Từ tháng 1 năm 2012 chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu ứng dụng phương pháp điều trị thoái hóa khớp
gối (THKG) bằng nội soi tạo tổn thương dưới sụn và ghép khối tế bào gốc tủy xương tự thân. Mục tiêu của
đề tài nhằm nghiên cứu một số chỉ số của khối tế bào gốc tủy xương tự thân của bệnh nhân thoái hóa khớp
gối và đánh giá kết quả bước đầu điều trị thoái hóa khớp gối bằng nội soi tạo tổn thương dưới sụn và ghép
khối tế bào gốc tủy xương tự thân. Kết quả cho thấy số lượng tế bào gốc CD34(+) trung bình là 5,5 x 106, số
lượng tế bào tạo cụm CFU - F trung bình là 21x103. Triệu chứng đau khớp được cải thiện sau điều trị 6 tuần.
Sau 6 tháng chức năng khớp gối được cải thiện rõ rệt, không có biến chứng. Điều trị thoái hóa khớp gối
bằng nội soi tạo tổn thương dưới sụn và ghép khối tế bào gốc tủy xương tự thân cho kết quả bước đầu khả
quan và không có biến chứng.
7 trang |
Chia sẻ: Mịch Hương | Ngày: 29/03/2025 | Lượt xem: 25 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả bước đầu điều trị thoái hóa khớp gối bằng nội soi tạo tổn thương dưới sụn và ghép khối tế bào gốc tủy xương tự thân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
122 TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU ĐIỀU TRỊ THOÁI HÓA KHỚP GỐI BẰNG
NỘI SOI TẠO TỔN THƯƠNG DƯỚI SỤN VÀ GHÉP KHỐI TẾ BÀO
GỐC TỦY XƯƠNG TỰ THÂN
Dương Đình Toàn1, Đào Xuân Tích1, Nguyễn Xuân Thùy1,
Nguyễn Thị Thu Hà2, Lý Tuấn Khải2, Nguyễn Thanh Bình2
1Trường Đại học Y Hà Nội; 2Bệnh viện Trung ương Quân đội 108
Từ tháng 1 năm 2012 chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu ứng dụng phương pháp điều trị thoái hóa khớp
gối (THKG) bằng nội soi tạo tổn thương dưới sụn và ghép khối tế bào gốc tủy xương tự thân. Mục tiêu của
đề tài nhằm nghiên cứu một số chỉ số của khối tế bào gốc tủy xương tự thân của bệnh nhân thoái hóa khớp
gối và đánh giá kết quả bước đầu điều trị thoái hóa khớp gối bằng nội soi tạo tổn thương dưới sụn và ghép
khối tế bào gốc tủy xương tự thân. Kết quả cho thấy số lượng tế bào gốc CD34(+) trung bình là 5,5 x 106, số
lượng tế bào tạo cụm CFU - F trung bình là 21x103. Triệu chứng đau khớp được cải thiện sau điều trị 6 tuần.
Sau 6 tháng chức năng khớp gối được cải thiện rõ rệt, không có biến chứng. Điều trị thoái hóa khớp gối
bằng nội soi tạo tổn thương dưới sụn và ghép khối tế bào gốc tủy xương tự thân cho kết quả bước đầu khả
quan và không có biến chứng.
Từ khóa: thoái hóa khớp gối, nội soi khớp gối, tế bào gốc
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thoái hóa khớp gối (THKG) là bệnh
thường gặp trong nhóm bệnh lý mãn tính của
khớp. 80% những người trên 55 tuổi có triệu
chứng của thoái hóa khớp [1]. Bệnh thường
xuất hiện sớm hơn, tiến triển nhanh hơn ở
những người lao động nặng, người thừa cân,
béo phì.
Cơ chế bệnh sinh của thoái hóa khớp gối
(tiên phát) là do quá trình lão hóa của lớp sụn
khớp làm cho sụn khớp mất dần tính bền
vững, dẫn đến mòn và bong khỏi lớp xương
dưới sụn.
Điều trị thoái hóa khớp gối thường dai
dẳng, tùy thuộc từng giai đoạn bệnh, chủ yếu
là điều trị triệu chứng bằng các thuốc giảm
đau, chống viêm, giảm cân, vật lý trị liệu. Tuy
vậy, điều trị nội khoa mặc dù giúp người bệnh
giảm được triệu chứng, nhưng tình trạng thoái
hóa khớp ngày càng tăng, tổn thương sụn
ngày càng nặng, trong khi đó biến chứng do
dùng thuốc lâu ngày thường gây tổn thương
đường tiêu hóa, tim mạch.v.v..
Phẫu thuật thay khớp gối là phương pháp
tối ưu nhằm thay thế một phần hoặc toàn bộ
khớp gối bằng khớp nhân tạo khi bệnh ở mức
độ vừa và nặng. Tuy nhiên thay khớp là một
phẫu thuật lớn, dễ gặp tai biến, biến chứng,
chi phí cao, không phải phần lớn bệnh nhân
thoái hóa khớp gối đều có khả năng thay
khớp. Trước những lý do đó, chấp nhận tàn
phế hoặc “sống chung” với thuốc vẫn là sự
lựa chọn của nhiều người bệnh.
Trong những năm gần đây, trước những
thành tựu mang tính đột phá của nền y học về
phát hiện, nghiên cứu và ứng dụng tế bào gốc
(TBG) trong điều trị tái tạo đã mở ra nhiều
triển vọng to lớn . Nhiều bệnh lý thuộc nhiều
Địa chỉ liên hệ: Dương Đình Toàn, bộ môn Ngoại, trường
Đại học Y Hà Nội
Email: toanduongdinh@gmail.com
Ngày nhận: 07/03/2013
Ngày được chấp thuận: 20/6/2013
TCNCYH 83 (3) - 2013 123
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
chuyên nghành khác nhau đã được điều trị
bằng tế bào gốc với kết quả rất khả quan,
trong đó có bệnh thoái hóa khớp gối. Với đặc
tính có khả năng tự tái tạo và biệt hóa thành
những tế bào chuyên biệt, đa dòng trong
những điều kiện nhất định, tế bào gốc được
xem như là nguồn “nguyên liệu” dự trữ, giúp
cơ thể sửa chữa, tái tạo, thay thế những mô,
tổ chức bị tổn thương hay già hóa, trong đó
có sụn khớp. Trên thế giới đã có nhiều công
trình nghiên cứu ứng dụng thành công tế bào
gốc trong điều trị thoái hóa khớp gối, giúp
người bệnh đẩy lùi được thời gian phải thay
khớp hoặc tránh được cuộc phẫu thuật thay
khớp [2; 3].
Lần đầu tiên tại bệnh viện Việt Đức, với sự
phối hợp của khoa Huyết học Bệnh viện Trung
ương Quân đội 108, từ tháng 1 đến tháng 8
năm 2012, chúng tôi đã điều trị cho 20 bệnh
nhân thoái hóa khớp gối tiên phát ở giai đoạn
2 và 3 bằng nội soi tạo tổn thương dưới sụn
(microfracture), kết hợp ghép khối tế bào gốc
tủy xương tự thân. Chúng tôi tiến hành nghiên
cứu này với mục tiêu:
1. Nghiên cứu một số chỉ số của khối tế
bào gốc tủy xương tự thân của bệnh nhân
thoái hóa khớp gối sử dụng trong điều trị
2. Đánh giá kết quả bước đầu điều trị thoái
hóa khớp gối bằng nội soi tạo tổn thương
dưới sụn kết hợp với ghép khối tế bào gốc tủy
xương tự thân.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
20 bệnh nhân thoái hóa khớp gối tiên phát,
giai đoạn 2-3 dựa theo phân độ của Kellgren và
Lawrence trên phim X-quang chụp thường quy,
tuổi từ 40 đến 70, đau gối mức độ vừa phải
(≤ 50 theo VAS) [4], không mắc các bệnh: viêm
nhiễm cấp và mạn tính, bệnh của máu và cơ
quan tạo máu, rối loạn cầm - đông máu.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả tiến
cứu. Cụ thể:
- Tất cả bệnh nhân đều được chụp cộng
hưởng từ (CHT) khớp gối trước mổ bằng máy
1.5 và 3.0 Tesla, khối lượng sụn bị tổn thương
do thoái hóa được lượng hóa bằng phần mềm
đo thể tích khuyết sụn tương thích trên máy
cộng hưởng từ 3.0 Tesla [5].
- Phân độ thoái hóa khớp theo Outerbridge
[6].
- Tiến hành phương pháp điều trị, gồm các
bước: 1) lấy dịch tủy xương và tách khối tế
bào gốc, xác định số lượng tế bào gốc thu
được. 2) nội soi khớp làm sạch, tạo tổn
thương dưới sụn (microfracture), 3) bơm khối
tế bào gốc vào khớp và luyện tập sau phẫu
thuật .
- Theo dõi, đánh giá kết quả điều trị.
Các kỹ thuật sử dụng trong nghiên cứu
- Xét nghiệm tế bào máu và tủy xương: sử
dụng máy đếm tế bào tự động CD1800
(Abbott- Hoa Kỳ) và phương pháp tế bào học
kinh điển.
- Tách khối tế bào gốc từ dịch hút tủy xương:
mỗi bệnh nhân được chọc hút thu gom 100 ml
dịch tủy xương từ xương chậu ở vị trí gai chậu
sau trên. Tách khối tế bào gốc bằng phương
pháp ly tâm theo gradient tỷ trọng theo qui trình
của khoa Huyết học, bệnh viện Trung ương
Quân đội 108 thuộc đề tài độc lập cấp Nhà nước
đã được nghiệm thu năm 2011 [7].
- Xác định thành phần tế bào gốc tạo máu
CD34+: sử dụng phương pháp tế bào dòng
chảy theo hướng dẫn của ISHAGE [8].
- Xác định tế bào gốc trung mô bằng kỹ
thuật nuôi cấy cụm nguyên bào sợi CFU-F
(Colony forming unit - Fibroblast) với môi
trường nuôi cấy của Stem cell technologies
(Canada) [9].
124 TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
- Kỹ thuật nội soi khớp gối, tạo tổn thương
dưới sụn kết hợp tiêm khối tế bào gốc tủy
xương tự than [10].
- Điều trị và tập luyện sau mổ theo một
chương trình thống nhất [10]. Tất cả bệnh
nhân đều được khám lại theo hẹn.
- Phương pháp đánh giá kết quả: Kết quả
lâm sàng được đánh giá theo thang điểm
KOOS [11]. Sau mổ 6 tuần và 3 tháng, dự
kiến theo dõi tiếp sau 6, 12 và 24 tháng . Dự
kiến sau mổ 24 tháng chúng tôi sẽ chụp lại
cộng hưởng từ đánh giá tình trạng thay đổi
sụn khớp sau điều trị bằng cách đo lại thể tích
sụn. Kết quả được so sánh với thể tích sụn
trước mổ.
3. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại bệnh viện
Việt Đức và khoa Huyết học, bệnh viện Trung
ương Quân đội 108 từ tháng 1 đến tháng 8
năm 2012.
4. Đạo đức nghiên cứu
Đây là đề tài nghiên cứu ứng dụng tại Việt
Nam trên cơ sở những kết quả nghiên cứu cơ
bản và đã ứng dụng thành công, hiệu quả và an
toàn trên người bệnh tại nhiều nước trên thế
giới. Tại Việt Nam, đề tài này tiếp tục phát triển
từ đề tài cấp nhà nước đã được nghiệm thu. Tuy
nhiên, để thực hiện một đề tài nghiên cứu trên
người bệnh dù đã được chứng minh tính an
toàn và hiệu quả, chúng tôi luôn tuân thủ các
yêu cầu về đảm bảo đạo đức trong nghiên cứu:
Lựa chọn bệnh nhân là những đối tượng
hoàn toàn tỉnh táo về tinh thần, nhận thức
được ý nghĩa của biện pháp điều trị cũng như
chấp nhận những rủi ro có thể xẩy ra.
Bệnh nhân được giải thích rõ về mục đích của
nghiên cứu, những lợi ích, rủi ro có thể có và những
đóng góp cho khoa học của biện pháp điều trị.
Bệnh nhân hoàn toàn tình nguyện tham gia
nghiên cứu và có ký giấy cam kết, cũng như có
quyền rút khỏi nghiên cứu bất cứ lúc nào.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Tuổi: từ 40 - 69, trung bình 54,3. Tuổi chủ yếu trên 55.
Bảng 1. Liên quan giữa chỉ BMI với mức độ thoái hóa khớp
Mức độ tổn thương sụn Tổng số
Độ II Độ III n %
Bình thường 0 1 1 5
Tiền béo phì 4 6 10 50
Béo phì độ 1 1 7 8 40
Béo phì độ 2 0 1 1 5
Tổng số 5 15 20 100%
Mức độ béo phì
Thoái hóa khớp gối trong lô nghiên cứu gặp chủ yếu ở giai đoạn III (75%), và thuộc nhóm đối
tượng tiền béo phì và béo phì độ 1 (90%).
TCNCYH 83 (3) - 2013 125
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2. Một số chỉ số của khối tế bào gốc tủy xương
Bảng 2. Số lượng các loại tế bào trong khối dịch tủy xương của các bệnh nhân
trước khi tách tế bào gốc (n = 20)
Chỉ số Đơn vị Giá trị trung bình
Tế bào có nhân tủy xương G/L 21,5 ± 10,35
Tế bào đơn nhân
G/L 19,6 ± 6,01
% 40,3 ± 5,83
Tế bào đa nhân
G/L 31,5 ± 14,57
% 59,5 ± 6,55
Tế bào CD34 (+) tủy xương % 0,38 ± 0,049
Trước khi tách, số lượng tế bào gốc tạo máu (CD34(+)) trong 100ml dịch tủy xương chỉ chiếm
tỷ lệ thấp, trung bình là 0,38 ± 0,049%.
Bảng 3. Số lượng các loại tế bào trong khối tế bào gốc của tủy xương
thu được sau chiết tách (n = 20)
Tế bào tủy xương n (G/L) %
Tổng số tế bào trong
khối tế bào gốc được
bơm vào khớp
Tế bào có nhân 42,9 ± 19,65
Tế bào đơn nhân 27,1 ± 11,56 65,0 ± 11,29 270,6 ± 115,64 x 106
Tế bào CD34(+) 1,3 ± 0,49 5,5 ± 3,09 x 10
6
(1,37 - 14,27 x106)
Sau khi tách, số lượng tế bào gốc tạo máu (CD34(+)) tăng lên gấp 3,4 lần so với trước tách.
Số lượng tế bào gốc tạo máu được bơm vào khớp gối trung bình là 5,5 ± 3,09 x 106 tế bào.
Bảng 4. Số lượng cụm tế bào CFU-F (n = 19)
Cụm tế bào Số lượng
Cụm CFU-F/106 tế bào 38,3 ± 21,46 (10 - 96)
Cụm CFU-F/ml khối tế bào gốc tủy xương 2,1 ± 2,20 x 103 (0,2 - 9,6 x 103)
Tế bào tạo cụm CFU-F được bơm vào khớp gối 21 ± 21,8 x103 (0,28 - 95,8 x 103)
Số lượng tế bào gốc trung mô (tế bào tạo cụm CFU-F) được bơm vào khớp gối trung bình là
21 ± 21,8 x103 tế bào.
126 TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
3. Kết quả lâm sàng
Biểu đồ 1. Sự thay đổi lâm sàng sau mổ
So với trước mổ, sau mổ 6 tuần, 3 tháng, 6 tháng, các triệu chứng lâm sàng đều được cải
thiện một cách rõ rệt, trong đó triệu chứng đau cải thiện ngay sau mổ 6 tuần (p < 0,05). Tuy nhiên
khả năng chơi thể thao (chạy nhảy) cải thiện còn chậm. Tuy vậy chất lượng cuộc sống của
bệnh nhân khá lên rất nhiều.
IV. BÀN LUẬN
Bệnh nhân thoái hóa khớp gối trong lô
nghiên cứu của chúng tôi có tuổi từ 40 - 69,
tuổi trung bình là 54,3 (chủ yếu trên 55), nữ
chiếm 2/3. Cũng như kết quả của những
nghiên cứu về thoái hóa khớp, lứa tuổi này
chủ yếu nằm trong nhóm đối tượng tiền mãn
kinh và mãn kinh, sự rối loạn về nội tiết của
lứa tuổi này là một trong những yếu tố thúc
đẩy quá trình thoái hóa khớp diễn ra nhanh
hơn [1; 4].
Cân nặng cũng được xem là một trong
những yếu tố thúc đẩy quá trình thoái hóa
khớp diễn ra nhanh hơn [1]. Kết quả ở bảng 1
cho thấy, trong nhóm tiền béo phì có 6 bệnh
nhân thoái hóa độ III, 4 bệnh nhân thoái hóa
độ II. Trong nhóm béo phì độ 1 có 7 bệnh
nhân thoái hóa độ III và 1 bệnh nhân thoái
hóa độ II. Qua đó ta thấy có sự tương quan tỷ
lệ thuận giữa cân nặng và mức độ thoái hóa
khớp, nghĩa là bệnh nhân có chỉ số BMI càng
cao thì mức độ thoái hóa khớp càng nặng.
Tuy nhiên mối tương quan này không có ý
nghĩa với p > 0,05.
Về đặc điểm tế bào của dịch tủy xương
trên bệnh nhân thoái hóa khớp gối ta thấy,
trước khi tách, tỷ lệ tế bào CD34(+) (tế bào
gốc tạo máu) của 100ml dịch tủy xương trung
bình chiếm 0,38 ± 0,049% (bảng 2). Sau khi
tách, tỷ lệ tế bào CD34(+) tăng lên là 1,3 ±
0,49% (bảng 3). Số lượng tế bào có nhân
trong khối tế bào gốc tủy xương và số lượng
43%
46%
33%
0.12
30%
60%
52%
48%
13%
37%
75% 73%
65%
22%
65%
82% 81%
78%
30%
80%
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
Tru? c m?
SM 6 tu?n
SM 3 tháng
SM 6 tháng
TCNCYH 83 (3) - 2013 127
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
cụm CFU-F (tế bào gốc trung mô) có mối liên
quan tỷ lệ thuận với p < 0,05 (bảng 4). Tỷ lệ %
tế bào CD34(+) trong khối tế bào gốc tủy
xương sau khi tách và số lượng cụm CFU-F
có mối liên quan tỷ lệ thuận với p < 0,05.
Kết quả lâm sàng cho thấy: sau mổ 6 tuần
triệu chứng đau được cải thiện với sự khác
biệt so với trước mổ (p < 0,05), còn các triệu
chứng khác có khá lên nhưng không có sự
khác biệt (biểu đồ 1). Sau mổ 3 tháng và 6
tháng tình trạng gối được cải thiện rất rõ rệt so
với trước mổ, đặc biệt là triệu chứng đau gối,
tiếng lục cục khớp và kẹt khớp gần như hết,
bệnh nhân có thể bước đi trên mặt phẳng bình
thường, lên xuống cầu thang nhẹ nhàng hơn,
chất lượng cuộc sống tăng lên nhiều, bệnh
nhân lạc quan hơn nhiều so với trước mổ. Tuy
nhiên một số động tác cải thiện chậm như
ngồi xổm, lên xuống cầu thang, chạy nhảy
Khả năng chơi thể thao có cải thiện nhưng
không đáng kể. Trong lô nghiên cứu, không có
trường hợp nào gặp tai biến hay biến chứng.
V. KẾT LUẬN
Thoái hóa khớp gối gặp ở nữ nhiều hơn
nam, tuổi trung bình 54,3. Cân nặng có xu
hướng tương quan tỷ lệ thuận với mức độ của
thoái hóa khớp gối. Khối tế bào gốc tủy xương
thu được sau khi tách từ 100 ml dịch tủy
xương tự thân có tỷ lệ tế bào CD34 (+) là 1,3
(± 0,49)%. Tổng số tế bào CD34(+) được
bơm vào khớp gối trung bình là 5,5 (± 3,09) x
106 (1,37 - 14,27 x 106). Số lượng tế bào tạo
cụm CFU-F trung bình 21 x 103 tế bào (0,28 -
95,8 x 103). Có mối tương quan tỷ lệ thuận
giữa số lượng tế bào có nhân và số lượng tế
bào tạo cụm CFU-F cũng như giữa tỷ lệ % tế
bào CD34(+) và số lượng tế bào tạo cụm CFU
-F (p < 0,05).
Phương pháp điều trị thoái hóa khớp gối
bằng nội soi tạo tổn thương dưới sụn và ghép
khối tế bào gốc tủy xương thu được từ 100 ml
dịch tủy xương tự thân cho kết quả bước đầu
khả quan và không có biến chứng. Triệu
chứng đau gối được cải thiện ngay sau mổ 6
tuần, chức năng khớp gối được cải thiện rõ rệt
sau mổ 3 và 6 tháng.
Lời cảm ơn
Thay mặt nhóm nghiên cứu, tôi chân thành
cảm ơn Ban giám đốc bệnh viện Việt Đức,
Ban lãnh đạo viện Chấn thương Chỉnh hình
bệnh viện Việt Đức, ban lãnh đạo các khoa
phòng thuộc viện Chấn thương Chỉnh hình,
các bác sỹ, kỹ thuật viên khoa Huyết Học,
khoa Chẩn đoán hình ảnh bệnh viện Trung
ương Quân đôi 108, đã ủng hộ, tạo điều kiện
và phối hợp giúp đỡ chúng tôi để thực hiện
được đề tài này. Chúng tôi cam kết không có
xung đột lợi ích từ kết quả nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Ngọc Ân (1995). Hư khớp và hư
cột sống, bệnh thấp khớp. Nhà xuất bản y
học. 193 - 209.
2. Lim Wey Wen (2010). A clinical study
shows that it is possible to regenerate carti-
lage in damaged joints using patients’ own
blood stem cells. Arthroscopy Journal of Ar-
throsopic and Related Surgery. 26(12), 1 - 15.
3. Wakitani S., Okabe, S (2009). Safety of
autologous bone marrow-derived mesenchy-
mal stem cell transplantation for cartilage re-
pair in 41 patients with 45 joints followed for
up to 11 years and 5 months. J Tissue Eng
Regen Med. 5(2), 146 - 150.
4. Gillian A. Hawker et al (2011).
Measures of adult pain. Arthritis Care &
Research: 63(11), S240 - S252.
5. Garry E. Gold,MD (2006). Articular Car-
tilage of the Knee: Rapid Three-dimensional
MR Imaging at 3.0 T with IDEAL Balanced
128 TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Steady- State Free Precession—Initial Experi-
ence. Radiology: 240(2).
6. Radrigo Campos (2011). Assessment
of reproducibility of the Outerbridge and FSA
classifications for chondral lesions of the knee.
Rev Bras Ortop. 46(3), 266 - 69
7. Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Thị Thu
Hà và cộng sự (2011). Điều trị hoại tử vô
khuẩn chỏm xương đùi bằng ghép tế bào gốc
tủy xương tự than. Tạp chí nghiên cứu Y học,
73(2), 12 - 18.
8. Sutherland D. et al (1996). The
ISHAGE guidelines for CD 34+ cell determina-
tion by flow cytometry. J.Hematotherapy. 5,
213 - 236.
9. Emer Clarke (2005). Culture of Human
and Mouse Mesenchymal Cells. Methods in
Molecular Biology, vol. 290: Basic Cell Culture
Protocols, Third Edition.
10. Lisa A. Fortier (2010). Concentrated
Bone Marrow Aspirate Improves Full-
Thickness Cartilage Repair Compared with
Microfracture in the Equine Model. J Bone
Joint Surg Am. (92), 1927 - 1937.
11. Lohmander LS, Ekdahl C (1998).
Knee Injury and Osteoarthritis Outcome Score
(KOOS). J Orthop Sports Phys Ther. 1998
Aug. 28(2), 88 - 96.
Summary
TREATMENT OF OSTEOARTHRITIS OF THE KNEE (KOA) BY
ARTHROSCOPIC SUBCHONDRAL DRILLING AND AUTOLOGOUS
BONE MARROW STEM CELLS INJECTION
Twenty patients with twenty primary osteoarthritic knees underwent Arthroscopic Subchondral
Drilling (ASD) in combination with Autologous Bone Marrow Stem cells (ABMSCs) injection from
the pelvis. The objectives of the study were 1) to investigate some indexes of ABMSCs block of
patients with KOA and 2) Evaluate the initial results of KOA’s treatment by ASD and ABMSCs
injection. The results showed that the number of CD34 (+) cells obtained in Autologous Bone
Marrow blocks average 5.5 x106. The number of cells that create clusters of CFU-F average
21x103. In the follow-up time after surgery as early as 6 weeks, the longest was 24 weeks, all
twenty patients started showing signs of clinical improvement, there were no case of post
operative complication such as infection or adhesive knee.. In conclusion, this is a new method of
treating KOA, safe, minimally invasive and effectively long-term, due to stem cell regeneration and
differentiation into chondrocyte to repair damaged cartilage. The success of this method has
opened a new perspective in the treatment of KOA and help prolong or avoid knee replacement
surgery.
Keyword: Osteoarthritis, bone marrow stem cell, arthroscopy, microfracture
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ket_qua_buoc_dau_dieu_tri_thoai_hoa_khop_goi_bang_noi_soi_ta.pdf