chênh OR và 95%CI để mô tả các mối liên quan. 5. Đạo đức nghiên cứu Đề tài nghiên cứu tuân thủ quy trình xét duyệt của Hội đồng Đạo đức viện Dinh Dưỡng. Nghiên cứu có sự đồng ý của chính quyền địa phương. Đối tượng tham gia hoàn toàn tự nguyện, được bù đắp cho việc tham gia nghiên cứu. Đối tượng được cung cấp thông tin và giải thích về mục đích, nội dung, lợi ích của cuộc điều tra, được tư vấn dinh dưỡng và sức khỏe. Các thông tin của đối tượng chỉ được sử dụng cho mục tiêu nghiên cứu sức khỏe cộng đồng. III. KẾT QUẢ Bảng 1. Tình trạng thừa cân béo phì của học sinh hai trường tiểu học theo BMI Nhóm tuổi Thừa cân, béo phì (BMI > 85%) Giá trị p Nam Nữ Chung Nhóm 6 tuổi, n (%) 7(11,7)* 3(6,1) 10(9,2) < 0,05 Nhóm 7 tuổi, n (%) 4(7,4) 3(7,3) 7(7,4) >0,05 Nhóm 8 tuổi, n (%) 9(18,3)* 6(10,5) 15(14,2) < 0,05 Nhóm 9 tuổi, n (%) 6(11,3)* 3(6,4) 9(9,0) < 0,05 Nhóm 10 tuổi, n (%) 5(11,7) 3(7,3) 8(9,8) > 0,05 Tổng cộng, n (%) 31(12,5)* 18(7,7) 49(10,2) < 0,05 * p < 0,05. Theo kết quả điều tra, số học sinh thừa cân béo phì là 49 học sinh, chiếm 10,2%. Tỷ lệ thừa cân ở nam cao hơn nữ rõ rệt 12,5% với 7,7%. Tỷ lệ thừa cân cao nhất ở 8 tuổi, nam 18,3%, nữ 10,5%. 162 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Bảng 2. Liên quan giữa điều kiện gia đình với thừa cân béo phì học sinh tiểu học Điều kiện gia đình Thừa cân, béo phì (BMI > 85%) OR (95%CI) Có Không Nghề cha, n (%) 3,13 (1,40 - 6,64) Cán bộ và buôn bán 13 (23,2) 43 (76,8) Nông nghiệp và công nhân 34 (8,8) 352 (91,2) Thừa cân của cha, n (%) 3,46 (1,15 - 9,24) Có 7 (26,9) 19 (73,1) Không 40 (9,6) 376 (80,4) Thừa cân của cả cha và mẹ,n(%) 11,6 (2,38 - 60,3) Có 5 (42,9) 4 (47,1) Không 42 (10,1) 391(89,9) Những học sinh có cha làm cán bộ, buôn bán có tỷ lệ thừa cân cao hơn những học sinh có cha làm nông nghiệp và công nhân (23,2% so với 8,8%). Những trẻ này có nguy cơ thừa cân béo phì cao hơn 3,1 lần những trẻ có cha làm nông nghiệp và công nhân. Những học sinh có cha thừa cân có nguy cơ thừa cân cao gấp 3,46 lần những học sinh có cha bình thường. Nếu cả cha và mẹ thừa cân có nguy cơ bị thừa cân cao gấp 11,6 lần những học sinh có cha mẹ bình thường. Bảng 3. Mối liên quan giữa tập tính, sở thích ăn uống và hoạt động thể lực với thừa cân béo phì của học sinh tiểu học Tập tính, sở thích ăn uống Thừa cân, béo phì (BMI > 85%) OR (95%CI) Có Không Háu ăn, n (%) 2,87 (1,17 - 6,53) Có 10 (21,4) 34 (78,6) Không 37 (9,5) 361 (90,5) Ăn nhanh, n (%) 3,76 (1,61 - 8,28) Có 12 (26,7) 33 (73,3) Không 35 (8,8) 362 (91,2) Ăn nhiều, n (%) 6,02 (2,02 - 16,8) Có 8 (38,1) 13 (61,9) Không 39 (9,3) 382 (90,7) TCNCYH 82 (2) - 2013 163 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Tập tính, sở thích ăn uống Thừa cân, béo phì (BMI > 85%) OR (95%CI) Có Không Ăn nhiều bữa phụ, n (%) 2,87 (1,17 - 6,53) Có 10 (22,7) 34 (77,3) Không 37 (9,3) 361(90,3) Đồ ngọt, n (%) 2,15(1,06 - 4,56) Nhiều 34 (13,5) 217 (86,5) Ít 13 (6,8) 178 (93,2) Thức ăn giàu chất béo, n (%) 2,63 (1,36 - 5,13) Nhiều 27 (16,8) 134 (83,2) Ít 20 (7,1) 261 (92,9) Ăn rau,quả, n (%) 2,00 (1,03 - 4,0) Nhiều 30 (14,0) 185 (86,0) Ít 17 (7,5) 210 (92,5) Học sinh háu ăn có nguy cơ bị thừa cân cao hơn 2,87 lần những trẻ khác không có đặc tính này. Những học sinh ăn nhanh có nguy cơ bị thừa cân cao gấp 3,76 lần so với những trẻ khác ăn ở tốc độ bình thường. Nguy cơ thừa cân ở những học sinh ăn nhiều và ăn bữa phụ cao hơn 6,02 và 2,87 lần so với những trẻ khác không có đặc tính này. Bảng 4. Liên quan giữa hoạt động thể lực với thừa cân béo phì của học sinh tiểu học Hoạt động thể lực Thừa cân, béo phì (BMI > 85%) OR (95%CI) Có Không Thường xuyên tập thể dục, thể thao, n (%) 2,09( 1,06 - 4,03) Không 23 (15,6) 124 (84,4) Có 24 (8,1) 271 (91,9) Thời gian xem tivi, chơi điện tử, n (%) 1,15 (0,44 - 2,65) > 3h/ngày 8 (11,8) 60(88,2) < 3h/ngày 39 (10,4) 335(89,6) Thời gian ngủ, n (%) 0,56 (0,23 -,1,23) > 10h/ngày 9 (7,1) 117 (92,9) ≤ 10h/ngày 38 (12,0) 278 (88,0) 164 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Tập thể dục thường xuyên và thừa cân béo phì có mối liên quan với nhau, những học sinh không tập thể dục thường xuyên có nguy cơ thừa cân béo phì cao hơn 2 lần những học sinh tập thể dục. Bảng 5. Nhận thức của phụ huynh/cha mẹ có con mắc thừa cân béo phì Nhận thức của phụ huynh Có Không Nhận thức được con có thừa cân, n (%) 21 (44,6%) 26 (55,4%) Hài lòng với cân nặng của con, n (%) 24 (51,1%) 23 (48,9%) Muốn thay đổi cân nặng của con, n (%) 30 (63,8%) 17 (36,2%) Chỉ có 44,6% phụ huynh học sinh có con thừa cân đều nhận thức được rằng con mình đang bị thừa cân, còn 55,4% phụ huynh học sinh có con thừa cân béo phì cho rằng con mình bình thường. IV. BÀN LUẬN Nghiên cứu cho thấy trẻ có cha thừa cân có nguy cơ thừa cân cao hơn những đứa trẻ có cha bình thường là 3,46 lần, trẻ có cả cha và mẹ thừa cân có nguy cơ thừa cân cao hơn những trẻ khác là 11,6 lần, so với nghiên cứu của Trần Thị Hồng Loan 1998 [1], trẻ có cha thừa cân có nguy cơ thừa cân cao gấp 3,4 lần, có mẹ thừa cân có nguy cơ thừa cân cao gấp 6,2 lần những trẻ khác. Trong kết quả nghiên cứu, háu ăn là đặc điểm thường ở trẻ béo phì hơn những trẻ khác (19,1% so với 8,6%), Kim và cộng sự 1992 [4] khi điều tra 282 học sinh tại một trường tiểu học tại Seoul, trẻ béo phì ăn ngon miệng hơn và có xu hướng ăn nhanh hơn trẻ không béo. Theo kết quả nghiên cứu trẻ háu ăn có nguy cơ thừa cân cao hơn 2,87 lần so với trẻ không có đặc tính này, điều này cũng đúng khi so sánh với nghiên cứu của Trần Thị Hồng Loan 1998 [1] trẻ háu ăn có nguy cơ thừa cân béo phì cao hơn 7,93 lần so với trẻ không có đặc tính này. Trẻ háu ăn thường kèm với ăn nhanh, ăn nhiều và ăn thêm bữa phụ cũng có nguy cơ bị thừa cân béo phì cao hơn những trẻ khác, nghiên cứu cho thấy những trẻ này có nguy cơ cao hơn những trẻ khác lần lượt là 3,76; 6,0 và 2,87 lần. Với những trẻ khác, nhận xét này cũng tương tự với một số nghiên trước [3], theo nghiên cứu của Trần Thị Hồng Loan 1998 [1] những trẻ có đặc tính trên thường có nguy cơ mắc béo phì cao hơn những trẻ khác là 4,2; 4,8 và 3,4 lần. Rất nhiều nghiên cứu cho rằng trẻ thừa cân ít hoạt động thể lực hơn trẻ bình thường [4, 5]. Kết quả của nghiên cứu này cũng cho thấy: hầu như thời gian dành cho các hoạt động vận động của trẻ thừa cân ít hơn thời gian dành cho các hoạt động tĩnh. Theo điều tra 2002 trên 4500 trẻ từ 9 đến 13 tuổi cho thấy, có tới 61,5% trẻ không tham gia bất kỳ hoạt động thể lực nào, do vậy tỷ lệ thừa cân béo phì ở trẻ tiểu học ở Mỹ (2000) là 15%, cao hơn 3 lần so với tỷ lệ này vào những năm 1960 [6, 7]. V. KẾT LUẬN Những học sinh có cha là cán bộ và buôn bán có nguy cơ thừa cân cao hơn 3,1 lần những học sinh có cha là nông dân và công nhân. Học sinh có cha thừa cân thì có nguy cơ thừa cân cao hơn những học sinh có cha TCNCYH 82 (2) - 2013 165 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC bình thường là 3,5 lần, có cả cha và mẹ thừa cân thì nguy cơ thừa cân cao hơn 6,7 lần. Háu ăn, ăn nhanh, ăn nhiều và ăn thêm nhiều bữa phụ trong ngày đều làm tăng nguy cơ thừa cân, những học sinh có đặc tính trên có nguy cơ thừa cân cao gấp 2,5; 3,8; 6,0 và 2,9 lần những học sinh khác. Những học sinh ăn nhiều thực phẩm giàu chất béo, đường, và ăn ít rau, quả có nguy cơ thừa cân cao gấp 2,2; 2,6 và 2,0 lần những học sinh khác. Có 51,1% phụ huynh học sinh có con thừa cân béo phì hài lòng với cân nặng của con mình. Đa số các bậc phụ huynh đều muốn con mình giảm cân (63,8%), nhưng một tỷ lệ không nhỏ (36,2%) không muốn thay đổi cân nặng của con mình. Lời cảm ơn Nhóm nghiên cứu xin chân thành cám ơn ban giám hiệu, các thầy, cô giáo và các em học sinh và phụ huynh của hai trường tiểu học Đông Hội và Thụy Lâm, huyện Đông Anh đã tham gia và tạo điều kiện cho nghiên cứu này được triển khai thuận lợi và hiệu quả. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Thị Hồng Loan (1998). Thừa cân và các yếu tố nguy cơ ở học sinh 6 - 11 tuổi tại một quận nội thành - thành phố Hồ Chí Minh. Luận án thạc sỹ dinh dưỡng cộng đồng. Hà Nội. 2. Lê Thị Hải, Nguyễn Thị Lâm, Hoàng Thế Yết và cộng sự (2002). Theo dõi tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe của trẻ thừa cân béo phì ở Hà Nội, Tạp chí y học thực hành, 418, 55 - 61. 3. Lê Thị Hương (1998). Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan của trẻ em hai trường tiểu học nội, ngoại thành Hà Nội. Luận án tốt nghiệp thạc sỹ dinh dưỡng cộng đồng. Hà Nội. 4. Barry M popkin (2001). Nutrition in tran- sition: the changing global nutrition challengen Asia Pacific J Clin Nutr 10 ( suppl.) : 13 -18. 5. Nguyễn Thị Thu Hiền, Phạm Văn Trịnh, Phạm Văn Hán (2002). Nghiên cứu tình trạng béo phì, các yếu tố liên quan ở lứa tuổi 6 – 11 tuổi tại một quận nội thành Hải Phòng, Tạp chí Y học thực hành, 418, 47 - 50. 6. Council on Sports Medicine and Fit- ness and Council on School Health (2006). Active Healthy Living: Prevention of Childhood Obesity Through Increased Physical Activity. Pediatrics, 117 (5), 1834 -1842. 7. Ogden CL, Carroll MD, Flegal KM (2003). Epidemiologic trends in overweight and obesity. Endocrinol Metab Clin North Am. 32, 741 - 760. Summary THE RISK FACTORS OF OVERWEIGHT AND OBESITY STATUS OF SCHOOL CHILDREN AT TWO PRIMARY SCHOOLS IN DONG ANH DISTRICT IN HANOI CITY This study investigated the physical development and identified obesity risk factors of children in two primary schools in Dong Anh district in Hanoi. Methods: A cross-sectional study was conducted involving 492 school children of Dong Hoi and Thuy Lam primary schools in Dong Anh district, 166 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Hanoi City from November, 2011 to April, 2012. Results: Our data showed that children of over- weight parents had a greater risk of becoming obese than lean parents. School children having one overweight parents or both overweight parents were 3.5 and 6.7 times more likely to be overweight themselves than children with normal weight parents. We also identified that greedy, fast eating, over eating, and extra meals were some of the risk factors of these overweight school children. Over eating is the greatest risk factor that contributed to 6.0 times more risk of being overweight, followed by fast eating (3.8 times), extra meals (2.9 times), and greedy for food (2.5 times). Extra consumption of high fat content food (2.2 times), sugary food (2.6 times), and less consumption of vegetables and fruit (2.0 time) also contributed to children obesity. Regular physical activity reduced the risk of overweight and obesity. School children with less physical activ- ity had 2.1 time higher risk of overweight and obesity than children with regular physical activity. Keywords: Risk of overweight and obesity, school children, food intake and physical activity KIẾN THỨC, THỰC HÀNH CHĂM SÓC TRONG VÀ SAU SINH CỦA CÁC BÀ MẸ CÓ CON NHỎ DƯỚI 2 TUỔI TẠI TỈNH BO LỊ KHĂM XAY, LÀO 2010 Khamphanh Prabouasone1, Ngô Văn Toàn2, Lê Anh Tuấn3, Bùi Văn Nhơn2 1Đại học Y Khoa Lào, 2 Trường Đại học Y Hà Nội, 3Bệnh viện Phụ sản Trung ương Nghiên cứu được thực hiện nhằm mô tả kiến thức và thực hành chăm sóc trong và sau sinh của các bà mẹ có con nhỏ dưới 2 tuổi tại tỉnh Bo Lị Khăm Xay, Lào năm 2010. Kết quả cho thấy kiến thức chăm sóc trong và sau sinh còn thấp: tỷ lệ bà mẹ biết về các dấu hiệu nguy hiểm xảy ra trong và sau sinh thấp, khoảng 1/2 số bà mẹ không biết dấu hiệu nguy hiểm có thể xảy ra trong và sau sinh; 59,0% bà mẹ có kiến thức về cho trẻ bú lần đầu tiên trong vòng một giờ sau sinh. Thực hành chăm sóc trong và sau sinh chưa tốt: 54,7% bà mẹ sinh con tại cơ sở y tế; 56,3% bà mẹ được nhân viên y tế đỡ đẻ trong lần sinh vừa qua; 56,1% bà mẹ cho trẻ bú lần đầu tiên trong vòng 1 giờ đầu ngay sau sinh và chỉ có 25,3% bà mẹ đi khám lại trong vòng 42 ngày sau sinh. kiến thức và thực hành chăm sóc trong và sau sinh của các bà mẹ còn chưa tốt. Từ khóa: chăm sóc trong sinh, chăm sóc sau sinh, dấu hiệu nguy hiểm, khám lại sau sinh, bú lần đầu tiên Địa chỉ liên hệ: Khamphanh Prabouasone , Khoa Y tế công cộng, Đại học Y Khoa Lào Email: khamphanh2000@yahoo.com Ngày nhận: 25/11/2012 Ngày được chấp thuận: 26/04/2013 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Làm mẹ an toàn là tất cả phụ nữ đều được nhận sự chǎm sóc c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftinh_trang_thua_can_beo_phi_va_mot_so_yeu_to_lien_quan_o_hoc.pdf
Tài liệu liên quan