Kiến thức, thực hành chăm sóc trong và sau sinh của các bà mẹ có con nhỏ dưới 2 tuổi tại tỉnh Bo Lị Khăm Xay, Lào 2010

Nghiên cứu được thực hiện nhằm mô tả kiến thức và thực hành chăm sóc trong và sau sinh của các bà mẹ có con nhỏ dưới 2 tuổi tại tỉnh Bo Lị Khăm Xay, Lào năm 2010. Kết quả cho thấy kiến thức chăm sóc trong và sau sinh còn thấp: tỷ lệ bà mẹ biết về các dấu hiệu nguy hiểm xảy ra trong và sau sinh thấp, khoảng 1/2 số bà mẹ không biết dấu hiệu nguy hiểm có thể xảy ra trong và sau sinh; 59,0% bà mẹ có kiến thức về cho trẻ bú lần đầu tiên trong vòng một giờ sau sinh. Thực hành chăm sóc trong và sau sinh chưa tốt: 54,7% bà mẹ sinh con tại cơ sở y tế; 56,3% bà mẹ được nhân viên y tế đỡ đẻ trong lần sinh vừa qua; 56,1% bà mẹ cho trẻ bú lần đầu tiên trong vòng 1 giờ đầu ngay sau sinh và chỉ có 25,3% bà mẹ đi khám lại trong vòng 42 ngày sau sinh. kiến thức và thực hành chăm sóc trong và sau sinh của các bà mẹ còn chưa tốt.

pdf9 trang | Chia sẻ: Mịch Hương | Ngày: 29/03/2025 | Lượt xem: 25 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến thức, thực hành chăm sóc trong và sau sinh của các bà mẹ có con nhỏ dưới 2 tuổi tại tỉnh Bo Lị Khăm Xay, Lào 2010, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
166 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Hanoi City from November, 2011 to April, 2012. Results: Our data showed that children of over- weight parents had a greater risk of becoming obese than lean parents. School children having one overweight parents or both overweight parents were 3.5 and 6.7 times more likely to be overweight themselves than children with normal weight parents. We also identified that greedy, fast eating, over eating, and extra meals were some of the risk factors of these overweight school children. Over eating is the greatest risk factor that contributed to 6.0 times more risk of being overweight, followed by fast eating (3.8 times), extra meals (2.9 times), and greedy for food (2.5 times). Extra consumption of high fat content food (2.2 times), sugary food (2.6 times), and less consumption of vegetables and fruit (2.0 time) also contributed to children obesity. Regular physical activity reduced the risk of overweight and obesity. School children with less physical activ- ity had 2.1 time higher risk of overweight and obesity than children with regular physical activity. Keywords: Risk of overweight and obesity, school children, food intake and physical activity KIẾN THỨC, THỰC HÀNH CHĂM SÓC TRONG VÀ SAU SINH CỦA CÁC BÀ MẸ CÓ CON NHỎ DƯỚI 2 TUỔI TẠI TỈNH BO LỊ KHĂM XAY, LÀO 2010 Khamphanh Prabouasone1, Ngô Văn Toàn2, Lê Anh Tuấn3, Bùi Văn Nhơn2 1Đại học Y Khoa Lào, 2 Trường Đại học Y Hà Nội, 3Bệnh viện Phụ sản Trung ương Nghiên cứu được thực hiện nhằm mô tả kiến thức và thực hành chăm sóc trong và sau sinh của các bà mẹ có con nhỏ dưới 2 tuổi tại tỉnh Bo Lị Khăm Xay, Lào năm 2010. Kết quả cho thấy kiến thức chăm sóc trong và sau sinh còn thấp: tỷ lệ bà mẹ biết về các dấu hiệu nguy hiểm xảy ra trong và sau sinh thấp, khoảng 1/2 số bà mẹ không biết dấu hiệu nguy hiểm có thể xảy ra trong và sau sinh; 59,0% bà mẹ có kiến thức về cho trẻ bú lần đầu tiên trong vòng một giờ sau sinh. Thực hành chăm sóc trong và sau sinh chưa tốt: 54,7% bà mẹ sinh con tại cơ sở y tế; 56,3% bà mẹ được nhân viên y tế đỡ đẻ trong lần sinh vừa qua; 56,1% bà mẹ cho trẻ bú lần đầu tiên trong vòng 1 giờ đầu ngay sau sinh và chỉ có 25,3% bà mẹ đi khám lại trong vòng 42 ngày sau sinh. kiến thức và thực hành chăm sóc trong và sau sinh của các bà mẹ còn chưa tốt. Từ khóa: chăm sóc trong sinh, chăm sóc sau sinh, dấu hiệu nguy hiểm, khám lại sau sinh, bú lần đầu tiên Địa chỉ liên hệ: Khamphanh Prabouasone , Khoa Y tế công cộng, Đại học Y Khoa Lào Email: khamphanh2000@yahoo.com Ngày nhận: 25/11/2012 Ngày được chấp thuận: 26/04/2013 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Làm mẹ an toàn là tất cả phụ nữ đều được nhận sự chǎm sóc cần thiết để được hoàn toàn khỏe mạnh trong suốt thời gian mang thai, trong khi sinh và sau sinh. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, để đảm bảo an toàn cho mẹ và con trong quá trình mang thai, chuyển dạ và sau sinh, phụ nữ phải được cán bộ y tế có trình độ chuyên môn chăm sóc và theo dõi. Ước tính mỗi năm có khoảng 585.000 phụ nữ tử vong có liên quan đến thai nghén và sinh đẻ [1]. Tại Lào, tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới TCNCYH 82 (2) - 2013 167 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC một tuổi trong năm 2007 là 72/1000 trẻ đẻ sống cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực Đông Nam Á và trên thế giới, tỷ lệ tử vong mẹ rất cao với 405/100.000 trẻ đẻ sống [2]. Nguyên nhân chủ yếu là do tình trạng sức khỏe bà mẹ kém trong quá trình mang thai và các biến chứng có liên quan đến thai nghén, sinh đẻ và sau sinh; đặc biệt là do các biến chứng, tai biến sản khoa xảy ra trong chuyển dạ và sau sinh. Hầu hết các trường hợp tử vong mẹ và con này đều có thể tránh được bằng cách chăm sóc sức khỏe toàn diện cho tất cả các bà mẹ trong quá trình thai nghén; đặc biệt là chăm sóc, theo dõi tốt cho các bà mẹ trong chuyển dạ và sau khi sinh [1]. Để thực hiện tốt điều này thì kiến thức và thực hành của các bà mẹ về chăm sóc trong sinh và sau sinh có một vai trò rất quan trọng. Chính vì những lý do trên nghiên cứu này được thực hiện nhằm mô tả kiến thức và thực hành chăm sóc trong và sau sinh của các bà mẹ có con nhỏ dưới 2 tuổi tại tỉnh Bo Lị Khăm Xay, Lào năm 2010. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Địa điểm nghiên cứu Bo Lị Khăm Xay là một tỉnh thuộc vùng duyên hải Bắc Nam Bộ của Lào, có quốc lộ 13 chạy qua. Tỉnh có 6 đơn vị hành chính với 64% diện tích là đồi núi và 34% là đồng bằng. Păk Xăn là một huyện đồng bằng và Khăm Kợt là một huyện miền núi; nằm giữa 2 huyện này là huyện Pakkading. 2. Đối tượng Những bà mẹ đang nuôi con nhỏ dưới 24 tháng tuổi tại 2 huyện Păk Xăn và Khăm Kợt của tỉnh Bo Lị Khăm Xay, Lào năm 2010. 3. Phương pháp * Thiết kế nghiên cứu: Đây là một nghiên cứu mô tả cắt ngang nhằm mô tả kiến thức và thực hành chăm sóc trong và sau sinh của các bà mẹ tại tỉnh Bọ Lị Khăm Xay, Lào năm 2010. * Cỡ mẫu nghiên cứu: Trong đó: n: cỡ mẫu tối thiểu; Z(1-α/2): hệ số tin cậy (với độ tin cậy 95% thì Z = 1,96); p: tỷ lệ bà mẹ đi khám lại sau sinh trong vòng 7 ngày ở cơ sở y tế tại Bangladesh = 10,0% [3]; d: độ chính xác mong muốn (chọn d = 2%). Cỡ mẫu tính được là n = 865, trong nghiên cứu này đã tiến hành phỏng vấn được 869 bà mẹ. * Chọn mẫu nghiên cứu: Áp dụng kỹ thuật chọn mẫu nhiều bậc: bậc 1 chọn chủ đích 2 huyện Păk Xăn và Khăm Kợt thuộc tỉnh Bo Lị Khăm Xay, bậc 2: chọn 18 xã tại 2 huyện, bậc 3: mỗi xã chọn ngẫu nhiên 5 thôn, bậc 4: chọn ngẫu nhiên đơn tại mỗi thôn theo danh sách đã được lập tùy thuộc vào số lượng các bà mẹ có con nhỏ dưới 2 tuổi trong mỗi thôn. * Công cụ nghiên cứu: Bộ công cụ nghiên cứu được thiết kế theo hướng dẫn chuẩn về làm mẹ an toàn của Quỹ Dân số Liên hợp quốc, Tổ chức Y tế Thế giới và đã được chuẩn hóa tại Lào. * Đạo đức nghiên cứu: nghiên cứu đã thông qua ủy ban đạo đức trong nghiên cứu quốc gia và Bộ Y tế Lào, số 313/NECHR. III. KẾT QUẢ 1. Một số đặc trưng cá nhân Đa số bà mẹ ở độ tuổi 20 - 29, chiếm 61,6%. Tuổi trung bình của các bà mẹ tham gia nghiên cứu là 27,1 ± 5,9 tuổi. Trong đó bà mẹ có tuổi thấp nhất là 16, tuổi cao nhất là 47. n = Z2 (1-α/2) x p.q d2 168 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Tỷ lệ bà mẹ người Lào Lùm chiếm đa số là 85,5%, còn lại là người dân tộc Mộng, Khạ Mụ và dân tộc khác chiếm tỷ lệ 14,5%. Kết quả cũng cho thấy có > 1/2 số bà mẹ sống ở vùng miền núi, chiếm tỷ lệ 51,3%, tỷ lệ bà mẹ sống vùng đồng bằng là 48,7%. Hầu hết các bà mẹ nói thành thạo tiếng Lào, chiếm tỷ lệ 89,6%, còn lại 10,4% bà mẹ người dân tộc nói khó khăn hoặc không nói được tiếng Lào. Phần lớn các bà mẹ mới học hết tiểu học và trung học cơ sở, chiếm tỷ lệ 79,1%. Có 8,5% bà mẹ có trình độ học vấn từ trung học phổ thông trở lên. Tỷ lệ mù chữ ở các bà mẹ là 12,4%. Đa số các bà mẹ tham gia nghiên cứu đều làm nông nghiệp, chiếm tỷ lệ 81,1%. Còn lại các bà mẹ làm nghề khác chiếm tỷ lệ 18,9%, bao gồm nội trợ, buôn bán, cán bộ và công nhân. 2. Kiến thức chăm sóc trong sinh và sau sinh của các bà mẹ Bảng 1. Kiến thức về dấu hiệu nguy hiểm khi chuyển dạ của bà mẹ Kiến thức về dấu hiệu nguy hiểm khi chuyển dạ Biết Không biết Tần số % Tần số % Ngôi thai bất thường 242 27,9 627 72,1 Sa dây rau 111 12,8 758 87,2 Rau không ra trong vòng 30 phút khi sinh 20 2,3 849 97,7 Đau bụng dữ dội 31 3,6 838 96,4 Chảy nhiều máu nhiều 154 17,7 715 82,3 Sốt 34 3,9 835 96,1 Đau đầu, mờ mắt, co giật 86 9,9 783 90,1 Ngất xỉu 62 7,1 807 92,9 Kết quả cho thấy các bà mẹ biết về dấu hiệu nguy hiểm khi chuyển dạ là ngôi thai bất thường chiếm tỷ lệ cao nhất (27,9%); tiếp đến là chảy máu nhiều (17,7%), sa dây rau (12,8%) và đau đầu, mờ mắt, co giật (9,9%). Các bà mẹ biết dấu hiệu nguy hiểm khác xảy ra khi chuyển dạ chiếm tỷ lệ thấp. Kết quả cũng cho thấy, 42,2% bà mẹ biết 1 - 2 dấu hiệu nguy hiểm và 9,3% bà mẹ biết từ 3 dấu hiệu nguy hiểm trở lên xảy ra đối với sản phụ trong khi chuyển dạ. Tuy nhiên vẫn còn 48,5% bà mẹ không biết bất kỳ dấu hiệu nguy hiểm nào xảy ra trong chuyển dạ. Ở bảng 2 cho thấy kết quả cho thấy bà mẹ biết về dấu hiệu nguy hiểm sau sinh là chảy máu nhiều chiếm tỷ lệ cao nhất (33,0%); tiếp đến là đau bụng kéo dài và tăng lên (10,7%), ngất/co giật (8,6%). Các bà mẹ biết về các dấu hiệu nguy hiểm khác chiếm tỷ lệ thấp. Kết quả cũng cho thấy tỷ lệ bà mẹ biết ít nhất 3 dấu hiệu nguy hiểm xảy ra sau sinh chiếm 8,1%. Các bà mẹ biết 1 - 2 dấu hiệu nguy hiểm xảy ra sau sinh chiếm tỷ lệ 35,6%. Tuy nhiên còn 56,3% bà mẹ không biết bất kỳ một dấu hiệu nguy hiểm nào có thể xảy ra sau khi sinh. TCNCYH 82 (2) - 2013 169 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Kiến thức về dấu hiệu nguy hiểm sau khi sinh Biết Không biết Tần số % Tần số % Chảy nhiều máu 287 33,0 582 67,0 Ra dịch âm đạo có mùi hôi 9 1,0 860 99,0 Sốt cao kéo dài 27 3,1 842 96,9 Đau bụng kéo dài, tăng lên 93 10,7 776 89,3 Phù mặt, tay, chân 59 6,8 810 93,2 Đau đầu 41 4,7 828 95,3 Ngất/co giật 75 8,6 794 91,4 Bảng 2. Kiến thức về dấu hiệu nguy hiểm sau khi sinh của bà mẹ Bảng 3. Kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ Kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ Tần số % Ưu điểm của việc cho trẻ bú mẹ sớm sau sinh Trẻ khỏe mạnh 640 73,7 Tăng cường tình cảm gắn bó giữa mẹ và con 348 40,1 Phòng chảy máu sau sinh cho bà mẹ 205 23,6 Không biết 39 4,5 Kiến thức về thời gian cho trẻ bú lần đầu tiên sau sinh Trong vòng 30 phút 175 20,1 Từ 30 phút đến 1 giờ 338 38,9 Trong vòng ngày đầu sau sinh 284 32,7 Muộn hơn (> 1 ngày sau sinh) 67 7,7 Không biết 5 0,6 Phần lớn bà mẹ đều biết ưu điểm của việc cho trẻ bú mẹ sớm sau sinh sẽ giúp cho trẻ khỏe mạnh (73,7%). Tỷ lệ bà mẹ biết cho trẻ bú sớm sau sinh làm tăng cường tình cảm gắn bó giữa mẹ và con chiếm 40,1%. Có 23,6% bà mẹ cho rằng cho trẻ bú sớm sau sinh sẽ phòng được chảy máu sau sinh đối với các bà mẹ. Bên cạnh đó, vẫn còn 4,5% bà mẹ không biết về lợi ích của cho trẻ bú sớm. Kết quả cho thấy, tỷ lệ bà mẹ có kiến thức cho trẻ bú lần đầu tiên trong vòng ngày đầu sau sinh là 91,7%. Trong đó, có 59,0% bà mẹ có kiến thức về cho trẻ bú lần đầu tiên trong vòng một giờ sau sinh. 170 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 3. Thực hành chăm sóc trong sinh và sau sinh của các bà mẹ Bảng 4. Thực hành về chọn nơi sinh và người đỡ đẻ cho các bà mẹ Thực hành Tần số % Nơi sinh con của các bà mẹ Tại nhà 394 45,3 Cơ sở y tế nhà nước 473 54,5 Cơ sở y tế tư nhân 2 0,2 Người đỡ đẻ cho bà mẹ trong lần sinh vừa qua Nhân viên y tế 489 56,3 Mụ vườn 118 13,6 Người khác (mẹ, chồng, bạn bè) 262 30,1 Kết quả cho thấy đa số bà mẹ đã sinh con tại cơ sở y tế chiếm tỷ lệ 54,7%; trong đó hầu hết là sinh con tại cơ sở y tế nhà nước (54,5%), chỉ có 0,2% bà mẹ sinh con tại y tế tư nhân. Tỷ lệ bà mẹ sinh con tại nhà còn cao chiếm 45,3%. Đa số các bà mẹ đã được các nhân viên y tế đỡ đẻ trong lần sinh vừa qua chiếm tỷ lệ 56,3%. Tỷ lệ bà mẹ được mụ vườn đỡ đẻ là 13,6%. Tuy nhiên, còn tỷ lệ lớn bà mẹ được người khác đỡ đẻ (như mẹ, chồng, bạn bè), chiếm 30,1%. Bảng 5. Thực hành cho trẻ bú lần đầu tiên của các bà mẹ Thực hành cho trẻ bú lần đầu tiên Tần số % Trong vòng 30 phút ngay sau sinh 195 22,4 Từ 30 phút đến 1 giờ 293 33,7 Trong ngày đầu (sau giờ đầu tiên) 287 33,0 Trong ngày thứ 2 sau sinh 43 4,9 Không cho trẻ bú lần đầu tiên ngay sau sinh 51 6,0 Kết quả cho thấy hầu hết các bà mẹ đều cho trẻ bú lần đầu tiên trong vòng ngày đầu sau sinh, chiếm tỷ lệ 89,1%; trong đó tỷ lệ bà mẹ cho trẻ bú lần đầu tiên trong vòng 1 giờ đầu ngay sau sinh là 56,1%. Có 4,9% bà mẹ cho trẻ bú lần đầu tiên trong ngày thứ 2 sau sinh. Tuy nhiên, còn 6,0% bà mẹ không cho trẻ bú lần đầu tiên ngay sau sinh. Kết quả cho thấy tỷ lệ bà mẹ đi khám lại trong vòng 42 ngày sau sinh là 25,3%. Trong đó, đa số các bà mẹ đều được cán bộ y tế chăm sóc sau sinh chiếm tỷ lệ 82,7%, có 16,8% bà mẹ được bà mụ vườn chăm sóc sau sinh và 0,5% bà mẹ được nhân viên y tế thôn/bản chăm sóc. Trong số các bà mẹ đi khám lại sau sinh thì đa số bà mẹ đi khám trong vòng 7 ngày đầu sau sinh chiếm tỷ TCNCYH 82 (2) - 2013 171 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC lệ 68,6%, tiếp đến là tỷ lệ bà mẹ đi khám lại trong vòng 8 - 28 ngày sau sinh với 25,5% và có 5,9% bà mẹ đi khám lại trong vòng 29 - 42 ngày sau sinh (bảng 6). Bảng 6. Thực hành chăm sóc sau sinh của các bà mẹ Thực hành khám lại sau sinh Tần số % Bà mẹ khám lại sau sinh (n = 869) Đã đi khám lại sau sinh 220 25,3 Không đi khám lại 649 74,7 Người chăm sóc cho các bà mẹ sau sinh (n = 220) Cán bộ y tế 182 82,7 Nhân viên y tế thôn/bản 1 0,5 Bà mụ vườn 37 16,8 Thời gian bà mẹ đi khám lại sau sinh (n = 220) Trong vòng 7 ngày 151 68,6 Trong vòng 8 - 28 ngày 56 25,5 Trong vòng 29 - 42 ngày 13 5,9 IV. BÀN LUẬN Chuyển dạ là một quá trình quan trọng. Quá trình này rất dễ xảy ra các tai biến cho cả mẹ và thai nhi. Vì vậy, bà mẹ cần được theo dõi chuyển dạ tại cơ sở y tế để được chăm sóc chu đáo nhằm hạn chế tối đa các biến cố như chảy máu, sa dây rau, vỡ ối sớm, kiệt sức khi chuyển dạ Sự hiểu biết về các dấu hiệu nguy hiểm xảy ra với người mẹ trong quá trình chuyển dạ là rất quan trọng, giúp phát hiện sớm và kịp thời xử trí các dấu hiệu nguy hiểm có thể xảy ra, tránh những hậu quả đáng tiếc cho mẹ và con. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 9,3% bà mẹ biết từ 3 dấu hiệu nguy hiểm trở lên xảy ra đối với sản phụ trong khi chuyển dạ, cao hơn so với kết quả điều tra về thực trạng cung cấp dịch vụ và chăm sóc sức khỏe tại 7 tỉnh do UNFPA tiến hành vào năm 2005 tại Việt Nam với 7,9% nam giới và 4,7% nữ giới biết từ 3 dấu hiệu nguy hiểm trở lên [4]. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng có 48,5% bà mẹ không biết bất kỳ dấu hiệu nguy hiểm nào xảy ra trong chuyển dạ, cao hơn so với nghiên cứu của UNFPA tại Việt Nam năm 2005 với tỷ lệ này ở nam giới là 44,3%, nữ giới là 33,7% [4]. Và kết quả này cao hơn báo cáo điều tra cơ bản về chương trình tử vong mẹ và tử vong sơ sinh với tỷ lệ 41,9% phụ nữ không biết bất kỳ một dấu hiệu nguy hiểm nào khi chuyển dạ [5]. Mặc dù tỷ lệ các bà mẹ biết từ 3 dấu hiệu trở lên cao hơn một số nghiên cứu nhưng số bà mẹ không biết bất kỳ dấu hiệu nguy hiểm nào trong nghiên cứu này còn rất cao (chiếm gần 1/2 số bà mẹ). Vì vậy, cần có những biện pháp can thiệp có hiệu quả để trang bị các kiến thức cơ bản về dấu hiệu nguy hiểm trong chuyển dạ cho các bà mẹ. Qua đó giúp các bà mẹ có thể tự nhận biết 172 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC sớm được một số dấu hiệu nguy hiểm có thể xảy ra, góp phần hạn chế tối đa các tai biến đối với bà mẹ và thai nhi trong khi chuyển dạ. Kết quả cũng cho thấy dấu hiệu nguy hiểm khi chuyển dạ mà nhiều bà mẹ biết đến là ngôi thai bất thường chiếm tỷ lệ cao nhất (27,9%); tiếp đến là chảy máu nhiều (17,7%), sa dây rau (12,8%) và đau đầu, mờ mắt, co giật (9,9%). Trong khi đó tỷ lệ các bà mẹ biết dấu hiệu nguy hiểm khác xảy ra khi chuyển dạ chiếm tỷ lệ rất thấp. Điều đó cho thấy, kiến thức của các bà mẹ về từng dấu hiệu nguy hiểm xảy ra trong chuyển dạ còn rất thấp. Đặc biệt, chỉ có 17,7% bà mẹ biết chảy máu nhiều là một trong những dấu hiệu nguy hiểm khi chuyển dạ, trong khi đây chính là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tử vong mẹ trong khi sinh. Tỷ lệ này thấp hơn nhiều so với một số nghiên cứu ở nước ngoài như: Mesay Hailu và cộng sự nghiên cứu tại miền Nam Ethiopia năm 2010 thì tỷ lệ này là 55,0% [6], theo Warren C. và Liambila W. nghiên cứu tại Kenya năm 2004 thì tỷ lệ này là 37,0% [7]. Các bà mẹ biết 1 - 2 dấu hiệu nguy hiểm xảy ra sau sinh chiếm tỷ lệ 35,6%, thấp hơn so với nghiên cứu của tác giả Mesay Hailu và cộng sự tại miền Nam Ethiopia năm 2010 [6] và kết quả báo cáo điều tra về thực trạng cung cấp và sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại 7 tỉnh của UNFPA năm 2005 [4]. Nghiên cứu này cho thấy có 56,3% bà mẹ không biết bất kỳ một dấu hiệu nguy hiểm nào có thể xảy ra sau khi sinh, cao hơn rất nhiều so với 29,7% theo điều tra của UNFPA năm 2005 [4] và 35,8% theo báo cáo của Bộ Y tế năm 2009 [5]. Kết quả cũng cho thấy tỷ lệ bà mẹ biết ít nhất 3 dấu hiệu nguy hiểm xảy ra sau sinh chiếm 8,1%. Dấu hiệu nguy hiểm sau sinh mà bà mẹ biết đến nhiều nhất là chảy máu nhiều chiếm 33,0%, thấp hơn kết quả nghiên cứu tại Ethiopia (50%) và tại 14 tỉnh ở Việt Nam (50,7%) [5]. Đây là dấu hiệu nguy hiểm quan trọng nhất trong giai đoạn sau sinh và là nguyên nhân dẫn đến khoảng 30% tử vong mẹ trên toàn thế giới [6]. Trong khi đó, các bà mẹ biết về các dấu hiệu nguy hiểm khác chiếm tỷ lệ thấp. Qua đó cho thấy, kiến thức về các dấu hiệu nguy hiểm sau sinh của các bà mẹ còn thấp. Vì vậy rất cần những chương trình can thiệp có hiệu quả để giúp nâng cao nhận thức cho các bà mẹ về vấn đề này. Cần triển khai các chương trình giáo dục sức khỏe sinh sản nhằm nâng cao kiến thức và thực hành của các bà mẹ về các dấu hiệu nguy hiểm nghiêm trọng có thể xảy ra sau sinh kết hợp với chăm sóc trước và trong sinh. Từ đó giúp họ có thể phát hiện sớm các biến cố bất lợi và có được thực hành tốt trong chăm sóc sức khỏe mẹ và con. Đa số bà mẹ đều có kiến thức và thực hành tốt về cho trẻ bú lần đầu tiên trong vòng ngày đầu sau sinh (kiến thức: 91,7% và thực hành: 89,1%). Tuy nhiên, kiến thức và thực hành về cho trẻ bú lần đầu tiên trong vòng 1 giờ sau sinh còn chưa tốt, chỉ có 59,0% bà mẹ có kiến thức và 56,1% bà mẹ có thực hành đúng về vấn đề này; tương tự kết quả nghiên cứu tại Quảng Trị năm 2002 [8] và báo cáo của UNFPA về nghiên cứu sức khỏe sinh sản tại Việt Nam giai đoạn 2000 - 2005 [9]. Tỷ lệ bà mẹ biết ưu điểm của việc cho trẻ bú mẹ sớm sau sinh còn chưa cao: 73,7% bà mẹ biết cho trẻ bú sớm sẽ giúp cho trẻ khỏe mạnh (73,7%); 40,1% giúp tăng cường tình cảm gắn bó giữa mẹ và con; 23,6% phòng được chảy máu sau sinh đối với bà mẹ. Bên cạnh đó, vẫn còn 4,5% bà mẹ không biết về lợi ích của cho trẻ bú sớm. Vì vậy, cần tiến hành các hoạt động can thiệp tập trung nâng cao hiểu biết của bà mẹ về việc cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ sau sinh, tuyên truyền cho các bà mẹ biết về ưu điểm của việc trẻ bú sớm ngay TCNCYH 82 (2) - 2013 173 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC trong vòng 1 giờ sau sinh như cung cấp các yếu tố miễn dịch có trong sữa non cho trẻ, giúp tử cung sản phụ co tốt, tăng mối quan hệ mẹ con Từ đó giúp tăng cường sức khỏe của trẻ, cũng như của các bà mẹ. Kết quả cho thấy tỷ lệ bà mẹ đã sinh con tại cơ sở y tế chiếm 54,7%; trong đó hầu hết là sinh con tại cơ sở y tế nhà nước (54,5%). Kết quả ngày thấp hơn kết quả nghiên cứu của UNFPA tiến hành tại Việt Nam cho thấy tỷ lệ bà mẹ sinh con tại cơ sở y tế nhà nước là 81,7% (năm 2003) và 88,2% (năm 2005) [4]. Hiện nay, tại đa số quốc gia trên thế giới sinh con ở tại cơ sở y tế hiện trở thành lựa chọn phổ biến, vì đây là nơi có đủ các trang thiết bị y tế cần thiết và đội ngũ cán bộ y tế có đủ trình độ để chăm sóc tốt nhất cho sức khỏe của bà mẹ cũng như của thai nhi. Tuy nhiên, tỷ lệ bà mẹ sinh con tại nhà trong nghiên cứu này còn cao, chiếm 45,3%. Đồng thời, kết quả cũng cho thấy chỉ có 56,3% bà mẹ đã được các nhân viên y tế đỡ đẻ trong lần sinh vừa qua, trong khi đó tỷ lệ bà mẹ được mụ vườn đỡ đẻ là 13,6% và còn tỷ lệ lớn bà mẹ được người khác đỡ đẻ (như mẹ, chồng, bạn bè), chiếm 30,1%. Nguyên nhân chủ yếu là do hiểu biết, kiến thức của người dân tại Lào về vấn đề này còn thấp, mặt khác có thể do các cơ sở y tế tại đây chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân. Vì vậy cần giáo dục nâng cao kiến thức cho người dân, cũng như xây dựng hệ thống cơ sở y tế để đáp ứng nhu cầu dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người dân tại địa phương. Khám sau sinh có vai trò rất quan trọng, giúp theo dõi chặt chẽ và chăm sóc sản phụ nhằm phát hiện sớm những bất thườ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkien_thuc_thuc_hanh_cham_soc_trong_va_sau_sinh_cua_cac_ba_me.pdf
Tài liệu liên quan