Nghiên cứu tiến hành nhằm xác định tỷ lệ tế bào bất thường và các typ HPV trên 1004 phụ nữ tỉnh Thái
Nguyên có độ tuổi từ 20 - 60 bằng xét nghiệm sàng lọc tế bào học phụ khoa và được định typ HPV trong thời
gian từ tháng 8 năm 2011 đến tháng 11 năm 2011. Kết quả: Tuổi trung bình của phụ nữ làm xét nghiệm là
46 ± 8,6, số phụ nữ trong độ tuổi 30 - 50 chiếm ≈ 84%. Có 1,9% HSIL; 2,9% ASC và 4,1% LSIL. Có 92
trường hợp nhiễm HPV (chiếm 9,2%) với tổng số 19 typ. Trong số đó, 5,1% là các trường hợp nhiễm HPV
typ nguy cơ thấp (6 typ), trong đó chiếm nhiều nhất là typ 81 (2,3%), tiếp đến là typ 11 (1,9%). Các typ khác
chiếm tỷ lệ thấp (< 1%). Chúng tôi phát hiện được 114 lượt xuất hiện của HPV typ nguy cơ cao với 13 typ,
trong đó typ 16 và 18 chiếm tỷ lệ cao nhất (lần lượt là 3,8% và 2,5%).Toàn bộ các trường hợp HSIL đều
nhiễm HPV, có 97,6% trường hợp LSIL nhiễm HPV và chỉ có 62,1% các trường hợp ASC nhiễm HPV.
9 trang |
Chia sẻ: Mịch Hương | Ngày: 31/03/2025 | Lượt xem: 28 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát hiện tế bào cổ tử cung bất thường và nhiễm HPV ở phụ nữ Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TCNCYH 83 (3) - 2013 151
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
PHÁT HIỆN TẾ BÀO CỔ TỬ CUNG BẤT THƯỜNG VÀ
NHIỄM HPV Ở PHỤ NỮ THÁI NGUYÊN
Lê Quang Vinh1, Lưu Thị Hồng2
1Bệnh viện Phụ sản Trung ương, 2Trường Đại học Y Hà nội
Nghiên cứu tiến hành nhằm xác định tỷ lệ tế bào bất thường và các typ HPV trên 1004 phụ nữ tỉnh Thái
Nguyên có độ tuổi từ 20 - 60 bằng xét nghiệm sàng lọc tế bào học phụ khoa và được định typ HPV trong thời
gian từ tháng 8 năm 2011 đến tháng 11 năm 2011. Kết quả: Tuổi trung bình của phụ nữ làm xét nghiệm là
46 ± 8,6, số phụ nữ trong độ tuổi 30 - 50 chiếm ≈ 84%. Có 1,9% HSIL; 2,9% ASC và 4,1% LSIL. Có 92
trường hợp nhiễm HPV (chiếm 9,2%) với tổng số 19 typ. Trong số đó, 5,1% là các trường hợp nhiễm HPV
typ nguy cơ thấp (6 typ), trong đó chiếm nhiều nhất là typ 81 (2,3%), tiếp đến là typ 11 (1,9%). Các typ khác
chiếm tỷ lệ thấp (< 1%). Chúng tôi phát hiện được 114 lượt xuất hiện của HPV typ nguy cơ cao với 13 typ,
trong đó typ 16 và 18 chiếm tỷ lệ cao nhất (lần lượt là 3,8% và 2,5%).Toàn bộ các trường hợp HSIL đều
nhiễm HPV, có 97,6% trường hợp LSIL nhiễm HPV và chỉ có 62,1% các trường hợp ASC nhiễm HPV.
Từ khóa: Ung thư cổ tử cung, sàng lọc tế bào học phụ khoa, HPV
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư cổ tử cung là bệnh có tỷ lệ mắc cao,
ở Việt Nam, đứng hàng thứ hai trong tổng số
các ung thư thường gặp nhất ở phụ nữ. Từ đầu
thế kỷ XXI, đã xác định được nguyên nhân chính
gây ung thư cổ tử cung là HPV (99,7% các
trường hợp ung thư cổ tử cung). Tuy nhiên, đây
là một trong số ít ung thư có thể phát hiện sớm
bằng sàng lọc tế bào học phụ khoa tại cộng
đồng, đặc biệt cho nhóm phụ nữ có nguy cơ cao
(30 - 50 tuổi). Chính nhờ phương pháp sàng lọc
này, tỷ lệ ung thư cổ tử cung tại Hoa Kỳ đã giảm
từ vị trí số 1 trong thập niên 50 của thế kỷ trước
xuống thứ 8 ở đầu thế kỷ 21 [1]. Tại Việt Nam,
sàng lọc phát hiện sớm ung thư cổ tử cung
bằng xét nghiệm tế bào phụ khoa đã được tiến
hành từ nhiều thập niên qua, chưa có tính hệ
thống và định kỳ. Đặc biệt, việc xác định tỷ lệ và
các typ HPV thường gặp cũng mới chỉ là những
đề tài với cỡ mẫu khiêm tốn, trên diện hẹp và
hầu như chỉ tập trung tại Hà Nội, thành phố Hồ
Chí Minh, ít được thực hiện tại các địa phương
khác [2, 3, 4]. Trước thực tế, chúng tôi phối hợp
cùng với Trường đại học Y tế công cộng nghiên
cứu nhằm mục tiêu: Xác định tỷ lệ các tế bào bất
thường và các typ HPV tại cộng đồng phụ nữ ở
tỉnh Thái Nguyên.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
1004 phụ nữ sống tại tỉnh Thái Nguyên
được khám và lấy tế bào cổ tử cung – âm
đạo, xét nghiệm định typ HPV trong khoảng
thời gian từ tháng 8/2011 đến tháng 11/2011.
Tiêu chuẩn lựa chọn
Là những phụ nữ từ 20 - 60 tuổi; đã có
quan hệ tình dục; không có thai; không rửa
sâu vào âm đạo trước khi xét nghiệm; không
điều trị bệnh phụ khoa trước đó ít nhất 7 ngày;
không vào thời kỳ hành kinh; không quan hệ
tình dục trước khi xét nghiệm 3 ngày.
Địa chỉ liên hệ: Lưu Thị Hồng, Bộ môn Phụ sản, trường
Đại học Y Hà Nội
Email: luuhong1960@yahoo.com
Ngày nhận: 13/03/2013
Ngày được chấp thuận: 20/6/2013
152 TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Tiêu chuẩn loại trừ
Những trường hợp có 1 trong các tiêu chí
sau: Đã khoét chóp hay cắt tử cung hoàn
toàn/Bệnh nhân mới nạo, sảy thai chưa được
7 ngày trở lên. Những bệnh nhân tái khám, đã
hoặc đang điều trị bệnh đường sinh dục dưới.
Tiêu chuẩn loại trừ (hoặc xét nghiệm lại) các
phiến đồ không đủ điều kiện nghiên cứu
Các phiến đồ có 1 trong các vấn đề dưới
đây: Phiến đồ có quá ít tế bào, phiến đồ
không lấy được tế bào vùng chuyển tiếp
phiến đồ quá dầy, các tế bào chồng chất lên
nhau hoặc có quá nhiều tế bào viêm che lấp
các thành phần khác.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu
- Nghiên cứu được tiến hành theo phương
pháp mô tả cắt ngang.
- Cỡ mẫu: Bốc thăm chọn ngẫu nhiên 3
phường và 3 xã (để bao gồm có cả nông thôn
và thành phố). Tất cả phụ nữ ở các địa
phương này nếu đủ điều kiện chọn mẫu sẽ
đưa vào nhóm nghiên cứu.
Các biến số nghiên cứu
Tuổi, kết quả tế bào cổ tử cung - âm đạo
bao gồm: ASC; ASC-H (tế bào vảy không điển
hình ý nghĩa không xác định); AGC (tế bào
tuyến không điển hình ý nghĩa không xác
định); LSIL (tổn thương nội biểu mô vảy mức
độ thấp); HSIL (tổn thương nội biểu mô vảy
mức độ cao); ung thư, và các typ nhiễm HPV.
Quy trình nghiên cứu
- Những phụ nữ đủ điều kiện được phỏng
vấn thu thập các thong tin về tuổi, khám và lấy
tế bào cổ tử cung - âm đạo theo quy trình của
Tổ chức Y tế Thế giới.
- Các phiến đồ được cố định ngay trong
dung dịch cồn - ête với tỷ lệ 1:1, xếp thứ tự
trong hộp đựng tiêu bản và gửi về Khoa Giải
phẫu bệnh, bệnh viện Phụ sản Trung ương.
- Nhuộm phiến đồ theo phương pháp
Papanicolaou.
- Phân loại tổn thương theo hệ Bethesda
năm 2001.
- Định typ HPV bằng kỹ thuật PCR đặc
hiệu theo typ tại Labo Bệnh viện Da liễu Quốc
gia theo quy trình sau:
+ Thu nhận bệnh phẩm;
+ Tách chiết DNA tổng số;
+ Thực hiện phản ứng PCR với cặp mồi;
+ Tinh sạch sản phẩm PCR, dòng hóa sản
phẩm PCR;
+ Giải trình tự DNA trực tiếp và giải trình tự
DNA plassmid tách dòng;
+ Truy cập ngân hàng gen;
+ Phân tích, so sánh, đối chiếu kết quả;
3. Xử lý số liệu
Thông tin sau khi thu thập được làm sạch,
quản lý và phân tích bằng phần mềm Epi -
Info 6.04. Kết quả nghiên cứu thể hiện dưới
dạng bảng, biểu đồ và tỷ lệ %.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu không xâm lấn, đề cương
được thông qua hội đồng đạo đức của bệnh
viện. Các thông tin của bệnh nhân được giữ bí
mật. Đảm bảo các số liệu được thu thập theo
đúng đề cương nghiên cứu.
III. KẾT QUẢ
1. Phân bố số phụ nữ xét nghiệm tế bào
phụ khoa theo nhóm tuổi
Bệnh nhân trẻ tuổi nhất là 20, nhiều tuổi
nhất là 60. Tuổi trung bình là 46 ± 8,6. Nhóm
tuổi ít bệnh nhân nhất là 20 - 29 (9,2%). Nhóm
tuổi nhiều bệnh nhân nhất là 50 - 60 với
36,2%. Có sự phân bố tương đối đồng đều
giữa các nhóm tuổi 30 - 39; 40 - 49 và 50 - 60
tuổi (bảng 1).
TCNCYH 83 (3) - 2013 153
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bảng 1. Phân bố theo nhóm tuổi của những phụ nữ được xét nghiệm tế bào học
20 - 29 30 - 39 40 - 49 50 - 60 Tổng
n 92 248 300 364 1004
% 9,2 24,7 29,9 36,2 100,0
2. Phân bố các tế bào biểu mô bất thường
Bảng 2. Phân bố các tế bào biểu mô bất thường
ASC AGC LSIL HSIL Tổng
n 29 0 41 19 89
% 2,9 0,0 4,1 1,9 8,9
Trong nghiên cứu không gặp trường hợp AGC nào, có 1,9% HSIL; 2,9% ASC và 4,1,% LSIL.
3. Tỷ lệ các typ HPV
Bảng 3. Phân bố các typ HPV nguy cơ thấp
Typ 6 11 42 62 71 81 Tổng
n 6 19 1 1 1 23 51
n % 0,6 1,9 0,l 0,1 0,1 2,3 5,1
Bảng 4. Phân bố các typ HPV nguy cơ cao
16 18 31 33 35 45 51 52 53 56 58 59 66 Tổng
n 38 25 1 6 5 5 1 4 2 2 16 8 1 114
% 3,8 2,5 0,1 0,6 0,5 0,5 0,1 0,4 0,2 0,2 1,6 0,8 0,1 11,4
Biểu đồ 1. Phân bố theo số lượng typ HPV bị nhiễm ở một phụ nữ
- Có tổng số 92 trường hợp nhiễm HPV (chiếm 9,2%) với tổng số 19 typ.
- Có 5,1% các trường hợp nhiễm HPV typ nguy cơ thấp với 6 typ, trong đó chiếm nhiều nhất
là typ 81 (2,3%), tiếp đến là typ 11 (1,9%). Các typ khác chiếm < 1%.
- Các trường hợp nhiễm HPV typ nguy cơ cao với 13 typ, trong đó typ 16 và 18 chiếm tỷ lệ
154 TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
cao nhất (lần lượt là 3,8% và 2,5%).
- Số phụ nữ chỉ nhiễm 1typ HPV chiếm nhiều nhất 4,6% (46/92 trường hợp nhiễm HPV).
4. Mối liên quan giữa nhóm tuổi với tỷ lệ các bất thường tế bào biểu mô
Bảng 5. Mối liên quan giữa nhóm tuổi với tỷ lệ các bất thường tế bào biểu mô
Nhóm tuổi/
Tổn thương
20 - 29
(n1 = 92)
30 - 39
(n2 = 248)
40 - 49
(n3 = 300)
50 - 60
(n4 = 364) Tổng
n % n % n % n %
ASC 4 4,3 7 2,8 8 2,7 10 2,7 29
LSIL 3 3,3 13 5,2 14 4,7 11 3,1 41
HSIL 1 1,1 4 1,6 7 2,3 7 1,9 19
- Tỷ lệ ASC cao nhất ở nhóm tuổi 20 - 29 (4,3%), có sự khác biệt có ý nghĩa so với các nhóm
tuổi còn lại (p < 0,05).
- Tỷ lệ LSIL cao nhất ở nhóm tuổi 30 - 39 (5,2%), tiếp đến là nhóm tuổi 40 - 49 (4,7%). Cả hai
nhóm tuổi này chiếm 27/41 trường hợp.
- Tỷ lệ HSIL cao nhất ở nhóm tuổi 40 - 49 với 2,3%, tiếp đến là nhóm tuổi 50 - 60 với 1,9%.
Tính chúng cho khoảng tuổi từ 40 - 60, số bệnh nhân bị HSIL chiếm 14/19 trường hợp.
5. Phân bố typ HPV theo nhóm tế bào bất thường
Bảng 6. Liên quan giữa nhiễm HPV với loại bất thường biểu mô
HPV
p Tổng
Dương tính [n (%)] Âm tính [n (%)]
ASC 18 (62,1) 11 (37,9) < 0,05 29
LSIL 40 (97,6) 1 (2,4) < 0,001 41
HSIL 19 (100,0) 0 (0,0) 0,000 19
Toàn bộ các trường hợp HSIL đều nhiễm HPV, có 97,6% trường hợp LSIL nhiễm HPV và chỉ
có 62,1% các trường hợp ASC nhiễm HPV.
IV. BÀN LUẬN
Phân bố số phụ nữ được xét nghiệm tế
bào phụ khoa theo nhóm tuổi
Có sự phân bố tương đối đồng đều giữa
các nhóm tuổi 30 - 39; 40 - 49 và 50 - 60 tuổi.
Vì đây là một chương trình sàng lọc phát hiện
sớm ung thư cổ tử cung tại cộng đồng nên
việc tập trung phát hiện ở các nhóm tuổi có
nguy cơ cao là hoàn toàn hợp lý. Theo kết
quả của nhiều nghiên cứu, ở nhóm tuổi trẻ
70 thì tỷ lệ phát hiện
các bất thường biểu mô là khá thấp cho nên
người ta ưu tiên cho các đối tượng từ 30 - 60
TCNCYH 83 (3) - 2013 155
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
tuổi [5]. Do vậy, việc lựa chọn các nhóm tuổi
trên cho mục đích phát hiện các tế bào bất
thường và tỷ lệ nhiễm HPV là đảm bảo cho
tính đại diện cho các biến số nghiên cứu ở
cộng đồng tại địa phương được xét nghiệm.
Theo diễn tiến tự nhiên của ung thư cổ tử
cung, các tổn thương đi từ những bất thường
ASC rồi đến loạn sản nhẹ, loạn sản vừa, loạn
sản nặng, ung thư tại chỗ, ung thư vi xâm
nhập và kết thúc cuộc đời người bệnh ở giai
đoạn ung thư xâm nhập. Tiến trình này có thể
diễn ra trong hàng chục năm hoặc hơn nếu
tính từ khi người phụ nữ có quan hệ tình dục.
Do vậy, để sàng lọc có hiệu quả, cần tập trung
vào nhóm đối tượng từ 30 - 50 tuổi [6]. Theo
kết quả nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ phụ nữ
trong nhóm tuổi này chiếm ≈ 84% (844/1004
phụ nữ) là hoàn toàn phù hợp. Theo Melnikow
J, tỷ lệ nhiễm HPV cao nhất ở khoảng tuổi 20
- 30, thường sau tuổi sinh hoạt tình dục lần
đầu tiên. Các tổn thương tiền ung thư thường
xuất hiện 10 - 15 năm sau nhiễm HPV và đỉnh
xuất hiện tỷ lệ ung thư cổ tử cung cao nhất
vào khoảng 40 - 50 tuổi ở các trường hợp
nhiễm HPV mạn tính. Như vậy nếu xét nghiệm
HPV DNA cho các phụ nữ 35 tuổi trở lên sẽ
rất có ích vì theo phân bố dịch tễ học tỷ lệ
nhiễm HPV tương đối hằng định từ độ tuổi
này [6].
Phân bố các tế bào biểu mô bất thường
Theo phân loại Bethesda 2001, trong
nghiên cứu này có sự phân bố các tế bào biểu
mô bất thường như sau: Không gặp trường
hợp AGC hoặc ASC-H nào, có 1,9% HSIL;
2,9% ASC và 4,1,% LSIL, chúng tôi cũng
không phát hiện được trường hợp ung thư
nào. Kết quả này có sự khác biệt với kết quả
nghiên cứu của Lê Quang Vinh (2010) khi thực
hiện xét nghiệm cho 1115 phụ nữ đến khám
bệnh tại bệnh viện Phụ sản trung ương có
2,3% ASCUS-H, LSIL chiếm 2,5% còn HSIL
chiếm tới 9,8% và tỷ lệ ung thư là 6,1% [7].
Sự khác biệt này do nhóm đối tượng nghiên
cứu khác nhau (nghiên cứu của chúng tôi
thực hiện tại cộng đồng, của Lê Quang Vinh
năm 2010 thực hiện trên những phụ nữ có
bệnh phụ khoa đi khám). Tỷ lệ các tế bào
bất thường của chúng tôi cũng thấp hơn
nhiều so với các nghiên cứu trong và ngoài
nước thực hiện trên các bệnh nhân phụ
khoa tới khám tại các bệnh viện như ở bảng
7 dưới đây.
Bảng 7. Phân bố kết quả tế bào bất thường qua xét nghiệm Pap ở một số nghiên cứu
Nghiên cứu
Kết quả tế bào âm đạo cổ tử cung (%)
ASC AGC LSIL HSIL Ung thư
vảy
Ung thư
tuyến
Chen CC 34,6 35,5 29,9 - -
Phạm Việt Thanh 46,1 1,2 36,7 16,0 - -
Trương Quang Vinh 24,0 1,5 46,5 20,7 6,2 1,1
Hồ Thị Phương Thảo 48,7 5,3 22,0 18,0 4,0 2,0
Nghiên cứu này 2,9 - 4,1 1,9 - -
156 TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Tỷ lệ nhiễm và các typ HPV
Trong nghiên cứu này, có tổng số 92
trường hợp nhiễm HPV (chiếm 9,2%) với tổng
số 19 typ. Trong số đó, 5,1% là các trường
hợp nhiễm HPV typ nguy cơ thấp (6 typ),
trong đó chiếm nhiều nhất là typ 81 (2,3%),
tiếp đến là typ 11 (1,9%). Các typ khác chiếm
tỷ lệ thấp (< 1%). Chúng tôi phát hiện được
114 lượt xuất hiện của HPV typ nguy cơ cao
với 13 typ, trong đó typ 16 và 18 chiếm tỷ lệ
cao nhất (lần lượt là 3,8% và 2,5%). Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi tương tự như kết
quả nghiên cứu của Vũ Thị Nhung (2007) [2].
Theo tác giả, nhóm có nguy cơ thấp gồm 6
typ: 11, 42, 43, 61, 70, 81 và nhóm nguy cơ
cao gồm 12 typ: 16, 39, 45, 52, 58, 66, 18, 35,
33, 51, 56, 68 [2]. Còn theo Lê Trung Thọ và
cộng sự (2009), các tác giả phát hiện được 11
typ HPV nguy cơ thấp và 15 typ HPV nguy cơ
cao [4]. Về tần suất của các typ HPV theo
nhóm nguy cơ, trong nghiên cứu của chúng
tôi thấy: Tần suất HPV nhóm nguy cơ cao
nhiều gấp 3,2 lần nhóm nguy cơ thấp. Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự như
kết quả nghiên cứu của một số tác giả trong
nước và quốc tế. Tuy nhiên sự khác biệt về
tần suất mắc, số lượng các typ HPV phụ
thuộc nhiều yếu tố. Theo Steven và cộng sự,
điều quan trọng khi đánh giá tỷ lệ nhiễm HPV
là cần phải xem xét quần thể nghiên cứu bởi
vì mẫu nghiên cứu có số lượng tổn thương cổ
tử cung mức độ cao càng nhiều thì tỷ lệ nhiễm
HPV cao hơn, đặc biệt là các typ nguy cơ cao.
Tỷ lệ nhiễm HPV có thể khác nhau giữa các
quốc gia, thậm chí giữa các vùng khác nhau
trong cùng một quốc gia [1, 8]. Sự khác nhau
này có thể bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố
như môi trường, lối sống, hành vi tình dục. Tại
Việt Nam, tỷ lệ nhiễm HPV ở phụ nữ trong
cộng đồng thành phố Hồ Chí Minh là 10,9%
[3] và phụ nữ trong cộng đồng thành phố Hà
Nội là 5,13% [4]. Trong nghiên cứu này, mối
liên quan giữa nhiễm HPV với những thay đổi
bất thường của tế bào biểu mô cho thấy: Toàn
bộ các trường hợp HSIL đều nhiễm HPV, có
97,6% trường hợp LSIL nhiễm HPV và chỉ có
62,1% các trường hợp ASC nhiễm HPV. So
với một số nghiên cứu trước đây, tỷ lệ nhiễm
HPV ở các tổn thương LSIL và HSIL của
chúng tôi cao hơn và tỷ lệ nhiễm HPV tương
đương trong nhóm có ASC. Sự khác biệt này
có lẽ một phần do quy trình kỹ thuật, một phần
hạn chế bởi số lượng mồi trong kỹ thuật PCR
và có những nghiên cứu sử dụng test DNA
HPV trong nghiên cứu nên giữa các kết quả có
độ chênh nhất định. Mặc dù có sự khác biệt về
tỷ lệ song tỷ lệ nhiễm HPV ở các trường hợp
có tế bào bất thường chắc chắn sẽ rất cao, đặc
biệt là các trường hợp SIL vì HPV gần như là
100% các trường hợp ung thư cổ tử cung.
Chúng tôi nêu kết quả nghiên cứu của một số
tác giả trong và ngoài nước để so sánh.
Bảng 8. Tỷ lệ nhiễm HPV trong một số nghiên cứu
Nghiên cứu Năm N Quần thể nghiên cứu Tỷ lệ
nhiễm HPV (%)
Takazawa A [14] 1991 CIN, ung thư cổ tử cung 32,0
Lytwyn và cộng sự [10] 2000 212 Tế bào cổ tử cung bất thường 54,3
Zhao F [15] 2001 CIN, ung thư cổ tử cung 41,0
Lê Minh Nguyệt [11] 2002 130 CIN, ung thư cổ tử cung 35,4
TCNCYH 83 (3) - 2013 157
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Nghiên cứu Năm N Quần thể nghiên cứu Tỷ lệ
nhiễm HPV (%)
Ghaffari SR [9] 2006 134 Tế bào CTC bất thường 60,0
Phạm Việt Thanh [3] 2009 488 Tế bào CTC bất thường 62,1
Paesi S [5] 2009 256 Tế bào CTC bất thường 51,2
Steven MP [13] 2009 1679 Tế bào CTC bất thường 83,9
Hồ T Phương Thảo [12] 2011 154 Tế bào CTC bất thường 57,8
Nghiên cứu này 2012 89 ASC, SIL 86,6
* CTC: cổ tử cung; UTCTC: ung thư cổ tử cung.
V. KẾT LUẬN
Nghiên cứu ngẫu nhiên 1004 trường hợp
phụ nữ tỉnh Thái Nguyên có độ tuổi từ 20 - 60,
được xét nghiệm tế bào học phụ khoa để xác
định tỷ lệ các bất thường biểu mô và typ HPV
từ tháng 8 đến tháng 11 năm 2011, chúng tôi
rút ra kết luận sau:
- Tuổi trung bình là 46± 8,6, số phụ nữ
trong độ tuổi 30-50 chiếm ≈ 84%.
- Có 1,9% HSIL; 2,9% ASC và 4,1,% LSIL.
- Có 92 trường hợp nhiễm HPV (chiếm
9,2%) với tổng số 19 typ. Trong số đó, 5,1% là
các trường hợp nhiễm HPV typ nguy cơ thấp
(6 typ), trong đó chiếm nhiều nhất là typ 81
(2,3%), tiếp đến là typ 11 (1,9%). Các typ khác
chiếm tỷ lệ thấp (< 1%). Chúng tôi phát hiện
được 114 lượt xuất hiện của HPV typ nguy cơ
cao với 13 typ, trong đó typ 16 và 18 chiếm tỷ
lệ cao nhất (lần lượt là 3,8% và 2,5%).
- Toàn bộ các trường hợp HSIL đều nhiễm
HPV, có 97,6% trường hợp LSIL nhiễm HPV
và chỉ có 62,1% các trường hợp ASC nhiễm
HPV.
Lời cảm ơn
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn ban giám
đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương, Phòng kế
hoạch tổng hợp, Hội đồng đạo đức sở y tế
Thái nguyên và các bạn đồng nghiệp đã cho
phép, tạo điều kiện hỗ trợ nhóm nghiên cứu
chúng tôi tiến hành và hoàn thành đề tài
nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Clifford GM, Rana RK, Franceschi S
et al (2005). Human Papillomavirus genotype
distribution in low-grade cervical lesions:
Comparison by geographic region with
cervical cancer. Cancer Epidemiol Biomarkers
Prev, 14, 1157 - 1164.
2. Vũ Thị Nhung (2007). Liên quan giữa
các type HPV và các tổn thương tiền ung thư
và ung thư cổ tử cung tại Bệnh viện Hùng
Vương, Hội nghị Sản Phụ Khoa Việt Pháp
Châu Á Thái Bình Dương lần thứ VII, Thành
phố Hồ Chí Minh.
3. Phạm Việt Thanh (2006). Chương trình
tầm soát Human Papillomavirus trong ung thư
cổ tử cung, Tạp chí Y học thực hành. 550,
13 - 24.
4. Lê Trung Thọ, Trần Văn Hợp (2009).
Nghiên cứu tỷ lệ nhiễm HPV ở cộng đồng phụ
nữ Hà Nội, tìm hiểu một số yếu tố liên quan,
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 13 (1),
185 - 189.
158 TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
5. Paesi S, Serafini ES, Barea F (2009).
High Prevalence of Human Papillomavius
Type 58 in Patients with Cervical Pre-
malignant Leisons in Southern Brazil, Journal
of Medical Virology. 81, 1270 - 1275.
6. Melnikow J, Nuovo J, Willan AR et al
(1998). Natural history of cervical squamous
intraepithelial lesions: a meta-analysis, Obstet
Gynecol. 92(4), 727 - 735.
7. Lê Quang Vinh (2010). Phát hiện sớm
ung thư cổ tử cung qua sàng lọc tế bào học
tại bệnh viện Phụ sản Trung ương, Y học thực
hành, 745, 38 - 40.
8. Gargiulo F, De Francesco MA,
Schereiber C et al (2007). Prevalence and
distribution of single and multiple HPV
infections in cytologically abnormal cervical
Samples from Italian women, Virus Res, 125,
176 - 182.
9. Ghaffari SR, Sabokbar T, Mollahajian
H et al (2006). Prevalence of Human Papillo-
mavirus Genotypes in Women with and Abnor-
mal Cervical Cytology in Iran, Asian Pacific J
Cancer Prev, 7, 529 - 532.
10. Lytwyn A, Sellors JW, Mahony JB
(2000). Comparison of Human Papillomavirus
DNA testing and repeat Papanicolaou test in
women with low-grade cervical cytologic
abnormalities: a randomized trial, CMAJ, 63
(6), 701 - 707.
11. Lê Minh Nguyệt (2002). Mối liên quan
giữa tình trạng nhiễm HPV với nghịch sản và
ung thư cổ tử cung, Luận án Chuyên khoa
cấp II, Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ
Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
12. Hồ Thị Phương Thảo (2011). Nghiên
cứu đặc điểm lâm sàng, soi cổ tử cung ở bệnh
nhân có tế bào âm đạo cổ tử cung bất thường
nhiễm Human Papillomavirus. Luận văn Thạc
sĩ y học- Đại học Y Hà Nội
13. Stevens MP, Garland SM, Tan JH et
al (2009). HPV Genotype Prevalence in Wom-
en with Abnormal Pap Smear in Melbourne,
Australia, Journal of Medical Virology, 81,
1283 - 1291.
14. Takawa A, Inoue M & Saito J (1992).
Detection of Human Papillomavirus in exfoliat-
ed cervical cells using polymerase chain reac-
tion, Int J Gynecol Obstet, 37(1), 13 - 18.
15. Zhao F, Li N & Ma J (2001). Study of
the association between Human
Papillomavirus infection and cervical cancer in
Xianguan county, Shanxi province, Zhonghua
Liu, 22(5), 375 - 378.
Summary
DETECTING CERVICAL ABNORMALITIES
BY CERVICAL CYTOLOGY SCREENING AND HPV POSITIVE RATE IN
THAI NGUYEN WOMEN
Th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
phat_hien_te_bao_co_tu_cung_bat_thuong_va_nhiem_hpv_o_phu_nu.pdf