Ðiều trị rối loạn bề mặt nhãn cầu nặng hai mắt bằng ghép tấm biểu mô niêm mạc miệng nuôi cấy

Ghép tấm biểu mô niêm mạc miệng nuôi cấy được thực hiện thành công trên thỏ thực nghiệm. Trong việc áp dụng trên bệnh nhân, đây là phương pháp hiệu quả và an toàn trong điều trị rối loạn bề mặt nhãn cầu nặng ở 2 mắt, có thể lặp lại nhiều lần mà không ảnh hưởng đến tình trạng mắt và toàn thân của người bệnh, là giải pháp mới cho bệnh lý khó khăn này. Tuy nhiên cần có thời gian theo dõi dài hơn và nghiên cứu với số lượng lớn hơn để đánh giá hiệu quả của phương pháp.

pdf7 trang | Chia sẻ: truongthinh92 | Lượt xem: 1342 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ðiều trị rối loạn bề mặt nhãn cầu nặng hai mắt bằng ghép tấm biểu mô niêm mạc miệng nuôi cấy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
64 TCNCYH 93 (1) - 2015 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC ðIỀU TRỊ RỐI LOẠN BỀ MẶT NHÃN CẦU NẶNG HAI MẮT BẰNG GHÉP TẤM BIỂU MÔ NIÊM MẠC MIỆNG NUÔI CẤY Nguyễn Thị Thu Thủy1, Nguyễn Thị Bình2, Hoàng Thị Minh Châu1 1Bệnh viện Mắt Trung ương, 2Trường ðại học Y Hà Nội Rối loạn nặng bề mặt nhãn cầu 2 mắt do suy giảm toàn bộ tế bào gốc vùng rìa là một thách thức trong nhãn khoa do ñiều trị và tiên lượng còn rất khó khăn. Sử dụng tấm biểu mô niêm mạc miệng nuôi cấy thay thế biểu mô giác mạc là giải pháp mới ñã áp dụng thành công trên thế giới, ñem lại nhiều hứa hẹn trong ñiều trị bệnh lý này. Nghiên cứu nhằm ñánh giá kết quả ghép tấm biểu mô niêm mạc miệng nuôi cấy trên thỏ thực nghiệm và ứng dụng ñiều trị cho một số bệnh nhân có rối loạn nặng bề mặt nhãn cầu 2 mắt. Trên thực nghiệm, nuôi cấy và ghép tự thân thành công tấm b iểu mô niêm mạc miệng cho 15 thỏ, 14 thỏ kết quả tốt, 1 thỏ kết quả khá. Trên lâm sàng, nuôi cấy và ghép tự thân cho 20 ca rối loạn bề mặt nhãn cầu 2 mắt, trong ñó 3 ca phẫu thuật 2 lần, có 14 ca thành công, 2 ca tấm b iểu mô b ị tiêu hủy do tổn thương ngấm sâu vào nội nhãn, 4 ca tân mạch xâm lấn tới trung tâm giác mạc. Ghép tấm b iểu mô niêm mạc miệng nuôi cấy là phương pháp an toàn, hiệu quả trong kiến tạo bề mặt nhãn cầu. Từ khóa: Bề mặt nhãn cầu, tấm biểu mô niêm mạc miệng nuôi cấy ðịa chỉ liên hệ: Nguyễn Thị Thu Thủy – khoa Kết giác mạc, bệnh viện Mắt Trung ương, 85 Bà Triệu, Hà Nội. Email: thuyoph@gmail.com Ngày nhận: 03/12/2014 Ngày ñược chấp thuận: 18/5/2015 I. ðẶT VẤN ðỀ Bề mặt nhãn cầu ñóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ nhãn cầu, duy trì sự trong suốt của giác mạc, ñảm bảo chức năng thị giác. Bề mặt nhãn cầu ñược ổn ñịnh nhờ sự toàn vẹn của các yếu tố cấu thành bao gồm biểu mô kết mạc, giác mạc, biểu mô vùng rìa và phim nước mắt. Trong các rối loạn bề mặt nhãn cầu sau viêm nhiễm giác mạc kéo dài, bỏng, pemphi- goid, hội chứng Stevens – Johnson, tổn thương xảy ra do suy giảm trầm trọng tế bào gốc vùng rìa của biểu mô giác mạc. Biểu hiện của các rối loạn này là sự xâm lấn của biểu mô kết mạc, tổ chức xơ và tân mạch vào giác mạc làm giảm thị lực có thể dẫn tới mù lòa [1; 2]. Rối loạn bề mặt nhãn cầu nặng khi có suy giảm toàn bộ 360° tế bào gốc vùng rìa giác mạc cho tới nay vẫn là thách thức ñối với các nhà nhãn khoa do ñiều trị và tiên lượng còn khó khăn. Với những bệnh nhân rối loạn bề mặt nhãn cầu ở một mắt, phẫu thuật ghép tế bào gốc tự thân từ vùng rìa của mắt lành là phương pháp ñiều t rị tối ưu ñã ñược áp dụng thành công trên thế giới, ở Việt Nam ñã có những kết quả bước ñầu khả quan. Các bệnh nhân có rối loạn nặng xảy ra ở cả 2 mắt không áp dụng ñược phương pháp này do không còn tế bào gốc tự thân, ñể ñiều trị có thể tiến hành ghép tế bào gốc dị thân song phải phối hợp các thuốc ức chế miễn dịch toàn thân kéo dài ñể chống thải ghép, dẫn tới nguy cơ cao cho tổn hại chức năng gan, thận, nguy cơ nhiễm trùng toàn thân, tại chỗ. Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ nuôi cấy tế bào, các nhà khoa học trên thế giới ñã sử dụng biểu mô niêm mạc miệng nuôi cấy làm nguồn cung cấp tế bào biểu mô tự thân ñể thay thế cho biểu mô giác mạc trong việc kiến tạo bề mặt nhãn cầu [3 - 7]. TCNCYH 93 (1) - 2015 65 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2015 Từ kinh nghiệm lâm sàng trong ñiều trị các bệnh lý bề mặt nhãn cầu và những thành tựu bước ñầu của công nghệ nuôi cấy tế bào của Bộ môn Mô - Phôi trường ðại học Y Hà Nội, chúng tôi ñã phối hợp nghiên cứu ghép tấm biểu mô niêm mạc miệng nuôi cấy nhằm mục tiêu: ðánh giá kết quả ghép tấm biểu mô niêm mạc miệng nuôi cấy trên thỏ thực nghiệm và ứng dụng ñiều trị cho một số bệnh nhân có rối loạn nặng bề mặt nhãn cầu 2 mắt. II. ðỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. ðối tượng - 15 thỏ thực nghiệm khỏe mạnh chủng Orytolagus Cuniculus, trọng lượng 2 ± 0,2 kg ñược nuôi cùng ñiều kiện phòng thí nghiệm. - 12 bệnh nhân rối loạn bề mặt nhãn cầu nặng 2 mắt ñược ñiều trị tại khoa Kết giác mạc – Bệnh viện Mắt Trung ương từ 01/2009 ñến 05/2013. Tiêu chu(n l+a ch-n b/nh nhân: các bệnh nhân rối loạn nặng bề mặt nhãn cầu, không nhiễm trùng, ñã ñiều trị qua giai ñoạn viêm cấp, xơ mạch xâm lấn toàn bộ giác mạc hoặc tổn thương biểu mô khó hàn gắn, bệnh nhân ñồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chu(n lo3i tr6: bất thường mi mắt như quặm, biến dạng hay hở mi, có hiện tượng sừng hóa bề mặt nhãn cầu. 2. Phương pháp Thi7t k7: nghiên cứu thực nghiệm và lâm sàng, tiến cứu Các b;<c ti7n hành Trên thỏ thực nghiệm: gây mê t ĩnh mạch rìa tai thỏ bằng Thiopental 10mg/kg. Gây bỏng giác mạc và vùng rìa mắt thỏ bằng phương pháp “in dấu” NaOH 3% trong 7 giây. Sau 2 tuần sinh thiết 1 mảnh niêm mạc mặt trong vùng giữa má thỏ, kích thước ñường kính 3 mm. Nuôi cấy tạo tấm biểu mô niêm mạc miệng theo quy trình của Lab nuôi cấy mô – Bộ môn Mô phôi, Trường ðại học Y Hà Nội. Sau 2 tuần nuôi cấy thu ñược 2 tấm biểu mô niêm mạc miệng , 1 tấm dùng ñể ñịnh danh, 1 tấm ghép tự thân cho thỏ. Quy trình phẫu thuật: mở kết mạc rìa 360º, phẫu tích xơ dưới kết mạc. Gọt bỏ tổ chức màng xơ mạch trên giác mạc và vùng rìa. Trải tấm biểu mô nuôi cấy trên bề mặt nhãn cầu. Khâu cố ñịnh bằng chỉ 10/0 mũi rời quanh rìa. Nhuộm Fluorescein kiểm tra ñộ toàn vẹn của tấm biểu mô. ðánh giá sau mổ toàn trạng của thỏ, tình trạng mắt thỏ ở các thời ñiểm sau ghép 7 ngày, 15 ngày, 30 ngày, 60 ngày, 180 ngày, dựa trên tiêu chí ñộ trong và áp của tấm biểu mô, sự toàn vẹn của bề mặt nhãn cầu và tân mạch giác mạc. Tiến hành giết thỏ theo từng lô ở từng thời ñiểm theo dõi ñể kiểm tra cấu trúc vi thể và siêu vi của giác mạc thỏ sau khi ghép. Trên b/nh nhân Sinh thiết niêm mạc miệng: gây tê tại chỗ dưới niêm mạc, sinh thiết 1 mảnh niêm mạc mặt trong vùng giữa má ñường kính 3 mm. Nuôi cấy tạo tấm biểu mô theo quy trình của bộ môn Mô phôi – Trường ðại học Y Hà Nội. Sau 2 tuần nuôi cấy thu ñược 2 tấm biểu mô niêm mạc miệng, 1 tấm dùng ñể ñịnh danh, 1 tấm ghép tự thân cho bệnh nhân. Quy trình phẫu thuật: mở kết mạc rìa 360º, phẫu tích xơ dưới kết mạc. Gọt bỏ tổ chức màng xơ mạch trên giác mạc và vùng rìa. Trải tấm biểu mô nuôi cấy trên bề mặt nhãn cầu. Khâu cố ñịnh bằng chỉ 10/0 mũi rời quanh rìa. Nhuộm Fluorescein kiểm tra ñộ toàn vẹn của tấm biểu mô. ðặt kính tiếp xúc mềm. Chăm sóc sau mổ: kháng sinh tra ñến khi bề mặt nhãn cầu biểu mô hóa hoàn toàn. Chống viêm corticoid tra tại chỗ giảm liều dần tới sau mổ 2 - 3 tháng. Dinh dưỡng bề mặt 66 TCNCYH 93 (1) - 2015 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC nhãn cầu bằng nước mắt nhân tạo không có chất bảo quản, huyết thanh tự thân. Cắt chỉ sau 2 tuần. Kính tiếp xúc thay 2 tuần/ lần, duy trì sau mổ 4 - 6 tháng. ðánh giá mắt sau phẫu thuật hàng ngày trong 2 tuần, hàng tuần trong 1 tháng, 2 tuần/ lần trong 2 tháng, sau ñó 1 tháng/ lần. Tiêu chí theo dõi dựa vào ñộ trong và áp của tấm biểu mô, tình trạng bề mặt nhãn cầu, tân mạch giác mạc. + Kết quả tốt: tấm biểu mô áp tốt, bề mặt nhãn cầu nhẵn, tân mạch không có hoặc chỉ dừng ở rìa giác mạc. + Kết quả khá: tấm biểu mô áp tốt, bề mặt nhãn cầu thô ráp nhưng không có tổn thương biểu mô, tân mạch qua rìa vào chu biên nhưng chưa vào trung tâm giác mạc. + Kết quả xấu: tấm biểu mô bong hoặc bị tiêu hủy, hoặc tổn thương biểu mô bề mặt nhãn cầu dai dẳng, hoặc tân mạch xâm lấn vào trung tâm giác mạc. 3. ðạo ñức nghiên cứu ðây là một phần nội dung của ñề tài ñộc lập cấp nhà nước “Nghiên cứu quy trình sử dụng tế bào gốc ñể ñiều trị một số bệnh của bề mặt nhãn cầu”, thuộc Bộ môn Mô phôi – Trường ðại học Y Hà Nội, mã số ðTðL.2010T/15, ñã ñược Hội ñồng ðạo ñức trong nghiên cứu Y sinh học của trường ðại học Y Hà nội chấp thuận (Chứng nhận chấp thuận số 77/Hððð – YHN ngày 16/07/2010). III. KẾT QUẢ Trên thực nghiệm Ở tất cả các thời ñiểm theo dõi, tấm biểu mô ñều áp tốt trên bề mặt nhãn cầu. Trong 7 ngày ñầu có 2 thỏ có bắt màu Fluorescein ở trung tâm giác mạc khoảng 4 mm, xuất hiện tân mạch ở chu biên. Tuy nhiên sau 15 ngày, diện bắt màu ñã thu gọn còn 2 mm, tân mạch chu biên rút bớt chỉ còn ở vùng rìa. Sau mổ 30 ngày, biểu mô hoá hoàn toàn ở tất cả các thỏ, Fluorescein(-), tân mạch hết hoặc chỉ còn ở quanh rìa, không cương tụ. Ở lô sau mổ 60 ngày có 1 thỏ còn tân mạch qua rìa vào chu biên nhưng không vào trung tâm giác mạc (kết quả khá), tất cả các thỏ còn lại và ở các lô khác ñều có kết quả tốt, giác mạc trong, tấm biểu mô áp tốt, nhẵn bóng và không có tân mạch. Ở mức ñộ vi thể, 7 ngày sau ghép, tấm biểu mô áp sát nhu mô nhưng chưa dán chặt nên khi làm tiêu bản dễ bị bong, lớp nhu mô trương phù, các lá collagen tách xa nhau. Từ giai ñoạn 15 ngày sau ghép, tấm biểu mô áp và dán chặt vào lớp nhu mô, hiện tượng trương phù giảm rõ rệt và hết hẳn sau ghép 30 ngày. Lớp tế bào t rên cùng vẫn còn nhân và không có hiện tượng sừng hóa. Hình 1. Hình ảnh ñại thể và vi thể của giác mạc thỏ thực nghiệm sau mổ TCNCYH 93 (1) - 2015 67 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2015 Trên bệnh nhân ðặc ñiểm bệnh nhân: 20 phẫu thuật ở 17 mắt của 12 bệnh nhân, trong ñó: + 6 phẫu thuật trên 3 bệnh nhân loạn dưỡng giác mạc di truyền dạng giọt gelatin: ñều ñược mổ 2 mắt + 14 phẫu thuật trên 9 bệnh nhân di chứng bỏng: 1 bệnh nhân phẫu thuật 2 mắt, 2 bệnh nhân phẫu thuật 2 lần trên cùng 1 mắt, 1 bệnh nhân phẫu thuật cả 2 mắt nhưng có 1 mắt phẫu thuật 2 lần, 5 bệnh nhân phẫu thuật 1 mắt, 1 lần. Thời gian theo dõi trung bình 18,25 tháng (ngắn nhất 10 tháng, xa nhất 54 tháng). Không có biến chứng xảy ra t rong quá trình sinh thiết niêm mạc miệng. Kết quả phẫu thuật Có 14/20 ca (70%) thành công, trong ñó 10/20 ca (50%) có cải thiện rõ rệt về tình trạng bề mặt nhãn cầu. Trong 6 ca thất bại, 1 ca thủng giác mạc và 1 ca loét giác mạc dọa thủng do bỏng (2 ca này ñều ñục thể thủy tinh hoàn toàn nên phải phối hợp thay thủy tinh thể với ghép giác mạc xuyên và ghép tấm biểu mô niêm mạc miệng nuôi cấy). 4 ca tấm biểu mô bị dính vào ñáy giếng nuôi cấy và rách trong quá trình phẫu thuật, sau khi ñiều trị dinh dưỡng giác mạc tích cực, mặc dù ñã biểu mô hóa hoàn toàn nhưng tân mạch xâm nhập vào trung tâm giác mạc ở dưới biểu mô. Ngay sau phẫu thuật, tân mạch xuất hiện ở tất cả các ca, tuy nhiên ở những ca thành công thì tân mạch chỉ dừng ở lớp nông quanh rìa và chu biên giác mạc rồi thoái triển, rút dần sau mổ 3 - 6 tháng. Xét theo nguyên nhân gây bệnh: 6 ca bệnh lý loạn dưỡng giác mạc dạng giọt gelatin sau mổ cho kết quả tốt 100%, trong khi 14 ca di chứng bỏng có 4/14 ca (28,5%) cho kết quả tốt, 4/14 ca (28,5%) cho kết quả khá và 6 ca (42,8%) cho kết quả xấu. Như vậy nhóm loạn dưỡng gelatin cho tỷ lệ thành công cao hơn. Về mức ñộ cải thiện thị lực: trong 14 ca thành công thì 13 ca có sự cải thiện thị lực nhìn xa, 1 ca do sẹo ñục nhu mô giác mạc nhiều nên cần chờ ñể ghép giác mạc thì 2. ðặc biệt có 9 bệnh nhân có cải thiện rõ rệt thị lực nhìn gần (10 - 30 cm). Có 3 bệnh nhân loạn dưỡng giác mạc và 1 bệnh nhân bỏng có thể ñọc sách và soạn tin nhắn ở cỡ chữ bình thường. Hình 2. Hình ảnh trước và sau ghép tấm biểu mô niêm mạc miệng nuôi cấy 68 TCNCYH 93 (1) - 2015 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC IV. BÀN LUẬN Về kết quả thu ñược trên thực nghiệm, trước ñây, Nakamura (2003) và Hayashida (2005) ñã tiến hành ghép tự thân tấm biểu mô niêm mạc miệng nuôi cấy cho thỏ bị tổn hại tế bào gốc, kết quả nuôi cấy tạo ñược tấm tế bào có hình dạng, cấu trúc siêu vi giống tế bào biểu mô giác mạc. Sau khi ghép, tấm biểu mô gắn chặt với mô nền của giác mạc, dai, trong suốt, hạn chế ñược tân mạch xâm nhập giác mạc [8; 9]. Trong nghiên cứu này, các kết quả thu ñược trên thỏ thực nghiệm cũng cho thấy tấm biểu mô nuôi cấy có thể bám dính và tồn tại tốt trên mắt thỏ sau ghép, có khả năng thay thế biểu mô giác mạc thỏ trong tổn thương suy giảm tế bào gốc, giúp duy trì sự ổn ñịnh, trong suốt của bề mặt nhãn cầu. Kết quả phẫu thuật ở thỏ thực nghiệm tốt hơn so với phẫu thuật trên bệnh nhân, có thể do quá trình gây bỏng thực nghiệm t rên thỏ là chủ ñộng ở lớp giác mạc nông nên không gây ra tổn thương sâu trong tổ chức, do ñó không có phản ứng viêm dai dẳng sau phẫu thuật. ðồng thời mắt thỏ có nếp mí phụ có tác dụng che phủ và nuôi dưỡng tốt cho bề mặt nhãn cầu, kết mạc mi và kết mạc ở lớp mí phụ còn nguyên vẹn, không bị tổn thương nên chế tiết nước mắt không bị ảnh hưởng sau bỏng, ñây là những yếu tố thuận lợi cho phẫu thuật ở thỏ. Kết quả nghiên cứu thành công trên thỏ thực nghiệm là minh chứng khoa học cho phẫu thuật ghép tấm biểu mô niêm mạc miệng nuôi cấy, tạo cơ sở cho việc ứng dụng phương pháp này trên bệnh nhân. Những kết quả bước ñầu trên bệnh nhân cho thấy tấm biểu mô niêm mạc miệng nuôi cấy có tác dụng kiến tạo bề mặt nhãn cầu ổn ñịnh cho các bệnh nhân có suy giảm nặng tế bào gốc của cả 2 mắt, làm giảm quá trình viêm và hạn chế tân mạch, cải thiện một phần thị lực cho người bệnh, tạo ñiều kiện thuận lợi cho ghép giác mạc quang học (nếu cần) Các mắt thành công sau mổ còn tân mạch nông ở quanh rìa và chu biên giác mạc, tuy nhiên tân mạch ñều rút dần sau mổ 3 - 6 tháng. Kết quả này tương tự nghiên cứu của Inatomi (2006), Nakamura (2011) và Satake (2011). Sự xuất hiện tân mạch giác mạc sau mổ ở chu vi có thể do sự hiện diện của yếu tố phát triển nội mạch và yếu tố phát triển nguyên bào sợi ở tấm biểu mô nuôi cấy, ñây là nhược ñiểm của biểu mô niêm mạc miệng nuôi cấy so với biểu mô tế bào gốc vùng rìa [10; 12]. Trong 2 nhóm nguyên nhân gây bệnh, nhóm loạn dưỡng giác mạc dạng giọt gelatin có kết quả sau mổ tốt hơn nhóm bệnh nhân bỏng. Chúng tôi cho rằng tổn thương loạn dưỡng giác mạc chỉ nằm ở lớp nông của bề mặt nhãn cầu, nên sau khi ñược thay thế bởi tấm biểu mô, tình trạng bệnh ñược cải thiện hoàn toàn. Còn với bệnh lý bỏng, tổn thương có thể nằm ở các lớp sâu hơn, ñôi khi vẫn còn tác nhân gây bỏng trong tổ chức gây phản ứng viêm dai dẳng làm ảnh hưởng xấu tới kết quả phẫu thuật. ðồng thời tổn hại nặng của tế bào ñài ở kết mạc do bỏng làm giảm chế tiết nước mắt, giảm khả năng dinh dưỡng và bảo vệ của bề mặt nhãn cầu, là yếu tố ảnh hưởng ñến kết quả ñiều trị. Qua các trường hợp thất bại sau ghép, chúng tôi nhận thấy các tổn thương biểu mô dai dẳng trước ñó cũng như các tổn hại sâu trong nội nhãn là một trong các yếu tố tiên lượng xấu ñến kết quả ñiều trị. Kết quả này tương tự với kết quả của Satake (2011) khi tiến hành trên số lượng bệnh nhân lớn hơn, thời gian theo dõi dài hơn [12]. TCNCYH 93 (1) - 2015 69 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2015 Chất lượng tấm biểu mô nuôi cấy (mức ñộ dai, tách dễ dàng khỏi ñáy giếng nuôi cấy) rất ảnh hưởng ñến kết quả phẫu thuật. Tấm biểu mô dính chặt vào ñáy giếng dễ rách trong khi tách ở thì phẫu thuật, gây bong hoặc tróc tế bào, tấm biểu mô sẽ không áp chặt vào nền giác mạc nên dễ bị tổ chức xơ mạch xâm lấn sau phẫu thuật. Khi phẫu thuật lần 2 cho bệnh nhân, chúng tôi ñã làm mô bệnh học mảnh gọt giác mạc và thấy xuất hiện tổ chức xơ mạch ở giữa tấm biểu mô và nhu mô giác mạc. ðặc biệt, các mắt thành công sau phẫu thuật có sự cải thiện rõ rệt về thị lực nhìn gần, ñiều này ñem lại ý nghĩa quan trọng bởi ña số ñối tượng bệnh nhân còn trẻ và có nhu cầu học tập, lao ñộng cao. Quá trình ñiều trị ñưa bệnh nhân từ tình trạng gần như mù lòa do thị lực quá thấp ở cả 2 mắt tới 1 mức thị lực nhất ñịnh cho dù rất ít ỏi cũng có thể làm tăng ñáng kể chất lượng cuộc sống và tinh thần của người bệnh. Phương pháp ghép tự thân giúp tránh ñược nguy cơ gây ra từ việc sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch kéo dài, ñặc biệt trên các bệnh nhân trẻ tuổi, nhờ ñó làm tăng chất lượng cuộc sống của người bệnh. V. KẾT LUẬN Ghép tấm biểu mô niêm mạc miệng nuôi cấy ñược thực hiện thành công t rên thỏ thực nghiệm. Trong việc áp dụng trên bệnh nhân, ñây là phương pháp hiệu quả và an toàn trong ñiều trị rối loạn bề mặt nhãn cầu nặng ở 2 mắt, có thể lặp lại nhiều lần mà không ảnh hưởng ñến tình trạng mắt và toàn thân của người bệnh, là giải pháp mới cho bệnh lý khó khăn này. Tuy nhiên cần có thời gian theo dõi dài hơn và nghiên cứu với số lượng lớn hơn ñể ñánh giá hiệu quả của phương pháp. Lời cảm ơn Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn các bác sỹ, ñiều dưỡng khoa Kết giác mạc và khoa Phẫu thuật – Hồi sức của Bệnh viện Mắt Trung Ương, các bác sỹ, kỹ thuật viên Bộ môn Mô phôi của Trường ðại học Y Hà Nội ñã giúp ñỡ và cộng tác trong quá trình nghiên cứu TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Dua H. S, Saini J. S, Azuara-Blanco A et al (2000). Limbal stem cell deficiency: concept, aetiology, clinical presentation, diagnosis and management. Indian J Ophthalmol, 48(2), 83 - 92. 2. Chen H. C, Chen H. L, Lai J. Y et al (2009). Persistence of transplanted oral mucosal epithelial cells in human cornea. Invest Ophthalmol Vis Sci, 50(10): p. 4660-8. 3. Inatomi T, Nakamura T, Koizumi N et al (2005). Current concepts and challenges in ocular surface reconstruction using cultivated mucosal epithelial transplantation. Cornea, 24(8); S32 - S38. 4. Ma D. H, Kuo M. T, Tsai Y. J et al. (2009). Transplantation of cultivated oral mu- cosal epithelial cells for severe corneal burn. Eye (Lond), 23(6); 1442 - 1450. 5. Madhira S. L, Vemuganti G, Bhaduri A et al (2008). Culture and characterization of oral mucosal epithelial cells on human amniotic membrane for ocular surface reconstruction. Mol Vis, 14, 189 - 196. 6. Nakamura T, Inatomi T, Sotozono C et al (2004). Transplantation of cultivated autologous oral mucosal epithelial cells in patients with severe ocular surface disorders. Br J Ophthalmol, 88(10), 1280 - 1284. 7. Shimazaki J, Higa K, Kato N et al (2009). Barrier function of cultivated limbal and oral mucosal epithelial cell sheets. Invest Oph- thalmol Vis Sci, 50(12), 5672 - 5680. 8. Hayashida Y, Nishida K, Yamato M et al (2005). Ocular surface reconstruction using 70 TCNCYH 93 (1) - 2015 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC autologous rabbit oral mucosal epithelial sheets fabricated ex vivo on a temperature- responsive culture surface. Invest Ophthalmol Vis Sci, 46(5), 1632 - 1639. 9. Nakamura T, Endo K, Cooper L. J et al (2003). The successful culture and autologous transplantation of rabbit oral mucosal epithelial cells on amniotic membrane. Invest Ophthalmol Vis Sci, 44(1), 106 - 116. 10. Inatomi T, Nakamura T, Koizumi N et al (2006). Midterm results on ocular surface reconstruction using cultivated autologous oral mucosal epithelial transplantation. Am J Ophthalmol, 141(2), 267 - 275. 11. Nakamura T, Takeda K, Inatomi T et al (2011). Long-term results of autologous cultivated oral mucosal epithelial t ransplanta- tion in the scar phase of severe ocular surface disorders. Br J Ophthalmol. 95(7), 942 - 946. 12. Satake Y, Higa K, Tsubota K et al (2011). Long-term outcome of cultivated oral mucosal epithelial sheet transplantation in treatment of total limbal stem cell deficiency. Summary TREATMENT OF SEVERE BILATERAL OCULAR SURFACE DISORDERS BY CULTURED ORAL MUCOSAL EPITHELIAL TRANSPLANTATION Bilateral severe ocular surface disorder by total limbal stem cells deficiency is a challenge to the ophthalmologist. Reconstructive ocular surface by autologous cultured oral mucosal epithelial transplantation is a new solution that has been successfully applied in developed countries. This is an experimental and clinical study, prospective study to evaluate the results of cultured oral mucosal epithelial transplantation in rabbit and applied in treating patients with severe bilateral ocular surface disorders. In the experiment phase, 15 rabbits eye were transplanted with autolo- gous oral mucosal epithelial; 14 rabbit eyes achieved good results, 1 eye with moderate results. In the clinical phase, culture oral mucosal epithelial transplantation was performed in 20 eyes of bilateral ocular surface disorder. 14 cases were successful; 6 cases failed, where 2 cases have deep damage into the anterior chamber due to the destruction of the graft by chemical substance and 4 cases have recurrent total corneal neovascularisation. Cultured oral mucosal epithelial transplantation is a relatively safe and effective procedure to treat patients with severe bilateral ocular surface disorders. Key words: ocular surface disorder, cultured oral mucosal epithelial transplantation

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf142_358_1_sm_439.pdf
Tài liệu liên quan