Mô tả kiến thức và một số yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức về bú sớm sau sinh và bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu của những bà mẹ có con dưới 1 tuổi tại 3 xã thuộc cụm Long Vân, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa

Cho trẻ bú sớm sau sinh (BSSS) và bú mẹ hoàn toàn (BMHT) trong 6 tháng đầu không những mang lại lợi ích cho trẻ, bà mẹ mà còn cho cả gia đình và xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế tỷ lệ bà mẹ có kiến thức và thực hành cho trẻ BSSS và BMHT trong 6 tháng đầu còn khá thấp và khác nhau ở mỗi khu vực. Điều này đã được chứng minh qua kết quả của nhiều nghiên cứu đã thực hiện trong và ngoài nước. Để tìm hiểu sâu hơn nữa, chúng tôi tiến hành nghiên cứu "Tìm hiểu kiến thức về BSSS và BMHT trong 6 tháng đầu của những bà mẹ có con dưới 1 tuổi tại 3 xã thuộc cụm Long Vân, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa". Nghiên cứu có 2 mục tiêu là tìm hiểu kiến thức của bà mẹ về BSSS, BMHT trong 6 tháng đầu và phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức của bà mẹ. Thiết kế nghiên cứu cắt ngang được sử dụng với sự tham gia của 167 bà mẹ có con dưới 1 tuổi. Nghiên cứu sử dụng hai phương pháp thu thập số liệu là phỏng vấn sâu và phát vấn (khuyết danh) với bộ câu hỏi có cấu trúc. Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số các đối tượng có tuổi thuộc nhóm 22-30 chiếm 48,4% và có đến 64,5% số bà mẹ làm nông nghiệp. Kiến thức của các bà mẹ về thời điểm cho trẻ BSSS khá cao (66,5%) và tỷ lệ bà mẹ hiểu thế nào là nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ (NCHTBSM) trong 6 tháng đầu là 53,5%. Thông tin về NCHTBSM mà bà mẹ được nhận phần lớn là từ nguồn thông tin đại chúng (đài, báo, tivi) chiếm tới 71,4%. Nghiên cứu phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức NCHTBSM của các bà mẹ cho thấy, có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tuổi, nghề nghiệp và trình độ học vấn và kiến thức của bà mẹ (P < 0,05). Ngoài ra, còn có mối liên quan giữa sự tiếp nhận thông tin về NCHTBSM từ phương tiện thông tin địa phương (loa đài, truyền thanh, biểu ngữ ) (P < 0,001).

pdf7 trang | Chia sẻ: Mịch Hương | Ngày: 29/03/2025 | Lượt xem: 23 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mô tả kiến thức và một số yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức về bú sớm sau sinh và bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu của những bà mẹ có con dưới 1 tuổi tại 3 xã thuộc cụm Long Vân, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
16 Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27) | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Mô tả kiến thức và một số yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức về bú sớm sau sinh và bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu của những bà mẹ có con dưới 1 tuổi tại 3 xã thuộc cụm Long Vân, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa Bùi Thị Duyên (*), Trần Hà Linh (*), Phạm Hồng Tư (*) Cho trẻ bú sớm sau sinh (BSSS) và bú mẹ hoàn toàn (BMHT) trong 6 tháng đầu không những mang lại lợi ích cho trẻ, bà mẹ mà còn cho cả gia đình và xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế tỷ lệ bà mẹ có kiến thức và thực hành cho trẻ BSSS và BMHT trong 6 tháng đầu còn khá thấp và khác nhau ở mỗi khu vực. Điều này đã được chứng minh qua kết quả của nhiều nghiên cứu đã thực hiện trong và ngoài nước. Để tìm hiểu sâu hơn nữa, chúng tôi tiến hành nghiên cứu "Tìm hiểu kiến thức về BSSS và BMHT trong 6 tháng đầu của những bà mẹ có con dưới 1 tuổi tại 3 xã thuộc cụm Long Vân, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa". Nghiên cứu có 2 mục tiêu là tìm hiểu kiến thức của bà mẹ về BSSS, BMHT trong 6 tháng đầu và phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức của bà mẹ. Thiết kế nghiên cứu cắt ngang được sử dụng với sự tham gia của 167 bà mẹ có con dưới 1 tuổi. Nghiên cứu sử dụng hai phương pháp thu thập số liệu là phỏng vấn sâu và phát vấn (khuyết danh) với bộ câu hỏi có cấu trúc. Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số các đối tượng có tuổi thuộc nhóm 22-30 chiếm 48,4% và có đến 64,5% số bà mẹ làm nông nghiệp. Kiến thức của các bà mẹ về thời điểm cho trẻ BSSS khá cao (66,5%) và tỷ lệ bà mẹ hiểu thế nào là nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ (NCHTBSM) trong 6 tháng đầu là 53,5%. Thông tin về NCHTBSM mà bà mẹ được nhận phần lớn là từ nguồn thông tin đại chúng (đài, báo, tivi) chiếm tới 71,4%. Nghiên cứu phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức NCHTBSM của các bà mẹ cho thấy, có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tuổi, nghề nghiệp và trình độ học vấn và kiến thức của bà mẹ (P < 0,05). Ngoài ra, còn có mối liên quan giữa sự tiếp nhận thông tin về NCHTBSM từ phương tiện thông tin địa phương (loa đài, truyền thanh, biểu ngữ) (P < 0,001). Từ khóa: Bú sớm sau sinh, nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu, kiến thức, các yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức, bà mẹ. Knowledge and influencing factors about post- partum breast feeding and exclusive breast feeding during the first 6 months among | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27) 17 mothers with children under 1 year old in 3 communes of Long Van, Ba Thuoc district, Thanh Hoa province Bui Thi Duyen (*), Tran Ha Linh (*), Pham Hong Tu (*) Early breast feeding and exclusive breast feeding during the first 6 months prove not only good for the baby and the mother, but also for the family and the society. However, in fact, the rate of mothers having knowledge and practice of early breast feeding and exclusive breast feeding during the first 6 months is relatively low and different by each region. This fact has been found through many in- country and overseas studies. In order to learn more about this issue, a study on knowledge and influencing factors about post-partum breast feeding and exclusive breast feeding during the first 6 months among mothers with children under 1 year old in 3 communes of Long Van, Ba Thuoc district, Thanh Hoa province was conducted. This study focused on 2 objectives: to explore knowledge about post-partum breast feeding and exclusive breast feeding during the first 6 months and to analyze factors influencing mothers' knowledge. The cross-sectional study covered 167 mothers having children under 1 year old. In-depth interviews and structured questionnaires (anonymous) were utilized for data collection. The majority of the respondents, accounting for 48.4%, are at the age of 22-30 and 64.5% of all the mothers are farmers. Mothers who know about the time of early breast feeding accounted for a fairly high proportion (about 66.5 percent) and around 53.5 percent of the mothers know about exclusive breast feeding during the first 6 months. Most mothers, about 71.4 percent, received information about exclusive breast feeding through the mass media like television, radio, newspapers, etc. Analysis of some influencing factors on knowledge about exclusive breast feeding also found the statisitcal significance of relationships among such factors as: age, occupation, education levels, mothers' knowledge (P < 0.05) and mass media like banners, radio, etc. (P < 0.001). Key words: post-partum breast feeding, exclusive breast feeding during the first 6 months, knowledge, some influencing factors on knowledge about exclusive breast feeding. Tác giả (*): - CN. Bùi Thị Duyên - Trường Đại học Y tế Công cộng - 138 Giảng Võ - Ba Đình - Hà Nội. Email: buiduyen.ct@gmail.com. - CN. Trần Hà Linh. Email: tranhalinh203@gmail.com - CN. Phạm Hồng Tư. Email: phamtu02@gmail.com 18 Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27) | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | 1. Đặt vấn đề Sữa mẹ với trên 100 loại chất dinh dưỡng cần thiết như đạm, đường, mỡ, vitamin và muối khoáng với tỷ lệ thích hợp cho sự hấp thu và phát triển cơ thể trẻ [2]. Tại Việt Nam, hầu hết các bà mẹ sinh con đều cho con bú mẹ. Tuy nhiên, tỷ lệ BMHT còn rất thấp và hầu như không cải thiện trong 2 thập kỷ qua. Có đến 97% bà mẹ cho con bú nhưng chỉ có 58% trong số họ cho trẻ bú ngay trong vòng 1 giờ đầu sau khi sinh. Trong số 43% bà mẹ biết rằng sữa mẹ là nguồn thức ăn chính cho trẻ dưới 6 tháng tuổi thì chỉ có 17% NCHTBSM trong 6 tháng đầu theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới [5]. Điều này là một trong những nguyên nhân chính làm tăng tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em tại Việt Nam. Cụm Long Vân là một trong 5 cụm của huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa, cụm bao gồm 4 xã và 1 thị trấn với tổng số hơn 16649 nhân khẩu (năm 2010). Là một cụm thuộc huyện miền núi với nền kinh tế đang còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí vẫn chưa cao nên kiến thức và thực hành cho trẻ BSSS và BMHT trong 6 tháng đầu vẫn còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố. Đó cũng là một trong những lý do chính để chúng tôi tiến hành thực hiện nghiên cứu này, hơn nữa cho đến nay tại địa bàn cụm Long Vân huyện Bá Thước chưa có nghiên cứu nào về kiến thức và một số yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức về BSSS và BMHT trong 6 tháng đầu. Từ những thực tế trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu là (1) Tìm hiểu kiến thức về BSSS và BMHT của những bà mẹ có con dưới 1 tuổi và (2) phân tích yếu tố ảnh hưởng đến hiểu biết của bà mẹ về cho con BSSS và BMHT trong 6 tháng đầu. 2. Phương pháp nghiên cứu 2.1. Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu sử dụng thiết kế nghiên cứu cắt ngang, kết hợp nghiên cứu định tính và định lượng. Nghiên cứu định lượng dùng phương pháp phát vấn (khuyết danh) và nghiên cứu định tính dùng phương pháp phỏng vấn sâu. 2.2. Đối tượng nghiên cứu Bà mẹ có con dưới 1 tuổi đang sinh sống tại 3 xã thuộc cụm Long Vân- Bá Thước- Thanh Hóa tại thời điểm nghiên cứu. 2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện trong khoảng thời gian từ tháng 06/2011 đến tháng 08/2011 tại 3 xã thuộc Cụm Long Vân huyện Bá Thước tỉnh Thanh Hóa bao gồm cả phát vấn và phỏng vấn sâu. 2.4. Mẫu và phương pháp chọn mẫu Cụm Long Vân bao gồm 5 xã là Aí Thượng, Thị trấn Cành Nàng, Lâm Xa, Tân Lập và Hạ Trung, do điều kiện về nguồn lực có hạn vì thế nhóm chỉ chọn 3 trong 5 xã để tiến hành nghiên cứu. Qua quá trình bốc thăm ngẫu nhiên, 3 xã được chọn gồm: Aí Thượng, Lâm Xa và Thị trấn Cành Nàng. 2.4.1. Phương pháp chọn mẫu Chọn toàn bộ những bà mẹ có con dưới 1 tuổi đang sinh sống tại 3 xã thuộc cụm Long Vân, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa, nếu đạt những tiêu chuẩn nói trên đều được chọn vào nghiên cứu. Danh sách đối tượng nghiên cứu được lấy từ 2 nguồn gồm, sổ theo dõi tiêm phòng của các trạm y tế xã và sổ theo dõi nhân khẩu (sổ hộ khẩu) của các xã. Nghiên cứu định lượng: Chọn toàn bộ những đối tượng còn lại trong danh sách sau khi đã thực hiện xong chọn đối tượng cho phần phỏng vấn sâu. Nghiên cứu định tính: Dựa vào danh sách các đối tượng đã được chọn tham gia nghiên cứu ở trên tiến hành lựa chọn ngẫu nhiên 12 đối tượng để tham gia phỏng vấn, đảm bảo yêu cầu là mỗi xã có đủ số lượng là 4 đối tượng. 2.4.2. Cỡ mẫu Có tổng số 178 bà mẹ đã được lựa chọn tham gia vào nghiên cứu, tuy nhiên có 3 bà mẹ chuyển địa điểm sinh sống và 8 bà mẹ từ chối tham gia nghiên cứu. Vậy, tổng số đối tượng tham gia nghiên cứu còn lại là 167 bà mẹ. Số đối tượng tham gia phát vấn là 155 bà mẹ và tham gia phỏng vấn sâu là 12 bà mẹ. 2.5. Phương pháp thu thập số liệu Nghiên cứu định lượng: Các đối tượng được phát phiếu tự điền (khuyết danh) để trả lời các câu hỏi liên quan đến kiến thức về bú sớm sau sinh, bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu và một số yếu tố ảnh hưởng. Nghiên cứu định tính: Điều tra viên dùng bộ câu hỏi phỏng vấn sâu để hỏi từng đối tượng. | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27) 19 Bộ công cụ điều tra để hỏi bà mẹ các câu hỏi liên quan đến kiến thức về BSSS, BMHT trong 6 tháng đầu và một số yếu tố ảnh hưởng. Bộ công cụ được xây dựng dựa trên mục tiêu nghiên cứu, cây vấn đề, và đồng thời đảm bảo tính khoa học, phù hợp với đối tượng nghiên cứu và văn hóa của địa phương. 2.6. Phương pháp phân tích số liệu Số liệu định lượng: - Số liệu được làm sạch thô trước khi nhập vào máy tính. - Dùng phần mềm EPIDATA để làm nhập số liệu và làm sạch. - Dùng phần mềm SPSS để phân tích số liệu. Số liệu định tính: Các thông tin phần định tính thu thập được gỡ băng, tổng hợp và bổ sung cho phần định lượng. 3. Kết quả nghiên cứu 3.1. Thông tin chung Trong nghiên cứu, số bà mẹ trong nhóm tuổi 22- 30 chiếm tỷ lệ lớn nhất (48,4%) với trình độ học vấn dưới THPT chiếm đa số (42,6%). Nghề nghiệp chủ yếu của đối tượng nghiên cứu là nông dân (64,5%). 3.2. Kiến thức của bà mẹ về bú sớm sau sinh. 3.2.1. Kiến thức về thời điểm cho trẻ bú sớm sau sinh Tỷ lệ bà mẹ trả lời đúng về thời điểm cho trẻ BSSS cao chiếm 66,5 %. Kết quả phỏng vấn sâu cho thấy một số bà mẹ vẫn chưa hiểu đúng về khái niệm bú sớm, họ cho rằng "Bú sớm là cho trẻ bú sữa mẹ sau khi sinh 1 giờ". 3.2.2. Kiến thức của bà mẹ về lợi ích của bú sớm sau sinh Trong 4 lợi ích của BSSS đối với trẻ chỉ có 11,8% bà mẹ trả lời đủ 4 lợi ích. Lợi ích mà các bà mẹ biết nhiều nhất chỉ là bú sữa non - dinh dưỡng tốt nhất cho trẻ (chiếm 81,9%). Trong số 3 lợi ích đưa ra đối với mẹ, tỷ lệ bà mẹ biết cả 3 lợi ích là chỉ đạt 17,8%, trong đó, lợi ích của BSSS đối với mẹ mà các bà mẹ biết nhiều nhất là kích thích sữa về, thông tia sữa (74,2%). Nghiên cứu định tính cũng cho thấy, một số lợi ích rất quan trọng mà các bà mẹ ít đề cập đến như giữ ấm cho trẻ hoặc giúp tống phân su nhanh. Các bà mẹ biết về lợi ích của bú sớm sau sinh đối với trẻ nhiều hơn lợi ích đối với mẹ "Nghe nói bú sớm nhiều dinh dưỡng đối với trẻ nhưng không hiểu rõ và không biết có lợi ích gì cho mẹ không". 3.3. Kiến thức của bà mẹ về BMHT trong 6 tháng đầu 3.3.1. Hiểu thế nào là NCHTBSM trong 6 tháng đầu Có 53,5% số bà mẹ trong nghiên cứu trả lời đúng NCHTBSM là chỉ bú mẹ và không kèm theo bất kì thức ăn nước uống nào khác, 22,5% số bà mẹ trả lời là bú mẹ và uống thêm nước lọc, ngoài ra có một tỷ lệ nhỏ (0,7%) số bà mẹ cho rằng NCHTBSM là cho trẻ bú mẹ và ăn cơm. Kết quả phỏng vân sâu cho thấy, hầu hết các bà mẹ hiểu NCHTBSM là cho trẻ bú mẹ, không cho trẻ bú sữa ngoài và ăn thêm bất cứ thứ gì khác và một số bà mẹ còn cho rằng nên kết hợp cho trẻ uống thêm nước. 3.3.2. Kiến thức của bà mẹ về lợi ích của NCHTBSM trong 6 tháng đầu Biểu đồ 1. Kiến thức về lợi ích của bú sớm sau sinh đối với trẻ Biểu đồ 2. Kiến thức về lợi ích của bú sớm sau sinh đối với mẹ 20 Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27) | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Trong 5 lợi ích của NCHTBSM mà nghiên cứu đưa ra, lợi ích là trẻ được phát triển tốt được các bà mẹ biết nhiều nhất (93,9%) và lợi ích tránh thai chiếm tỷ lệ thấp nhất chỉ có 11,6%. Bên cạnh đó, chỉ có 6,4% số bà mẹ biết đủ 5 lợi ích và tỷ lệ bà mẹ chỉ biết 1 lợi ích chiếm đến 37,1%. Trong nghiên cứu này, chỉ có 47,7% số bà mẹ biết nên cho trẻ BMHT trong 6 tháng đầu nhưng có tới 62,6% số bà mẹ biết nên cho trẻ bắt đầu ăn dặm khi trẻ được 6 tháng. Tỷ lệ số bà mẹ đã có nhận thức đúng rằng vẫn nên cho trẻ bú khi trẻ bị tiêu chảy là 80,6% và tiếp tục cho trẻ bú khi trẻ bị bệnh chiếm 96,8%. Kết quả nghiên cứu định tính về lợi ích của NCHTBSM, hầu hết các bà mẹ hiểu được NCHTBSM mang lại nhiều lợi ích cho trẻ như: không gây cho trẻ đi ngoài hay ốm, trẻ khỏe hơn, miễn dịch cũng tốt hơn và kháng khuẩn cho trẻ. 3.4. Đánh giá kiến thức của bà mẹ về NCHTBSM trong 6 tháng đầu Chỉ có 41 bà mẹ có kiến thức đạt về NCHTBSM chiếm 33,9% và có đến 80 bà mẹ kiến thức không đạt chiếm tỷ lệ 66,1%. 3.5. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức về NCHTBSM của bà mẹ 3.5.1. Mối liên quan giữa yếu tố cá nhân và kiến thức về NCHTBSM Kết quả nghiên cứu định lượng cho thấy có mối liên quan giữa tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn và kiến thức của các bà mẹ, các bà mẹ lớn tuổi hơn có kiến thức đạt cao hơn những bà mẹ trẻ, các bà mẹ có trình độ học vấn trung cấp trở lên có kiến thức đạt cao nhất (60%) và nhóm có kiến thức đạt thấp nhất là dưới THPT (24%). Kết quả định tính về nghề nghiệp còn chỉ ra rằng, các bà mẹ làm cán bộ/công chức ngoài việc tiếp cận thông tin từ các kênh truyền thông đại chúng còn chủ động tìm hiểu thông tin từ các nguồn khác, trong khi điều kiện tiếp xúc với thông tin của các bà mẹ làm nông nghiệp và một số ngành khác như buôn bán là hạn chế và thụ động "Ở đây thì loa đài thì cũng không có, chỉ có hỏi ở trên trạm xá với các chị sinh trước người ta nói thôi". 3.5.2. Vai trò của các phương tiện truyền thông và kiến thức của bà mẹ Những bà mẹ khi tiếp cận với nguồn thông tin từ các kênh địa phương (loa, biểu ngữ) kiến thức đạt của họ cao hơn so với những bà mẹ không tiếp nhận. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu định lượng không cho thấy có mối liên quan giữa việc tiếp nhận thông tin từ cán bộ y tế và kiến thức của bà mẹ. 4. Bàn luận 4.1. Kiến thức của bà mẹ về bú sớm sau sinh Tỷ lệ bà mẹ trả lời đúng về thời điểm cho trẻ Biểu đồ 3. Kiến thức của bà mẹ về lợi ích của NCHTBSM trong 6 tháng đầu Bảng 1. Mối liên quan giữa tuổi, nghề nghiệp, TĐHV và kiến thức Bảng 2. Mối liên quan giữa nguồn thông tin và kiến thức NCHTBSM | TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU | Tạp chí Y tế Công cộng, 3.2013, Số 27 (27) 21 BSSS trong nghiên cứu này khá cao (chiếm 66,5 %), cao hơn một số nghiên cứu khác như nghiên cứu trên 540 bà mẹ tại 4 bệnh viện lớn tại Hà Nội năm 2006, chỉ có 44,1% bà mẹ biết cần cho trẻ bú trong vòng một giờ đầu sau đẻ [1]. Trong 4 lợi ích của BSSS đối với trẻ chỉ có 11,8% số bà mẹ trả lời đủ 4 lợi ích và tỷ lệ này thấp hơn rất nhiều so với một nghiên cứu tại Hòa Bình, có 38,8% số bà mẹ biết từ 4 lợi ích của bú sữa non trở lên [4]. Qua quá trình phỏng vấn sâu các bà mẹ chúng tôi nhận thấy, hầu hết các bà mẹ đều trả lời sữa non rất tốt, tăng sức đề kháng cho trẻ đề kháng được nhiều bệnh qua việc chia sẻ với những người có kinh nghiệm như ông, bà, bố, mẹ, hoặc những người đã từng nuôi con nhỏ. Tuy nhiên, có những lợi ích rất quan trọng mà các bà mẹ ít đề cập đến như giữ ấm cho trẻ hoặc giúp tống phân su nhanh.Vì vậy, việc tăng cường bổ sung kiến thức sâu hơn cho các bà mẹ là cần thiết để bà mẹ có tiếp cận được có kiến thức vững vàng hơn. 4.2. Kiến thức của bà mẹ về bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu Kiến thức đúng về như thế nào là NCHTBSM trong 6 tháng đầu là rất quan trọng, điều này ảnh hưởng rất lớn đến thực hành cho trẻ BMHT. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tại địa bàn nghiên cứu chỉ có 53,5% số đối tượng trả lời đúng NCHTBSM là chỉ bú mẹ và không kèm theo bất kì thức ăn nước uống nào khác. Tỷ lệ này cao hơn nghiên cứu kiến thức, thực hành và các yếu tố liên quan về NCBSMHT của các bà mẹ có con dưới 1 tuổi xã An Bình, huyện Cao Lãnh năm 2009, tỷ lệ bà mẹ trả lời đúng định nghĩa này chỉ có 44,5% [3]. Kết quả phỏng vấn sâu cho thấy có nhiều bà mẹ khẳng định rằng sữa mẹ rất tốt cho trẻ và không nên cho trẻ uống sữa ngoài, nhưng khi tìm hiểu kỹ hơn thì bà mẹ lại hiểu rằng "BSMHT trong 6 tháng là không cho bú sữa ngoài, cho uống thêm nước lọc, nên cho trẻ uống thêm nước hoa quả". Đối với trẻ nhỏ việc giữ gìn trẻ không mắc bệnh hoặc việc xử lý đúng khi trẻ bị bệnh là điều hết sức quan trọng. Trong nghiên cứu, số bà mẹ có nhận thức đúng rằng vẫn nên cho trẻ bú khi trẻ bị tiêu chảy và tiếp tục cho trẻ bú khi trẻ bị bệnh chiếm tỷ lệ rất cao. Tuy nhiên, kết quả phỏng vấn sâu cho thấy một số quan niệm khác của một số bà mẹ người dân tộc cho rằng "Khi trẻ bị tiêu chảy cho bú ít đi và cho uống thêm thuốc dân gian". Thực hành này rất nguy hiểm cho trẻ vì trẻ không được cung cấp đủ nước, chất dinh dưỡng mà khi sử dụng những phương thuốc dân gian chưa qua kiểm nghiệm có thể gây ngộ độc cho trẻ. Ngoài ra, việc cho trẻ bú ít đi còn làm giảm sự tiết sữa của bà mẹ gây ảnh hưởng rất lớn đến việc cho trẻ BMHT sau này. 4.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức về NCHTBSM của bà mẹ Trong ngiên cứu có mối liên quan giữa tuổi và kiến thức của các bà mẹ. 50% số bà mẹ trên 30 tuổi có kiến thức đạt trong khi chỉ có 13,6% số bà mẹ ít hơn 22 tuổi đạt được điểm đó. Điều này được giải thích rằng các bà mẹ trẻ hầu hết sinh con lần đầu và sự chia sẻ kiến thức NCHTBS chưa nhiều, vì vậy, các bà m

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfmo_ta_kien_thuc_va_mot_so_yeu_to_anh_huong_den_kien_thuc_ve.pdf