Các tiêu chuẩn sinh cơ học, hóa sinh, chức năng, và thẩm mỹ là các yếu tố cơ bản để
đảm bảo một thành công lâu dài trên lâm sàng. Nhìn chung, thời gian cơ bản cần thiết
cho quá trình tích hợp xương của implant là khoảng 3 tháng đối với hàm dưới và 5 đến 6
tháng đối với hàm trên. Kết quả một số nghiên cứu cũng cho thấy khả năng rút ngắn giai
đoạn chờ đợi.
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tích hợp xương và các yếu tố ảnh hưởng trong cấy ghép nha khoa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TCNCYH 86 (1) - 2014 99
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2014
TÍCH HỢP XƯƠNG VÀ CÁC YẾU TỐ
ẢNH HƯỞNG TRONG CẤY GHÉP NHA KHOA
Hoàng Đạo Bảo Trâm
Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Địa chỉ liên hệ: Hoàng Đạo Bảo Trâm, Đại học Y Dược
Thành phố Hồ Chí Minh, 217 Hồng Bàng, Quận 5, Thành
phố Hồ Chí Minh
Email: hoangdaobaotram@gmail.com
Ngày nhận: 24/8/2013
Ngày được chấp thuận: 17/2/2014
1. ĐÁNH GIÁ TÍCH HỢP XƯƠNG
Ổn định sơ khởi của implant là một tiêu
chuẩn cơ bản để đạt được tích hợp xương và
việc đánh giá ổn định sơ khởi cho phép tiên
lượng khả năng tích hợp xương.
Đánh giá lâm sàng
Đối với cảm nhận xúc giác của phẫu thuật
viên, có thể xác định ba mức ổn định: implant
chắc, implant lung lay một phần (ổn định theo
chiều ngang nhưng xoay nhẹ), và implant lung
lay (có chuyển động ngang hay dọc). Một
implant lung lay cần được lấy ra và có thể
thay thế bằng một implant khác dài và/hoặc
lớn hơn.
Phân tích tần số âm
Phân tích tần số âm là một kỹ thuật không
xâm lấn giúp xác định sự ổn định sơ khởi và
ổn định thì sau của implant. Giá trị tần số âm
có thể phản ánh tình trạng xương sau khi đặt
implant. Nó giúp chẩn đoán sớm tình trạng
implant trong xương và có thể là tham chiếu
để tiên lượng thời gian lành thương. Như vậy,
RFA là một phương pháp chắc chắn và cụ thể
để đánh giá sớm quá trình tích hợp xương.
Tuy nhiên, theo một số tác giả, kỹ thuật này
ưu việt hơn khi đánh giá sự ổn định sơ khởi
và thứ cấp của hàm dưới, so với hàm trên.
Đánh giá bằng tần số âm và ghi độ rung
Lachmann và cộng sự đánh giá mức độ tin
cậy đối với khả năng lặp lại của hai hệ thống
đo mức độ tích hợp của implant là OsstellTM
(ghi tần số âm) và PeriostestTM (ghi độ rung)
[4]. Đây là hai thiết bị cho phép đánh giá mức
độ ổn định của implant ngay sau khi đặt, và ở
các giai đoạn tiếp theo của quá trình tích hợp
xương. Các implant được đặt vào các đoạn
xương sườn bò khác nhau về nguồn gốc giải
phẫu và mật độ xương. Đo đạc được lặp lại
nhiều lần với sự thay đổi a) lực vặn vít, b) chất
lượng xương nơi đặt, và c) tình trạng bộc lộ
đường ren trong tổn thương xương quanh
implant. Cả hai phương pháp đều thể hiện
mức độ tin cậy tương đương nhau và có độ
kiên định tốt. Đối với lực vặn vít, hai thiết bị
cho kết quả tương đương nhau, nhưng đối với
những khác biệt về chất lượng xương và sự
tiêu giảm xương quanh implant, kết quả khác
nhau có ý nghĩa giữa hai phương pháp. Các
tác giả kết luận rằng hai hệ thống chẩn đoán
không xâm lấn này có thể sử dụng tốt để theo
dõi tiếp hợp của implant trong một thời gian
lâu dài.
Trong một nghiên cứu in vitro [5], các tác
giả đã phân tích khả năng ghi của thiết bị
Periotest, và khả năng phân tích tần số âm
của Osstell™ trong việc đánh giá tình trạng
mất xương quanh implant. Các implant dạng
vít được trùng hợp trong lòng các khối nhựa
acrylic. Sự mất xương được mô phỏng bằng
cách lấy dần vật liệu quanh implant từng
milimét. Hai hệ thống cho kết quả tương tự,
với sự thống nhất khi đánh giá ổn định của
100 TCNCYH 86 (1) - 2014
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
implant; tuy nhiên l'Osstell™ cho kết quả chi
tiết hơn.
Nedir và cộng sự nhận thấy rằng phương
pháp RFA không đủ tin cậy để xác định mức
độ lung lay của implant, trong khi đó sự ổn
định của implant có thể được xác nhận một
cách chắc chắn khi đạt ISQi ≥ 47. Theo các
tác giả, mặc dù các kết quả đánh giá đó chỉ
mang tính sơ bộ, song có thể hướng bác sỹ
đến những lựa chọn khác nhau về quy trình
phục hình và chịu lực của implant trong thời
gian lành thương tiếp theo [4].
Các kỹ thuật hình ảnh
Phim quanh chóp và phim toàn cảnh hỗ trợ
theo dõi tình trạng implant sau phẫu thuật.
Phim chụp cắt lớp cho phép phát hiện sự tiêu
xương quanh implant rõ hơn, đặc biệt trong
những trường hợp vị trí tiêu xương lệch về
phía hành lang hoặc phía lưỡi, hoặc bị che lấp
bởi một cấu trúc đặc, ví dụ như vỏ xương dày.
Khảo sát cắt lớp điện toán đánh giá mật độ
xương xác định được một cách chính xác
implant nằm trong xương xốp, tiếp xúc với vỏ
xương, hay lệch tâm. Đôi khi mật độ xương
thấp quanh implant không tương ứng với một
vùng tiêu xương. Thực tế đó là hình ảnh được
tạo ra khi khảo sát cắt lớp điện toán quanh
một vật thể kim loại; ở vùng tiếp giáp, các số
đo bị sai lệch và không phân tích được chi tiết.
Hình ảnh mật độ xương thấp giả này rất
mảnh, chạy thành một đường bao quanh
implant, dễ phân biệt với một tiêu xương bệnh
lý. Hình ảnh này được khắc phục trên các
thiết bị chụp thế hệ mới.
2. MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN TÍCH HỢP XƯƠNG
1. Các yếu tố liên quan đến implant
Xét về tình trạng bề mặt, có thể phân thành
ba phân nhóm: implant bề mặt sần có lớp phủ
[titanium plasma-sprayed (TPS) hoặc
hydroxyapatite-coated (HA)], implant bề mặt
nhẵn, và implant bề mặt sần không có lớp phủ
(thổi cát hoặc xói mòn).
Sự biến đổi hóa học bề mặt implant titan
giúp cải thiện sự tích hợp xương mà không
làm tăng thêm khả năng nhiễm bề mặt. Đáp
ứng sinh học của nguyên bào xương bao gồm
sự bám dính của tế bào, sự tăng trưởng và
hoạt động chức năng của tế bào. Các kết luận
về quá trình biệt hóa và chuyển hóa của
nguyên bào xương còn chưa thống nhất. Một
số thử nghiệm in vitro cho thấy tính nhám của
bề mặt thúc đẩy quá trình biệt hóa nhưng
giảm quá trình tăng sinh của nguyên bào
xương, một số khác lại thấy quá trình tăng
sinh được cải thiện. Những kết quả này đưa
đến suy luận rằng còn có những yếu tố khác
điều hòa quá trình tăng sinh, biệt hóa, và chế
tiết khuôn ngoại bào của các nguyên bào
xương trong thử nghiệm in vitro.
2.2. Các yếu tố tại chỗ của người nhận:
thể tích và chất lượng xương
Mật độ xương có vai trò quan trọng trong
việc duy trì tích hợp xương và thành công lâu
dài của implant. Đánh giá xương là một bước
thiết yếu trong đặt implant.
Phân tích mô học hình thái trắc đồ là một
phương tiện tốt nhất để đánh giá mật độ
xương. Tuy nhiên phương pháp này không áp
dụng được trên lâm sàng. Được biết đến và
phát triển nhiều nhất là các kỹ thuật tia X, các
kỹ thuật này giúp phân tích toàn diện cũng
như cụ thể về hình thái, thể tích và chất lượng
xương còn lại.
2.2.1. Phim toàn cảnh
Phim toàn cảnh cho phép quan sát hình
thái của hàm trên và hàm dưới. Ở hàm dưới,
có thể đánh giá chiều cao xương ổ, vị trí lỗ
cằm và ống răng dưới; ở hàm trên, có thể
TCNCYH 86 (1) - 2014 101
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2014
đánh giá chiều cao xương ổ, so sánh với hốc
mũi và xoang hàm trên. Tuy nhiên, hình ảnh
trên phim này có biến dạng do có sự phóng
đại, tùy thiết bị và tùy vùng quan sát. Phim cho
phép đo được một cách tương đối chiều cao
xương, song không cho biết độ nghiêng và độ
dày của xương hàm trên, hàm dưới, cũng như
mào xương ổ. Phim cũng không cho thông tin
chính xác về cấu trúc xương. Phim toàn cảnh
không đủ để chuẩn bị cho một phẫu thuật đặt
implant, song không thể thiếu để phân tích
một phim cắt lớp.
2.2.2. Các kỹ thuật hình ảnh hiện đại
Đối với implant, khảo sát đo mật độ cắt lớp
(TDM: tomodensitometry) cho thông tin kép,
vừa về hình thái, vừa về cấu trúc. Phương
pháp này tốt hơn so với phim cắt lớp điện
toán cổ điển (vì thiếu chính xác và nhiễm tia
nhiều). khảo sát đo mật độ cắt lớp cho phép
quan sát về giải phẫu ở kích thước thật. Kỹ
thuật này cho phép xác định chính xác chiều
cao xương, chiều dày ngoài trong, và chiều
dày mào xương; phim cũng cho thông tin về
độ nghiêng của xương hàm trên và hàm dưới,
định vị các cản trở giải phẫu. Về cấu trúc
xương, khảo sát đo mật độ cắt lớp phân biệt
rõ xương xốp với lưới bè xương ít nhiều lỏng
lẻo, đối với xương vỏ đặc chắc, có thể đo
được bề dày. Các biến đổi cấu trúc xương
như đặc xương, mất khoáng, hoặc các tổn
thương xương cũng đều có thể phân tích tốt.
Những tiến bộ công nghệ của phần mềm
Dentascan hiện nay cho phép thể hiện mô
phỏng thể tích xương nơi đặt implant.
2.2.3. Dụng cụ đo mật độ xương
Hai kỹ thuật cho phép định lượng đặc hiệu
khối lượng xương khoáng hóa là thiết bị đo sự
tiêu xương và thiết bị đo mật độ xương nhờ
scanner. Thiết bị đo tiêu xương đánh giá vùng
quan sát bằng hai loại tia X có năng lượng
khác nhau. Vùng xương bị tiêu khác với mô
mềm và khác với xương thể hiện trên hình
ảnh số hóa. Thiết bị đo mật độ thể hiện bằng
g/cm2 bề mặt. Thiết bị đo mật độ xương bằng
scanner cho phép đánh giá bằng g/cm3. Thiết
bị này áp dụng tốt để đánh giá mật độ xương
bằng scanner là một kỹ thuật tốt để đánh giá
mức độ khoáng hóa xương. Tuy vậy, trong
thực hành, hiện nay người ta thường sử dụng
máy đo tiêu xương lưỡng quang tử, máy này
cho kết quả nhanh hơn, rẻ hơn, ít nhiễm tia.
Mặt khác, máy cho khả năng lặp lại cao, sử
dụng tia lưỡng năng lượng làm hạn chế sai số
đối với các thành phần mỡ. Do vậy, thiết bị
này rất hữu ích trong giai đoạn chuẩn bị đối
với các trường hợp phụ nữ tuổi mãn kinh và
người lớn tuổi.
2.2.4. Phân tích ứng suất (phương pháp
phân tích phần tử hữu hạn)
Năm 2005, Sevimay và cộng sự công bố
kết quả một thử nghiệm in vitro đánh giá ứng
suất tác dụng lên implant với bốn dạng xương
[10]. Tất cả các thông số như kích thước và
cấu trúc của khối xương, mão kim loại - sứ,
implant, lực tác dụng, đều được chuẩn hóa.
Hình 1 thể hiện phân bố các ứng suất trên
mẫu. Phân tích ứng suất trên abutment và
implant cho thấy đối với dạng xương D1, D2,
và D3, các ứng suất von Mises tác động lên
phần cổ của implant, lực lớn nhất là 150Mpa,
152MPa, và 163MPa tương ứng với dạng D1,
D2, và D3. Đối với dạng D4, các ứng suất von
Mises tác động lên phần cổ và phần giữa của
implant, lực lớn nhất là 180MPa (Hình 2).
102 TCNCYH 86 (1) - 2014
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Hình 1. Phân bố lực trong lòng mẫu Hình 2. Phân bố lực trong implant
và abutment
A: Xương D1, 150 Mpa; C: Xương D3,
163 MPa; B: Xương D2, 152 Mpa; D: Xương
D4, 180 MPa.
Các yếu tố khác như tỷ lệ tiếp xúc xương,
module đàn hồi, các đường viền trục của lực
đều chịu ảnh hưởng bởi mật độ xương. Ở
những người loãng xương, có sự giảm các
hoạt động của dòng tế bào sinh xương (tế bào
trung mô chưa biệt hóa và nguyên bào
xương), bên cạnh đó có sự tăng hoạt động
của nguyên bào hủy xương. Mất cân bằng
giữa các yếu tố đồng hóa và dị hóa ảnh
hưởng đến sự tạo xương và quá trình tái cấu
trúc. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh sự
thay đổi các yếu tố toàn thân có liên quan
đến quá trình tái cấu trúc xương. Ở người
lớn tuổi và loãng xương, có hiện tượng tăng
tức thì các cytokine tiền viêm như TNFα, Fas
Ligand, IL - 6, IL - 1, PGE2, trong khi các yếu
tố sinh xương (IGF - 1, TGF - β1, PDGF,
calcitonine...) giảm. Các yếu tố hormon cũng
ảnh hưởng đến quá trình tăng sinh mạch
máu và tái lập tuần hoàn, là quá trình giữ
vai trò quan trọng trong tạo xương và tái cấu
trúc xương.
2.2.5. Cảm giác tay
Trong thực hành, cảm giác xúc giác cho
phép nhận biết chất lượng xương của ba
dạng: xương mềm, xương bình thường, và
xương đặc nhưng không cho phép phân biệt
các dạng xương trung gian. Tuy nhiên,
phương pháp này chỉ áp dụng được ngay thời
điểm khoan để đặt implant, do đó có ý nghĩa
tiên lượng hơn là chẩn đoán.
2.3. Các yếu tố phục hình: thời hạn cho
implant chịu lực, đặt implant lập tức sau
nhổ răng
Trong một thời gian dài, người ta cho rằng
tích hợp xương là điều kiện thiết yếu để thực
hiện một phục hình chức năng trên implant, và
implant chịu lực sớm sẽ dẫn tới tạo mô sợi và
ngăn cản sinh xương quanh implant. Tuy
nhiên, nhiều nghiên cứu đã cho thấy quá trình
tạo mô quanh implant liên quan đến môi
trường cơ học tại giao diện xương - implant.
Một sự chịu lực sinh lý có thể thúc đẩy quá
trình sinh xương [6; 8; 12].
TCNCYH 86 (1) - 2014 103
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2014
Meyer và cộng sự đã nghiên cứu hoạt
động của nguyên bào xương và quá trình
khoáng hóa trong giai đoạn sớm của quá trình
tích hợp xương, trong những điều kiện chịu
lực khác nhau [6]. Kết quả cho thấy có sự tích
hợp xương, hình ảnh mô học tương tự ở hai
nhóm thử. Tiếp xúc trực tiếp giữa xương và
implant đạt được gần như suốt chiều dài
implant. Thấy được các lá xương xốp trên bề
mặt implant. Ở độ phóng đại lớn hơn, có thể
thấy các tế bào xương trên bề mặt implant và
ở xương lân cận (hình 3).
Hình 3. Mẫu chịu lực, 3 ngày
Hiển vi điện tử truyền sáng:
a) Tiếp xúc bề mặt implant với xương trưởng thành (x 10)
b) Quan hệ xương/implant ở các đường ren (x 20)
c) Giao diện xương/implant (x 20)
d) Các tế bào ở bề mặt implant và trong xương lân cận (x 40).
Qua hình ảnh hiển vi điện tử quét, có thể
nhận thấy lực bám dính giữa xương và
implant tương đương với lực bám dính giữa
các tế bào ở mô xương xung quanh, có tiếp
xúc trực tiếp giữa nguyên bào xương và bề
mặt titan. Bám dính tế bào và các protein
khuôn ngoại bào thấy được ở thời điểm một
ngày và trong suốt thời gian thử nghiệm, ở tất
cả các nhóm. Việc chịu lực không làm thay đổi
tình trạng tiếp xúc xương-implant ở vùng có
tiếp xúc trực tiếp trên bề mặt implant.
Hình ảnh hiển vi điện tử quét ở vùng giao
diện cho thấy quá trình khoáng hóa tiến triển
theo thời gian. Sự tạo xương mới thể hiện qua
hiện tượng sáp nhập các tinh thể để tạo thành
các hạt dạng xương (hình 4 - a,b,c). Quá trình
khoáng hóa kết hợp với quá trình sinh
collagen (hình 4 - d). Quá trình tạo xương cũng
được thấy trên hiển vi điện tử truyền sáng.
104 TCNCYH 86 (1) - 2014
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Hình 4. Mẫu chịu lực - Hiển vi điện tử quét:
Khoáng hóa trên bề mặt implant: các hạt dạng xương hình thành trực tiếp trên bề mặt
implant.
a) 3 ngày b) 7 ngày c, d) 14 ngày
Đánh dấu miễn dịch ở ngày thứ nhất trên fibronectin, thụ thể của fibronectin, và osteonectin
cho thấy các tế bào bám dính trên bề mặt titan có khả năng thực hiện hoạt động chức năng của
các tế bào xương và không thấy có sự khác biệt giữa hai nhóm (hình 5).
Hình 5. Mẫu chịu lực, 3 ngày - Đánh dấu miễn dịch protein
a, b) Lắng đọng fibronectin ngoại bào trên bề mặt titan, ở các độ phóng đại khác nhau. Các
phần tử fibronectin xen vào xương giữa các tế bào và implant.
c) Osteonectin phân tán đều trong khuôn ngoại bào khoáng hóa.
d) Tổng hợp osteonectin do các nguyên bào xương trên bề mặt titan.
TCNCYH 86 (1) - 2014 105
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2014
Trong nghiên cứu này, lực nhai dường
như không ảnh hưởng đến tiếp xúc xương -
implant.
Năm 2005, De Smet và cộng sự đánh giá
tác động của việc chịu lực sớm đối với tích
hợp xương. Tần số âm được đo bằng RFA
ngay sau khi đặt và mỗi tuần một lần sau đó.
Tất cả các implant tiếp hợp tốt và không có
biến chứng. Trong khi các implant chứng có
sự giảm ổn định ở thời điểm một tuần, và thấp
nhất ở ba tuần (- 200 Hz), các implant thử
nghiệm (chịu lực) có sự tăng ổn định dần dần.
Sau sáu tuần, tần số âm trung bình của các
implant thử và chứng đạt cùng giá trị (biểu đồ
1). Kết quả cho thấy một tình trạng chịu lực có
kiểm soát có thể có ích cho sự ổn định implant
trong giai đoạn lành thương sớm [3].
Biểu đồ 1. Giá trị tần số âm trung bình (Hz) của các implant thử và chứng từ ngày 0 tới sáu
tuần sau khi đặt. Kích thích cơ học (implant thử) bắt đầu từ ngày thứ 7 sau phẫu thuật
Trong một nghiên cứu công bố năm 2004,
Nedir và cộng sự so sánh chỉ số ISQitv của
các implant chịu lực tức thì (IL) và các implant
chịu lực ba tháng sau khi đặt (DL). Chỉ số ISQ
được đo ngay sau khi đặt và sau 1, 2, 4, 6, 8,
10 và 12 tuần. Tất cả các implant được kiểm
soát lực trong vòng một năm. Các tiêu chuẩn
thành công là: (1) không có lung lay phát hiện
được trên lâm sàng, (2) không có đau hoặc
cảm giác lạ khác, (3) không có nhiễm khuẩn
tái diễn quanh implant và (4) không có vùng
sáng liên tục quanh implant trên phim tia X
sau khi chịu lực ở thời điểm 3, 6, và 12 tháng.
Sau một năm, hai implant phải lấy bỏ do lung
lay, một của nhóm IL và một của nhóm DL.
Kết quả cho thấy chỉ số ISQ của hai nhóm IL
và DL là ngang nhau ở thời điểm 12 tuần,
không phụ thuộc đường kính và độ dài của
imlant. Sau một năm, tất cả các implant nhóm
IL với ISQi ≥ 54 và implant nhóm DL với ISQi
≥ 49 đều tích hợp xương tốt. Tỷ lệ thành công
của implant IL là 98,4% sau một năm, tương
đương với implant theo quy trình DL chuẩn [7].
3. BÀN LUẬN
Vật liệu và bề mặt implant
Titan là một kim loại rất thích hợp đối với
implant nhờ các đặc tính sinh học và cơ sinh
học của loại vật liệu này. Titan có độ kháng
mòn và kháng ăn mòn hóa học tốt, có các đặc
tính cơ học phù hợp, đồng thời cũng có thể dễ
dàng chế tạo dưới nhiều hình dạng và cấu
trúc khác nhau. Là một kim loại hoạt động,
trong môi trường không khí, trong nước, hoặc
bất kỳ môi trường điện phân nào khác, titan
tạo một lớp oxit xung quanh, chính lớp này
106 TCNCYH 86 (1) - 2014
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
mang lại tính tương hợp sinh học cho titan.
Trạng thái bề mặt giữ vai trò quan trọng
trong quá trình các tế bào xương định vị và
đáp ứng với bề mặt vật liệu. Sự ổn định sơ
khởi và tích hợp xương thuận lợi ở những
implant có bề mặt nhám ở mức độ vi thể, nhờ
các kỹ thuật khác nhau. Trong các yếu tố ảnh
hưởng đến quá trình sinh xương quanh
implant, hình thái bề mặt implant là một yếu tố
đặc biệt quan trọng. Nhiều nghiên cứu đã cho
thấy hiệu quả có lợi của bề mặt nhám đối với
sự bám dính và đáp ứng tế bào cũng như đối
với một số yếu tố điều hòa tại chỗ, như
TGFβ1 và PGE2. Theo Albrektsson và cộng
sự, một bề mặt có một độ nhám thấp, ở mức
micromét, thường thuận lợi hơn đối với sự tạo
xương quanh implant hơn là một bề mặt nhẵn
hoặc sần nhiều [1].
Kết quả các nghiên cứu cũng cho thấy lớp
phủ phosphat calci, như HA [11] có hiệu quả
thúc đẩy quá trình tạo xương quanh implant.
Lớp phủ này tạo thành một rào chắn cơ học
đối với các ion kim loại và các phần tử titan
được giải phóng. Phosphat calci có thể làm
tăng sự hấp thu protein trên bề mặt implant,
tạo điều kiện thuận lợi cho sự bám dính và
hoạt hóa tiểu cầu, các mối liên kết sợi, và thúc
đẩy lành thương. Đã có những nghiên cứu kết
luận vật liệu phosphat calci với cấu trúc xốp
đặc hiệu có tính kích tạo xương, tức là có khả
năng dẫn tới sự tạo xương tại một vị trí mà
trong điều kiện bình thường xương không
được tạo ra [2]. Trong khi đó, cũng có những
bàn luận về khả năng của lớp phủ HA trong
thời gian dài. Một nghiên cứu trên người cho
thấy mặc dù 22,75% lớp phủ HA mất đi sau
10 năm, song các implant tích hợp xương tốt
và thấy được xương tiếp hợp trên bề mặt
implant [13].
Những biến đổi điện hóa trên bề mặt
implant như oxy hóa anod hoặc xử lý titan
bằng NaOH có thể giúp khơi mào quá trình
tạo apatite trên một bề mặt dạng sinh học.
Tiến bộ trong kỹ thuật lắng đọng tia dương
cực (ASD: anodic spark deposition) đã dẫn tới
sự phát triển các cấu trúc phủ hữu cơ thủy
tinh - sứ trên bề mặt kim loại với một lực bám
dính có thể đạt tới 25 Mpa [9; 14].
Bằng các phép thử lực cắt và phân tích mô
học, người ta thấy rằng một bề mặt nhám ở
mức độ vi thể, có xử lý thổi cát và oxy hóa
anod trên một bề mặt sần tạo điều kiện thuận
lợi cho quá trình tạo xương và cố định
implant. Các implant có bề mặt oxy hóa vùi
calci cho phép tạo liên kết hóa học với xương
mới sinh và thuận lợi hơn cho quá trình tích
hợp xương hơn implant nhẵn; các implant có
bề mặt oxy hóa dương cực cho tiếp xúc xương
- implant tương tự như implant phủ HA.
Kỹ thuật mô phỏng sinh học thứ cấp (BSP)
trên bề mặt ASD giúp cải thiện các đặc tính lý-
hóa của bề mặt titan, tạo hình thái sợi nhỏ ở
mức nanomét và làm thay đổi bản chất hóa
học của bề mặt (BioSpark™) với một tỷ lệ Ca/
P cao hơn (2.9). Quá trình BioSpark™ cải
thiện tính tương hợp sinh học của titan và
tăng hoạt tính sinh học cũng như các đặc tính
tích hợp xương của vật liệu mà không gây
hậu quả bất lợi đối với các đặc tính cơ học
của vật liệu [9]. Tuy vậy, các nghiên cứu lâm
sàng đối với các bề mặt anod hóa hoặc thổi
cát có xói mòn axit chỉ giới hạn trong thời gian
nghiên cứu vài năm, cần có những kết quả
lâm sàng ở thời hạn dài [1].
Vấn đề chịu lực
Các tiêu chuẩn sinh cơ học, hóa sinh, chức
năng, và thẩm mỹ là các yếu tố cơ bản để
đảm bảo một thành công lâu dài trên lâm
sàng. Nhìn chung, thời gian cơ bản cần thiết
cho quá trình tích hợp xương của implant là
khoảng 3 tháng đối với hàm dưới và 5 đến 6
tháng đối với hàm trên. Kết quả một số nghiên
TCNCYH 86 (1) - 2014 107
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2014
cứu cũng cho thấy khả năng rút ngắn giai
đoạn chờ đợi. Tuy nhiên, phần lớn các nghiên
cứu này có tính hồi cứu hoặc không có nhóm
chứng. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến
thành công của implant chịu lực tức thì bao
gồm lựa chọn bệnh nhân, chất lượng xương,
chiều dài implant đạt được, cấu trúc vi thể và
đại thể của implant, kỹ năng thực hành của
bác sỹ, sự ổn định sơ khởi, kiểm soát lực cắn
khớp và hướng dẫn đối với phục hình. Sự ổn
định của implant ngay khi đặt và trong giai
đoạn lành thương quanh implant là một yếu tố
quan trọng dẫn tới thành công trên lâm sàng.
Yếu tố sinh cơ học liên quan chặt chẽ tới quá
trình tạo xương tại giao diện xương-implant.
Chịu lực quá mức có thể gây vi dịch chuyển
trong giai đoạn lành thương, gây tổn hại lưới
sợi và mạng lưới tuần hoàn mới ở vùng giao
diện, gây tiêu dần xương xung quanh, từ đó
làm lung lay implant và dẫn tới thất bại. Cần
tiếp tục có các thử nghiệm lâm sàng theo dõi
dọc, song song, tiến cứu, ngẫu nhiên và theo
dõi trong thời gian dài hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Albrektsson T., Wennerberg A (2004).
Oral implant surfaces: Part 2-review focusing
on clinical knowledge of different surfaces. Int
J Prosthodont, 17(5), 544 - 564.
2. Chang Y.L., Lew D., Park J.B et al
(1999). Biomechanical and morphometric
analysis of hydroxyapatite-coated implants
with varying crystallinity. J Oral Maxillofac
Surg, 57(9), 1096 - 1108.
3. De Smet E., Jaecques S., Vandamme
K et al (2005). Positive effect of early loading
on implant stability in the bi-cortical guinea-pig
model. Clinical Oral Implants Research, 16(4),
402 - 407.
4. Lachmann S., Jäger B., Axmann D et
al (2006). Resonance frequency analysis and
damping capacity assessment - Part 1: An in
vitro study on measurement reliability and a
method of comparison in the determination of
primary dental implant stability. Clinical Oral
Implants Research, 17(10), 75 - 79.
5. Lachmann S., Laval J.Y., Jäger B et al
(2006). Resonance frequency analysis and
damping capacity assessment - Part 2:
Peri-implant bone loss follow-up. An in vitro
study with the Periotest and Osstell instru-
ments. Clinical Oral Implants Research, 17(1),
80 - 84.
6. Meyer U., Joos U., Mythili J et
al (2004). Ultrastructural characterization of
the implant/bone interface of immediately
loaded dental implants. Biomaterials, 25(10),
1959 - 1967.
7. Nedir R., Bischof M., Szmukler-
Moncler S et al (2004). Predicting
osseointegration by means of implant primary
stability - A resonance-frequency analysis
study with delayed and immediately loaded ITI
SLA implants. Clinical Oral Implants
Research, 15(5), 520 - 528.
8. Romanos G.E (2004). Present status of
immediate loading of oral implants. J Oral
Implantol, 30(3), 189 - 197.
9. Sandrini E., Morris C., Chiesa R et al
(2005). In vitro assessment of the
osteointegrative potential of a novel
multiphase anodic spark deposition coating for
orthopaedic and dental implants. J Biomed
Mater Res B Appl Biomater, 73(2), 392 - 399.
10. Sevimay M., Turhan F., Kiliçarslan
M.A et al (2005). Three-dimensional finite
element analysis of the effect of different bone
quality on stress distribution in an implant-
supported crown. The Journal of Prosthetic
Dentistry, 93(3), 227 - 234.
11. Shirakura M., Fujii N., Ohnishi H et al
(2003). Tissue response to titanium
108 TCNCYH 86 (1) - 2014
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
implantation in the rat maxilla, with special
reference to the effects of surface conditions
on bone formation. Clin Oral Implants Res 14
(6), 687 - 696.
12. Simmons C.A., Meguid S.A., Pilliar
R.M (2001). Differences in osseointegration
rate due to implant surface geometry can be
explained by local tissue strains. J Orthop Res
19(2), 187 - 194.
13. Trisi P., Keith D.J., Rocco S (2005).
Human histologic and histomorphometric
analyses of hydroxyapatite-coated implants
after 10 years of function: a case report. Int J
Oral Maxillofac Implants, 20(1), 124 - 130.
14. Zhu X., Ong J.L., Kim S et al (2002).
Surface characteristics and structure of anodic
oxide films containing Ca and P on a titanium
implant material. J Biomed Mater Res, 60(2),
333 - 338.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22_71_1_pb_3005.pdf