Nghiên cứu được thực hiện nhằm so sánh các chỉ số liên quan tới dinh dưỡng của các nhóm dinh dưỡng
tốt và nhóm suy dinh dưỡng (chỉ số BMI) của bệnh nhân mới nhập viện tại bệnh viện 198. Kết quả cho thấy:
Các chỉ số liên quan tới nguy cơ dinh dưỡng khác của nhóm bệnh nhân suy dinh dưỡng đều cao hơn so với
nhóm bệnh nhân dinh dưỡng tốt và nhóm thừa cân béo phì (TCBP). Tỷ lệ giảm cân > 5 % trong 6 tháng của
bệnh nhân suy dinh dưỡng là 16,1%, cao hơn gấp 2 lần so với tỷ lệ này ở bệnh nhân dinh dưỡng tốt (7,4%)
nhưng sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Có tới 37,5% bệnh nhân ở nhóm suy dinh dưỡng
phải nằm tại giường, với nhóm bệnh nhân dinh dưỡng tốt, tỷ lệ này chỉ là 15,4% và nhóm thừa cân béo phì
là 11,6%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01. Các dấu hiệu thực thể về giảm mỡ dưới da, giảm cơ
ở nhóm thiếu dinh dưỡng là 22,6% và 6,5% đều cao hơn nhóm dinh dưỡng tốt (8,9% và 4,1%) và nhóm thừa
cân béo phì (2,7% và 0,9%) (p < 0,05).
7 trang |
Chia sẻ: Mịch Hương | Ngày: 31/03/2025 | Lượt xem: 26 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh chỉ số dinh dưỡng giữa các nhóm theo chỉ số BMI của bệnh nhân tại bệnh viện 198 năm 2012, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TCNCYH 83 (3) - 2013 167
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
SO SÁNH CHỈ SỐ DINH DƯỠNG GIỮA CÁC NHÓM
THEO CHỈ SỐ BMI CỦA BỆNH NHÂN TẠI BỆNH VIỆN 198 NĂM 2012
Nguyễn Đỗ Huy1 ,Dzoãn Thị Tường Vi2
1Viện Dinh dưỡng Quốc gia; 2Bệnh viện 198 - Bộ Công An
Nghiên cứu được thực hiện nhằm so sánh các chỉ số liên quan tới dinh dưỡng của các nhóm dinh dưỡng
tốt và nhóm suy dinh dưỡng (chỉ số BMI) của bệnh nhân mới nhập viện tại bệnh viện 198. Kết quả cho thấy:
Các chỉ số liên quan tới nguy cơ dinh dưỡng khác của nhóm bệnh nhân suy dinh dưỡng đều cao hơn so với
nhóm bệnh nhân dinh dưỡng tốt và nhóm thừa cân béo phì (TCBP). Tỷ lệ giảm cân > 5 % trong 6 tháng của
bệnh nhân suy dinh dưỡng là 16,1%, cao hơn gấp 2 lần so với tỷ lệ này ở bệnh nhân dinh dưỡng tốt (7,4%)
nhưng sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Có tới 37,5% bệnh nhân ở nhóm suy dinh dưỡng
phải nằm tại giường, với nhóm bệnh nhân dinh dưỡng tốt, tỷ lệ này chỉ là 15,4% và nhóm thừa cân béo phì
là 11,6%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01. Các dấu hiệu thực thể về giảm mỡ dưới da, giảm cơ
ở nhóm thiếu dinh dưỡng là 22,6% và 6,5% đều cao hơn nhóm dinh dưỡng tốt (8,9% và 4,1%) và nhóm thừa
cân béo phì (2,7% và 0,9%) (p < 0,05).
Từ khóa: tình trạng dinh dưỡng, nhân trắc, phương pháp nhân trắc, suy dinh dưỡng
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chế độ dinh dưỡng đầy đủ ở người trưởng
thành giúp đảm bảo cấu trúc và chức năng
của các cơ quan trong cơ thể, hệ thống miễn
dịch được tăng cường để chống lại bệnh tật,
cơ thể duy trì được trạng thái sức khỏe tốt [1].
Dinh dưỡng tốt trong bệnh viện sẽ giúp bệnh
nhân tăng cường khả năng đề kháng với bệnh
tật, sớm lành bệnh và mau chóng hồi phục
sức khỏe. Khi bị mắc bệnh, những người có
tình trạng dinh dưỡng cơ thể tốt sẽ có sức đề
kháng với bệnh tật tốt hơn và mau chóng lành
bệnh; trong khi những người có cơ thể kém
dinh dưỡng, đặc biệt là suy dinh dưỡng kéo
dài, khi mắc bệnh sẽ lâu khỏi. Suy dinh dưỡng
ở bệnh nhân nằm viện dẫn đến tăng biến
chứng đối với bệnh, kéo dài thời gian nằm
viện, tăng tỷ lệ tử vong, tăng chi phí y tế. Do
đó, việc xác định tình trạng dinh dưỡng ở
bệnh nhân nhập viện là rất cần thiết, đặc biệt
là những bệnh nhân có nguy cơ cao cần hỗ
trợ dinh dưỡng tích cực. Việc đánh giá tình
trạng dinh dưỡng của bệnh nhân trong bệnh
viện chưa được coi trọng, nếu có thì chỉ đánh
giá tình trạng dinh dưỡng qua các chỉ số nhân
trắc (chiều cao, cân nặng và chỉ số BMI).
Trong khi các công cụ đánh giá tình trạng dinh
dưỡng như công cụ đánh giá đối tượng toàn
diện (Subjective Global Assessment) (SGA)
cho người bệnh từ 16 đến 65 tuổi được sử
dụng rộng rãi trong bệnh viện của các nước
trên thế giới thì việc sử dụng các công cụ này
còn rất xa lạ với hầu hết các bệnh viện ở
nước ta [2; 3].
Hiện nay vấn đề dinh dưỡng trong bệnh
viện vẫn chưa được quan tâm đúng mức.
Thông tin về tình hình dinh dưỡng của bệnh
nhân mới nhập viện nói chung và theo từng
khoa phòng nói riêng còn rất hạn chế. Do đó,
nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục
tiêu so sánh các chỉ số liên quan tới dinh
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Đỗ Huy, Viện Dinh Dưỡng, 48B,
Tăng Bạt Hổ
email: nguyendohuy1965@yahoo.com
Ngày nhận: 25/02/2013
Ngày được chấp thuận: 20/6/2013
168 TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
dưỡng của các nhóm dinh dưỡng tốt và nhóm
suy dinh dưỡng (chỉ số BMI) của bệnh nhân
mới nhập viện tại bệnh viện 198.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Phương pháp
Phương pháp nghiên cứu cắt ngang mô tả,
tiến hành từ tháng 2 đến tháng 4 năm 2012
tại bệnh viện Bệnh viện 198.
2. Cỡ mẫu
Trong đó:
- n là số lượng cần điều tra; Z2
(1-α/2): Độ tin
cậy 95% thì Z = 1,96.
- p là tỷ lệ suy dinh dưỡng trong bệnh viện
ước tính là 36,9 % [2].
- d là sai số cho phép là 5%. => cỡ mẫu
tính được là 398.
3. Đối tượng
Bệnh nhân là cán bộ, chiến sỹ ngành công
an từ 18 - 65 tuổi mới nhập viện điều trị nội trú
trong 48 giờ đầu (trừ bệnh nhân gù vẹo cột
sống, mắc các bệnh cấp tính, cấp cứu) được
đưa vào nghiên cứu.
4. Phương pháp thu thập số liệu
Tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân
được đánh giá trong vòng 48 giờ sau khi nhập
viện bằng phương pháp nhân trắc (BMI). Đo
chiều cao bệnh nhân bằng thước dây
Microtoise, cân nặng được đo bằng cân
Tanita của Nhật bản. Chỉ số BMI = cân nặng
(kg)/chiều cao (m)2. Đánh giá tình trạng dinh
dưỡng bằng chỉ số khối cơ thể BMI theo tiêu
chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới đối với
người châu Á: Người thiếu năng lượng trường
diễn khi BMI < 18,5 kg/m2, thừa cân khi BMI ≥
23 kg/m2 và béo phì khi BMI ≥ 25 kg/m2
5. Xử lý số liệu
Các biến định lượng được kiểm tra phân
bố chuẩn trước khi phân tích và sử dụng kiểm
định tham số hoặc phi tham số. So sánh các
tỷ lệ bằng kiểm định Chisquare test. Các phân
tích thống kê được thực hiện trên phần mềm
SPSS 16.0. Ý nghĩa thống kê được xác định
với giá trị p < 0,05 theo 2 phía.
6. Đạo đức nghiên cứu
Trước khi tiến hành nghiên cứu, các cán
bộ nghiên cứu sẽ làm việc chi tiết về nội dung,
mục đích nghiên cứu với lãnh đạo Bệnh viện,
cùng với cán bộ của các Khoa lâm sàng, trình
bày và giải thích nội dung, mục đích nghiên
cứu với người bệnh. Các đối tượng tham gia
phỏng vấn một cách tự nguyện, không bắt
buộc và có quyền từ bỏ không tham gia
nghiên cứu mà không cần bất cứ lý do nào.
Với bệnh nhân suy dinh dưỡng sẽ được tư
vấn dinh dưỡng, tư vấn sức khoẻ. Các thông
tin về đối tượng được giữ bí mật và chỉ được
sử dụng với mục đích nghiên cứu, đem lại lợi
ích cho cộng đồng.
III. KẾT QUẢ
Tỷ lệ giảm cân từ 5 - 10% trong 6 tháng
qua ở nhóm suy dinh dưỡng là 12,9% cao
hơn tỷ lệ này ở nhóm dinh dưỡng tốt (7,4%)
và nhóm thừa cân béo phì (2,7%) (p > 0,05).
Tỷ lệ giảm cân > 10% cân nặng trong 6 tháng
ở nhóm dinh dưỡng tốt là 1,5%, còn ở nhóm
suy dinh dưỡng là 3,2% (p > 0,05). Tỷ lệ giảm
cân trong 2 tuần ở nhóm suy dinh dưỡng là
48,4% cao hơn tỷ lệ này ở nhóm dinh dưỡng
tốt (33,0%) và nhóm thừa cân béo phì (16,4%)
(p < 0,01).
2d
p)p(12 α/21Zn
−
−
=
TCNCYH 83 (3) - 2013 169
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bảng 1. Đặc điểm cân nặng của đối tượng theo tình trạng dinh dưỡng (BMI)
Các yếu tố liên quan
tới tình trạng dinh dưỡng
Tình trạng dinh dưỡng theo BMI
Giá trị p,
Chi-Square
test
Suy dinh
dưỡng
(n1 = 31)
Bình thường
(n2 = 270)
Thừa cân
béo phì
(n3 = 110)
Giảm cân trong 6 tháng qua, n(%)
Dưới 5% 26(83,9) 246 (91,1) 107(97,3)
> 0,05 Từ 5 - 10% 4 (12,9) 20 (7,4) 3(2,7)
> 10% 1 (3,2) 4(1,5) 0(0,0)
Thay đổi cân trong 2 tuần qua, n(%)
Tăng cân 2(6,5) 6(2,2) 1(0,9)
< 0,001 Giảm cân 15 (48,4) 89(33,0) 18(16,4)
Không thay đổi 14 (45,2) 175(64,8) 91(82,7)
Bảng 2. Đặc điểm thay đổi khẩu phần của đối tượng theo tình trạng dinh dưỡng (BMI)
Các yếu tố liên quan
tới tình trạng dinh dưỡng
Tình trạng dinh dưỡng theo BMI
Chi-
Square
test
Suy dinh
dưỡng
(n1 = 31)
Bình thường
(n2 = 270)
Thừa cân
béo phì
(n3 = 110)
Thay đổi khẩu phần, n(%)
Không thay đổi 20 (64,5) 203 (75,2) 89 (80,9)
> 0,05 Thay đổi 11 (35,5) 67 (24,8) 21 (19,1)
Trang thái thay đổi khẩu phần, n(%)
Cháo đặc 4 (12,9) 33 (12,2) 13 (11,8)
> 0,05
Dịch, đủ năng lượng 2 (6,5) 15 (5,6) 4 (3,6)
Dịch, năng lượng thấp (0,0) 4 (1,5) 2 (1,8)
Nhịn đói 5 (16,1) 16 (5,9) 2 (1,8)
Không thay đổi 20 (64,5) 202 (74,8) 89 (80,9)
Tỷ lệ thay đổi (giảm) khẩu phần ăn khi nhập viện ở nhóm suy dinh dưỡng chiếm tới 35,5%,
cao hơn so với tỷ lệ này ở nhóm dinh dưỡng tốt (24,8%) và cao hơn nhóm thừa cân béo phì
(19,1%) (p > 0,05). Nhóm suy dinh dưỡng phải nhịn đói là 16,1%, cao hơn tỷ lệ này ở nhóm dinh
dưỡng tốt (5,9%) và nhóm thừa cân béo phì (1,8%) (p > 0,05).
170 TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bảng 3. Triệu chứng dạ dày-ruột theo tình trạng dinh dưỡng (BMI)
Các yếu tố liên quan
tới tình trạng dinh dưỡng
Tình trạng dinh dưỡng theo BMI
Chi-
Square
test
Suy dinh
dưỡng
(n1 = 31)
Bình thường
(n2 = 270)
Thừa cân
béo phì
(n3 = 110)
Triệu chứng dạ dày - ruột, n(%)
Không có triệu chứng 27(87,1) 208(77,0) 87(79,1)
> 0,05
Buồn nôn 0(0,0) 11(4,1) 3(2,7)
Nôn 1(3,2) 3(1,1) 15(0,9)
Chán ăn 3(9,7) 39(14,4) 17(15,5)
Tiêu chảy 0(0,0) 9(3,3) 2(1,8)
Có 12,9% bệnh nhân ở nhóm suy dinh dưỡng xuất hiện các triệu chứng dạ dày-ruột, trong khi
đó ở nhóm dinh dưỡng tốt tỷ lệ này lại là 23,0% và nhóm thừa cân béo phì là 20,9% (p > 0,05).
Nhóm suy dinh dưỡng tỷ lệ chán ăn chỉ là 7,7%, thấp hơn tỷ lệ này ở nhóm dinh dưỡng tốt
(14,4%) và nhóm thừa cân béo phì (15,5%) ( p > 0,05).
Bảng 4. Thay đổi chức năng vận động theo tình trạng dinh dưỡng (BMI)
Các yếu tố liên quan
tới tìn trạng dinh dưỡng
Tình trạng dinh dưỡng theo BMI
Chi-
Square
test
Suy dinh
dưỡng
(n1 = 31)
Bình thường
(n2 = 270)
Thừa cân
béo phì
(n3 = 110)
Thay đổi các chức năng vận động, n(%)
Không thay đổi 14(45,2) 177(65,6) 70(63,6)
> 0,05 Giảm 17(54,8) 93(34,4) 40(36,4)
Trạng thái thay đổi chức năng vận động, n(%)
Đi lại được 11(45,8) 108(61,7) 35(50,7)
< 0,01 Giảm chức năng 50% 4(16,7) 40(22,9) 26(37,7)
Nằm tại giường 9(37,5) 27(15,4) 8(11,6)
Nhóm suy dinh dưỡng có tỷ lệ giảm chức năng vận động là 54,8%, trong khi đó tỷ lệ này ở
nhóm dinh dưỡng tốt là 34,4% và nhóm thừa cân béo phì là 36,4% (p > 0,05). Nhóm suy dinh
dưỡng có tỷ lệ đi giảm chức năng 50% là 16,7%, thấp hơn tỷ lệ này ở nhóm dinh dưỡng bình
thường(22,9%) và thấp hơn so với nhóm thừa cân béo phì (37,7%) (p > 0,05). Một điều đáng
quan tâm là ở nhóm suy dinh dưỡng có tới 37,5% bệnh nhân phải nằm tại giường, tỷ lệ này là
TCNCYH 83 (3) - 2013 171
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
15,4% với nhóm dinh dưỡng tốt và là 11,6% với nhóm thừa cân béo phì,sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p < 0,01.
Bảng 5. Mức độ sang chấn chuyển hóa do bệnh tật kèm theo và dấu hiệu thực thể về dinh
dưỡng theo tình trạng dinh dưỡng (BMI)
Các yếu tố liên quan
tới tình trạng dinh dưỡng
Tình trạng dinh dưỡng theo BMI
Chi-
Square
test
Suy dinh
dưỡng
(n1 = 31)
Bình thường
(n2 = 270)
Thừa cân
béo phì
(n3 = 110)
Sang chấn chuyển hóa do bệnh kèm theo, n(%)
Không có triệu chứng 9(29,0) 76(28,1) 39(35,5)
> 0,05
Nhẹ 9(29,0) 126(46,7) 36(32,7)
Vừa 13(41,9) 60(22,2) 35(31,8)
Nặng 0(0,0) 8(3,0) 0(0,0)
Dấu hiệu thực thể về dinh dưỡng, n(%)
Không có dấu hiệu gì 22(71,0) 233(86,3) 106(96,4)
Giảm lớp mỡ dưới da 7(22,6) 24(8,9) 3(2,7)
< 0,01 Phù, giữ nước 0(0,0) 2(0,7) 0(0,0)
Giảm khối cơ 2(6,5) 11(4,1) 1(0,9)
Có tới 71% nhóm suy dinh dưỡng có dấu hiệu sang chấn chuyển hóa do bệnh kèm theo ở các
mức độ khác nhau, trong khi đó với nhóm dinh dưỡng tốt, tỷ lệ này còn cao hơn (71,9%) và nhóm
thừa cân béo phì là thấp nhất (64,5%) (p > 0,05). Tỷ lệ sang chấn chuyển hóa ở mức độ vừa của
nhóm suy dinh dưỡng là 41,9%, cao hơn so với tỷ lệ này ở nhóm dinh dưỡng tốt (22,2%) và cao
hơn tỷ lệ này ở nhóm thừa cân béo phì (31,8%)(p < 0,01). Các dấu hiệu thực thể về giảm mỡ
dưới da, giảm cơ ở nhóm thiếu dinh dưỡng là 22,6% và 6,5% đều cao hơn nhóm dinh dưỡng tốt
(8,9% và 4,1%) và nhóm thừa cân béo phì (2,7% và 0,9%) (p < 0,01).
với thiếu dinh dưỡng, vẫn có một tỷ lệ thừa
cân - béo phì chiếm tới 26,8%. Số đối tượng
này tập trung nhiều ở các bệnh về rối loạn
chuyển hóa như đái tháo đường typ 2, rối loạn
mỡ máu, gút Điều này cũng phù hợp với
nghiên cứu trước đây của Phạm Thu Hương
tại bệnh viện Bạch Mai [2].
Kết quả trong nghiên cứu này cho thấy tỷ
lệ giảm cân > 5 % trong 6 tháng của bệnh
nhân suy dinh dưỡng là 16,1%, cao hơn gấp 2
IV. BÀN LUẬN
Đánh giá theo tiêu chuẩn BMI cho thấy
thực trạng vấn đề vừa thiếu dinh dưỡng vừa
thừa cân-béo phì ở đối tượng mới nhập viện.
Tỷ lệ thiếu dinh dưỡng (BMI < 18,5) thiếu
năng lượng trường diễn chiếm 7,5% thấp hơn
so với tỷ lệ 9 % trong nghiên cứu tại cộng
đồng [6]. Chỉ số khối cơ thể BMI ngoài việc
đánh giá tỷ lệ thiếu dinh dưỡng, còn cho thấy
cả tỷ lệ thừa cân - béo phì. Song song tồn tại
172 TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
lần so với tỷ lệ này ở bệnh nhân dinh dưỡng
tốt (7,4%) nhưng sự khác biệt chưa có ý
nghĩa thống kê (p > 0,05). Tỷ lệ bệnh nhân
giảm khẩu phần ăn khi nhập viện ở nhóm
bệnh nhân suy dinh dưỡng là 35,5%, cao hơn
so với tỷ lệ này ở nhóm bệnh nhân dinh
dưỡng tốt (24,8%) và nhóm thừa cân béo phì
(19,1%), sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống
kê (p > 0,05). Tỷ lệ bệnh nhân có thay đổi về
khẩu phần ăn uống trong thời gian mắc bệnh
của nhóm suy dinh dưỡng trong nghiên cứu
của chúng tôi của nhóm suy dinh dưỡng cao
hơn, nhưng tỷ lệ này của nhóm dinh dưỡng
tốt và nhóm thừa cân béo phì lại thấp hơn tỷ
lệ này (33,15%) trong nghiên cứu tại Hàn
quốc (2010) [7]. Nhóm bệnh nhân khoa suy
dinh dưỡng phải nhịn đói là 16,1 %, cao hơn
tỷ lệ phải nhịn đói của bệnh nhân dinh dưỡng
tốt (5,9%) (p > 0,05). Nhóm bệnh nhân suy
dinh dưỡng có tỷ lệ chán ăn chỉ là 9,7%, thấp
hơn so với bệnh nhân dinh dưỡng tốt (14,4%)
và nhóm thừa cân béo phì (15,5%), sự khác
biệt chưa có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Tỷ lệ
bệnh nhân giảm chức năng vận động của
nhóm bệnh nhân suy dinh dưỡng là 54,8%,
cao hơn so với tỷ lệ này ở nhóm bệnh nhân
dinh dưỡng tốt (34,4%) và nhóm bệnh thừa
cân béo phì (36,4%), sự khác biệt chưa có ý
nghĩa thống kê với p > 0,05. Đặc biệt ở nhóm
suy dinh dưỡng có tới 37,5% bệnh nhân phải
nằm tại giường, với nhóm bệnh nhân dinh
dưỡng tốt, tỷ lệ này chỉ là 15,4% và nhóm
thừa cân béo phì là 11,6%, sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p < 0,01. Mức độ sang
chấn chuyển hóa do bệnh kèm theo ở nhóm
SDD là 71%, ở nhóm dinh dưỡng tốt là 71,9%
và nhóm thừa cân béo phì là 64,5%, (p >
0,05). Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ
bệnh nhân suy dinh dưỡng có xuất hiện sang
chấn chuyển hóa do bệnh kèm theo là 71%,
cao hơn tỷ lệ này(12,3%) trong nghiên cứu tại
Hàn Quốc (2010) [7].
V. KẾT LUẬN
Tỷ lệ giảm cân > 5 % trong 6 tháng của
bệnh nhân suy dinh dưỡng là 16,1%, cao hơn
gấp 2 lần so với tỷ lệ này ở bệnh nhân dinh
dưỡng tốt (7,4%) (p > 0,05).
Có tới 37,5% bệnh nhân ở nhóm suy dinh
dưỡng phải nằm tại giường, với nhóm bệnh
nhân dinh dưỡng tốt, tỷ lệ này là 15,4% và
nhóm thừa cân béo phì là 11,6% (p < 0,01).
Các dấu hiệu thực thể về giảm mỡ dưới
da, giảm cơ ở nhóm thiếu dinh dưỡng là
22,6% và 6,5% đều cao hơn nhóm dinh
dưỡng tốt (8,9% và 4,1%) và nhóm thừa cân
béo phì (2,7% và 0,9%) (p < 0,05).
Khuyến nghị
Áp dụng các phương pháp đánh giá tình
trạng dinh dưỡng bằng chỉ số nhân trắc BMI,
đặc biệt bằng phương pháp đánh giá toàn
diện (SGA) cho bệnh nhân nhập viện để phát
hiện sớm những bệnh nhân có nguy cơ suy
dinh dưỡng.
Lời cảm ơn
Xin chân thành cảm ơn các bác sỹ, cán bộ
điều dưỡng, dinh dưỡng và kỹ thuật viên của
khoa Dinh dưỡng và các Khoa lâm sàng của
bệnh viện 198 đã tham gia và đóng góp quan
trọng cho thành công của nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hà Huy Khôi (2002). Dinh dưỡng lâm
sàng. Nhà xuất bản Y học.
2. Phạm Thu Hương và cộng sự (2006).
Tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân nhập
viện khoa tiêu hóa và nội tiết tại Bệnh viện
Bạch Mai. Tạp chí Dinh Dưỡng và Thực
phẩm, số 3+4, trang 85.
3. M.Shirodkar, K.Mohandas (2005). Sub-
jective Global Assessment: a simple and relia-
ble screening tool for malnutrition among Indi-
TCNCYH 83 (3) - 2013 173
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Summary
DIFFERENTIATION OF AT RISK INDICATORS OF MALNUTRITION OF
HOSPITALISED PATIENTS BY BMI GROUPS IN 198 HOSPITAL
This article showed the differentiation of nutrition related factors (weight loss, food intake change,
stomach - intestinal symptoms, physical function, loss of subcutaneous fat, edema, ascites....) of
normal nutrtition and malnutrition groups of hospitalized patients by anthropomestric method. A
cross sectional study conducted from February to April 2012 in 411 patients hospitalized within 24
hours in the Hospital 198 showed that the at risk indicators of malnutrition of malnourrished
patients were higher than those of welnourished patients and obesity patients. The percentage of
unintentional weight loss > 5% during the last 6 months of the malnourished patients was 16.1%
and was twice higher than that of the wellnourished patients (7.4%; p > 0.05). The percentage of
bed-ridden patients was 37.5%, and was higher than that of the wellnourished patients (15.4%)
and obese patients (11.6%) (p < 0.01). The percentage of loss of fat mass and muscle mass of
the malnourished patients was 22.6% and 6.5 % respectively, and was higher than that of the
wellnourished patients (8.9% and 4.1%) and the obese patients (2.7% and 0.9%) (p < 0.05).
Keywords: nutritional status, anthropometrical method, malnutrition
an. Indian Journal of Gastroenterology, 24,
246 - 250.
4. Jane A.Read et al. (2005). Nutritional
Assessment in cancer: Comparing the Mini
Nutritional Assessment (MNA) with the Scored
Patient – Generated Subjective Global
Assessment (PG-SGA). Nutrition and Cancer,
53(1), 51 - 56.
5. Dona J.Secker et al. (2007). Subjective
Global Assessment for children. Am J Clin
Butr. 85, 1083 - 1089.
6. Viện Dinh Dưỡng quốc gia (2010):
Tổng điều tra dinh dưỡng và tiêu thụ thực
phẩm. Nhà xuất bản Y học.
7. Woong Sub Koom, Seung Do Ahn, et
al (2012). Nutritional status of patients treated
with radiotherapy as determined by subjective
global assessment. Radiat Oncol J; 30(3),
132 - 139.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
so_sanh_chi_so_dinh_duong_giua_cac_nhom_theo_chi_so_bmi_cua.pdf