Phần lớn người được ghép là những người đang ở tuổi lao động, làm các công việc
lao động chân tay, được ghép giác mạc để điều trị loét giác mạc nhiễm trùng.
Giảm tỷ lệ người bị viêm loét giác mạc nhiễm trùng thì sẽ làm giảm đáng kể số
người cần phải ghép giác mạc, cũng như có thể sử dụng nguồn giác mạc hiếm hoi để
ghép cải thiện thị lực cho các nhóm bệnh giác mạc khác.
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm bệnh nhân được ghép giác mạc tại bệnh viện mắt trung ương trong giai đoạn 2002 - 2011, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
24 TCNCYH 85 (5) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Địa chỉ liên hệ: Phạm Ngọc Đông, Khoa Kết - Giác mạc,
bệnh viện Mắt Trung ương
Email: dong69nam@yahoo.com
Ngày nhận: 7/8/2013
Ngày được chấp thuận: 30/10/2013
ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN ĐƯỢC GHÉP GIÁC MẠC
TẠI BỆNH VIỆN MẮT TRUNG ƯƠNG TRONG GIAI ĐOẠN 2002 - 2011
Phạm Ngọc Đông, Trương Như Hân, Lê Xuân Cung
Bệnh viện Mắt Trung ương
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá một số đặc điểm bệnh nhân và bệnh lý giác mạc đã được
ghép giác mạc tại bệnh viện Mắt Trung ương trong giai đoạn 2002 - 2011. Nghiên cứu trên toàn bộ hồ sơ
bệnh nhân đã ghép giác mạc trong giai đoạn 2002 - 2011. Các số liệu thu thập bao gồm tuổi, giới, nghề
nghiệp, nơi cư trú, bệnh lý giác mạc được chỉ định ghép. Trong 10 năm, có 1016 bệnh nhân (1049 mắt) đã
ghép giác mạc, trong đó có 58,8% bệnh nhân nam, đến từ 44 tỉnh thành trong cả nước. Tuổi bệnh nhân
trung bình là 45,3. Có 63,8% người được ghép làm công việc lao động chân tay. Bệnh lý giác mạc được
ghép theo thứ thự giảm dần là viêm loét giác mạc (53,4%), sẹo đục giác mạc (18,3%), loạn dưỡng giác mạc
bẩm sinh di truyền (9,4%), ghép lại (6,5%), bệnh giác mạc bọng sau mổ thủy tinh thể (4,1%), bỏng giác mạc
(4%). Các chỉ định ít gặp hơn là bệnh giác mạc hình chóp (1,4%), thoái hóa giác mạc (0,6%), mờ đục giác
mạc bẩm sinh (0,5%) và một vài bệnh giác mạc khác. Trong 10 năm, bệnh viện Mắt Trung ương đã ghép
giác mạc cho bệnh nhân ở 44 tỉnh thành trong cả nước. Bệnh lý giác mạc được ghép thường gặp nhất là
viêm loét giác mạc. Các bệnh lý giác mạc không nhiễm trùng được ghép có xu hướng tăng dần.
Từ khóa: ghép giác mạc, đặc điểm bệnh nhân
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ghép giác mạc là một trong những phẫu
thuật ghép mô được thực hiện sớm nhất. Ngay
từ những năm cuối thế kỷ XIX, những ca ghép
đầu tiên đã được thực hiện ở châu Âu. Từ đó
đến nay, phẫu thuật ghép giác mạc đã có những
bước tiến đáng kể, cả về chất lượng và số
lượng. Phẫu thuật đã đem lại ánh sáng cho rất
nhiều người bị mù do bệnh giác mạc. Hàng năm,
tại Mỹ có khoảng 40.000 ca ghép giác mạc [1].
Ở Việt Nam, phẫu thuật ghép giác mạc đã
được thực hiện từ năm 1950. Sau đó, do hoàn
cảnh chiến tranh, phẫu thuật chỉ được thực
hiện rải rác với số lượng hạn chế. Từ năm
2000, phẫu thuật ghép giác mạc đã được thực
hiện nhiều hơn và trở thành phẫu thuật
thường quy trong điều trị bệnh lý giác mạc. Số
lượng phẫu thuật gây mê ngày càng tăng, chỉ
định ghép giác mạc càng được mở rộng hơn.
Tuy nhiên, ghép giác mạc cũng vẫn chỉ được
thực hiện ở một số trung tâm Nhãn khoa lớn.
Bệnh viện Mắt Trung ương là một trong
những cơ sở có số lượng ghép giác mạc
nhiều nhất trong cả nước. Chúng tôi thực hiện
nghiên cứu này nhằm đánh giá đặc điểm bệnh
nhân đã ghép giác mạc tại bệnh viện Mắt
Trung ương trong 10 năm 2002 - 2011, trên cơ
sở đó, đề xuất một số biện pháp nhằm nâng
cao hiệu quả điều trị bằng ghép giác mạc.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện tại
bệnh viện Mắt Trung ương trong năm 2012.
Tất cả các hồ sơ ghép giác mạc từ ngày 1
tháng 1 năm 2002 đến hết ngày 31 tháng 12
năm 2011 được tìm lại để thống kê số liệu.
Các thông tin thu thập bao gồm một số đặc
điểm xã hội học của người được ghép, bao
gồm tuổi, giới, nghề nghiệp, nơi cư trú, bệnh
lý giác mạc được chỉ định ghép.
TCNCYH 85 (5) - 2013 25
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2013
Xử lý số liệu: được xử lý bằng phần mềm
SPSS 16.0.
Đạo đức nghiên cứu
đề tài nghiên cứu đã được Hội đồng đạo
đức nghiên cứu Y học bệnh viện Mắt Trung
ương cho phép thực hiện.
III. KẾT QUẢ
Trong giai đoạn 2002 - 2011, tại bệnh viện
Mắt Trung ương đã có 1016 bệnh nhân được
ghép giác mạc (1049 mắt), trong đó số bệnh
nhân nam là 597 (58,8%), số bệnh nhân nữ là
419 (41,2%). Tuổi trung bình của bệnh nhân
được ghép là 45,3 (dao động từ 1 đến 89). Số
bệnh nhân có tuổi từ 19 đến 60 tuổi là 741 bệnh
nhân chiếm 72,9%.
Người được ghép đến từ 44 trong tổng số 63
tỉnh thành trong cả nước (cả 3 miền Bắc, Trung,
Nam). Những tỉnh đông dân hơn thì số lượng ca
ghép giác mạc nhiều hơn như Hà Nội có 231
bệnh nhân, Thanh Hóa có 107 bệnh nhân, Nghệ
An 73 bệnh nhân. Những tỉnh ở miền Nam như
thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bình
Phước Tây Nguyên như Kon Tum, Đắc
Lắc; miền núi như Hà Giang, Cao Bằng
đều có bệnh nhân được ghép giác mạc .
Nghề nghiệp của bệnh nhân được ghép:
Trong số 1016 bệnh nhân được ghép, có 103
(10,1%) là học sinh, sinh viên; 648 ( 63,8%)
người lao động chân tay; lao động trí óc là 68
(6,7%); già và hưu trí: 197 (19,4%).
Số mắt được ghép giác mạc trong 10 năm
được thể hiện trong biểu đồ 1.
Biểu đồ 1. Số lượng ca ghép giác mạc theo năm
Số lượng mắt được ghép giác mạc tăng dần theo thời gian và đạt cao nhất vào năm 2008 với
tất cả là 170 mắt được ghép giác mạc.
Bệnh lý của bệnh nhân đã ghép giác mạc
Loét giác mạc và sẹo đục giác mạc là bệnh lý được chỉ định ghép giác mạc do nhiều nhất, số
lượng ghép của 2 bệnh lý này tăng dần theo thời gian.
0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Mắt ghép
Thời gian
26 TCNCYH 85 (5) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Biểu đồ 2. Số lượng ca ghép theo năm của 5 nhóm chỉ định thường gặp
* GM: giác mạc; TTT: thủy tinh thể.
Bệnh lý giác mạc được ghép theo thứ tự giảm dần là viêm loét giác mạc (53,4%), sẹo đục giác
mạc (18,3% với 76,9% là sẹo do loét giác mạc), loạn dưỡng giác mạc bẩm sinh di truyền (9,4%),
ghép lại (6,5%), bệnh giác mạc bọng sau mổ thủy tinh thể (4,1%), bỏng giác mạc (4%). Các chỉ
định ít gặp hơn là bệnh giác mạc hình chóp (1,4%), thoái hóa giác mạc (0,6%), mờ đục giác mạc
bẩm sinh (0,5%) và một vài chỉ định ít gặp khác.
IV. BÀN LUẬN
Bệnh nhân được ghép giác mạc trẻ nhất là
1 tuổi. Người cao tuổi nhất được ghép ở tuổi
89. Nhóm bệnh nhân tuổi từ 19 đến 60 hay
gặp nhất, có 741 bệnh nhân chiếm 72,9%. Tại
bệnh viện Mắt Trung ương, phẫu thuật ghép
giác mạc đã được thực hiện ở tất cả các lứa
tuổi, nhằm đem lại thị lực cho bệnh nhân Tuy
nhiên, ghép giác mạc trên trẻ em là một thách
thức lớn vì rất khó khám, chăm sóc cho trẻ
trong và sau ghép, nguy cơ biến chứng cũng
cao hơn nhiều ở người lớn [2].
Độ tuổi trung bình trong số bệnh nhân
được ghép ở nhóm nghiên cứu là 45,3 tuổi.
Nhóm tuổi hay gặp nhất là 46 tuổi. Ở các
nước như Trung Quốc, Malaysia, Pakistan,
tuổi trung bình được ghép trong khoảng 40 -
50 tuổi [3; 4]. Tại Mỹ, nghiên cứu của Faris và
cộng sự trong 5 năm (2001 - 2005) có 1162 ca
ghép giác mạc, bệnh nhân có độ tuổi trung
bình là 62,5 [5], cao hơn so với các nước
khác. Ở nước phát triển và có số lượng bệnh
nhân được ghép giác mạc nhiều như Mỹ, tuổi
trung bình của người được ghép cao hơn ở
các nước đang phát triển, điều đó chứng tỏ
bệnh lý giác mạc cần ghép ở các nước này
gặp ở nhóm tuổi trẻ hơn. Đây là một gánh
nặng cho xã hội cũng như gia đình người
bệnh, đòi hỏi phải có giải pháp để làm giảm số
bệnh lý cần phải ghép, cũng như tăng khả
năng ghép giác mạc để phục hồi thị lực cho
người bệnh.
Nghề nghiệp các bệnh nhân được ghép
giác mạc chủ yếu là lao động chân tay, chiếm
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Loét GM
Sẹo GM
Loạn dưỡng
GM
Ghép lại
Bệnh GM bọng
sau mổ TTT
Năm
TCNCYH 85 (5) - 2013 27
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2013
63,8%. Đây là những đối tượng có điều kiện
kinh tế xã hội thấp. AL - Towerki cũng thấy
rằng bệnh nhân ghép giác mạc thường ở
nhóm có điều kiện kinh tế thấp hơn. Đây là
một trong những hạn chế đối với kết quả ghép
giác mạc vì nhóm bệnh nhân này thường ít
tuân thủ chế độ điều trị và theo dõi sau ghép
hơn so với các nhóm bệnh nhân khác [6].
Bệnh nhân ghép giác mạc trong thời gian
qua đến từ 44 tỉnh thành trong cả nước. Mặc dù
đóng ở địa bàn Hà Nội, số lượng ghép giác mạc
hàng năm còn ít, nhưng với tư cách là bệnh viện
chuyên khoa đầu ngành, bệnh viện Mắt Trung
ương đã ghép giác mạc cho bệnh nhân của 44
trên tổng số 63 tỉnh thành trong cả nước. Điều
đó thể hiện sự bình đẳng trong sự tiếp cận với
phẫu thuật ghép giác mạc của bệnh nhân ở
nước ta.
Ghép giác mạc cho các bệnh nhân ở các
tỉnh xa Hà Nội cũng là một trở ngại, làm hạn
chế kết quả ghép giác mạc. Cũng như sau
ghép các mô tạng khác, bệnh nhân ghép giác
mạc phải dùng thuốc chống thải ghép; cần
được theo dõi để phát hiện các biến chứng.
Với các bệnh nhân ở xa Hà Nội, việc theo dõi
sau mổ rất khó khăn. Khi có thải ghép giác
mạc, những bệnh nhân ở xa Hà Nội có thể
mất vài ngày mới đến khám và điều trị được.
Điều này làm mất đi “thời gian vàng” để điều
trị thải ghép giác mạc. Vì vậy, để nâng cao kết
quả phẫu thuật, cần phải xây dựng mạng lưới
và đào tạo các bác sỹ nhãn khoa để họ có thể
theo dõi và điều trị bệnh nhân sau ghép giác
mạc trên phạm vi cả nước. Nhờ mạng lưới
này, bệnh nhân sau ghép giác mạc sẽ được
chăm sóc và điều trị tốt hơn.
Viêm loét giác mạc và sẹo đục giác mạc là
2 chỉ định chính của ghép giác mạc tại bệnh
viện Mắt Trung ương trong 10 năm qua. Kết
quả này tương tự với một số nghiên cứu của
các nước trong khu vực và các nước đang
phát triển khác. Xie L và cộng sự, báo cáo chỉ
định chính của ghép giác mạc xuyên trong
nghiên cứu tại Trung Quốc là viêm loét giác
mạc (49%), tiếp theo là sẹo đục giác mạc
(16%), bệnh giác mạc hình chóp (13%), bệnh
giác mạc bọng (7%), ghép lại (5%), và loạn
dưỡng giác mạc di truyền (4%). Tác giả nhận
thấy rằng ghép giác mạc do viêm loét giác
mạc có xu hướng giảm dần và có sự gia tăng
của các chỉ định bệnh giác mạc hình chóp và
bệnh giác mạc bọng [3].
Tại Israrel, Yahalom nghiên cứu các
trường hợp ghép giác mạc trong 40 năm
(1961 - 2000) với 1681 ca ghép. Trong giai
đoạn 1961 - 1970, nhiễm trùng giác mạc là chỉ
định ghép chính, chiếm 37,0%. Với thời gian,
chỉ định này ngày càng giảm, được thay thế
bằng các chỉ định khác như bệnh giác mạc
chóp, bệnh giác mạc bọng, ghép lại. Đến
những năm 1990 - 2000, nhiễm trùng giác
mạc chỉ còn chiếm 6,5% trong tổng số các chỉ
định ghép giác mạc [7]. Tại Ả rập Xê út, một
nghiên cứu về tình hình ghép trong 20 năm từ
1983 - 2002 cho thấy rằng giai đoạn đầu 1983
- 1987 chỉ định ghép giác mạc chính là sẹo
giác mạc (52%), bệnh giác mạc bọng sau mổ
thủy tinh thể (13,5%), bệnh giác mạc chóp chỉ
chiếm 7,6%. Nhưng giai đoạn từ 1998 - 2002,
bệnh giác mạc hình chóp lại là chỉ định chính
của ghép giác mạc (40,2%). Điều này được
giải thích là do sự cải thiện về các điều kiện
kinh tế xã hội và sự gia tăng dân số [6]. Chỉ
định ghép giác mạc xuyên tại Canada từ 1986
- 1995 là bệnh giác mạc bọng (28,5%), ghép
lại (22,4%), bệnh giác mạc hình chóp (10%),
loạn dưỡng Fuchs (4%), viêm loét giác mạc
(3,7%) và sẹo đục giác mạc (2,8%) [8]. Nghiên
cứu 1200 ca ghép giác mạc từ 2001- 2010 ở
Đức, Wang J và cộng sự nhận thấy: bệnh giác
mạc hình chóp là chỉ định hàng đầu (25,5%),
tiếp đến là loạn dưỡng giác mạc (21,2%); các
28 TCNCYH 85 (5) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
chỉ định do sẹo giác mạc và loét giác mạc gặp
ít hơn, với tỷ lệ tương ứng là 14,4% và 13%.
Các tác giả nhận thấy có sự gia tăng có ý
nghĩa thống kê của bệnh giác mạc hình chóp,
loạn dưỡng Fuchs và sự giảm có ý nghĩa
thống kê của chỉ định ghép giác mạc do sẹo
đục giác mạc [9].
Sẹo đục giác mạc là chỉ định ghép nhiều
thứ hai với 192 mắt, chiếm 18,3%. Nguyên
nhân gây sẹo đục giác mạc chủ yếu là do
viêm loét giác mạc (74%), sẹo đục giác mạc
do chấn thương (13,5%) và một số nguyên
nhân khác (12,5%). Tại Malaysia, Reddy và
CS nghiên cứu và đưa ra kết luận sẹo đục
giác mạc do viêm loét giác mạc và chấn
thương là chỉ định ghép nhiều thứ 2 (chiếm
20%) [4]. Sẹo đục giác mạc được báo cáo là
chỉ định ghép nhiều nhất trong các nghiên cứu
ở một số nước như ở Ả rập Xê út (52%) [6];
Ấn Độ (28,1%) [10].
Với nhóm nghiên cứu, 76,9% số bệnh
nhân có sẹo giác mạc được ghép là sẹo sau
loét giác mạc. Do vậy, tổng số các trường hợp
được ghép có liên quan đến viêm loét giác
mạc sẽ rất cao, với 712 mắt chiếm 67,9% số
mắt được ghép.
Như vậy, cơ cấu bệnh lý giác mạc được
chỉ định ghép ở các nước ở giai đoạn đang
phát triển chủ yếu là bệnh nhiễm trùng. Khi
điều kiện kinh tế xã hội phát triển hơn, chỉ định
ghép chính là các bệnh không nhiễm trùng và
ghép lại. Chỉ định ghép giác mạc do viêm loét
giác mạc và sẹo đục giác mạc là những chỉ
định hàng đầu ở nước ta cũng như một số
nước đang phát triển đã gián tiếp phản ánh
mô hình bệnh tật về giác mạc chủ yếu là bệnh
nhiễm trùng. Do vậy, việc dự phòng chấn
thương và viêm loét giác mạc nhiễm trùng,
phát hiện sớm và điều trị kịp thời viêm loét
giác mạc sẽ hạn chế được số mắt phải ghép
giác mạc , những mắt mà cho dù được ghép
tốt thì tiên lượng phục hồi thị lực cũng không
khả quan.
Loạn dưỡng giác mạc bẩm sinh di truyền
là chỉ định ghép nhiều thứ 3 trong tổng số các
chỉ định ghép (99 mắt chiếm 9,4%). Trong số
bệnh lý loạn dưỡng giác mạc, loạn dưỡng
đốm, loạn dưỡng lưới là 2 hình thái hay gặp
nhất có tỷ lệ lần lượt là 57,6% và 20,2%.
Đục mảnh ghép có 68 mắt, chiếm 6,5% là
chỉ định nhiều thứ tư của ghép giác mạc . Tỷ
lệ chỉ định ghép lại tương đương với một số
nghiên cứu ở New Zealand (8,7%) [11]; Ma-
laysia (9,6%) [4]. Cùng với thời gian, khi số
phẫu thuật ghép hàng năm tăng lên, sẽ xuất
hiện thêm nhiều trường hợp thất bại ghép, số
trường hợp ghép lại sẽ càng tăng như ở các
nước phát triển.
Ghép giác mạc do bệnh giác mạc bọng
sau mổ thể thủy tinh có 43 mắt, chiếm 4,1%.
Ở các nước khác, tỷ lệ ghép này cao hơn
nhiều: Thái Lan là (28,9%) [12]; Malaysia
(28,8%) [4]. Với số lượng phẫu thuật mổ đục
thủy tinh thể ở nước ta ngày càng tăng, số
bệnh nhân bị bệnh giác mạc bọng sau mổ
cũng sẽ tăng cao hơn.
V. KẾT LUẬN
Phần lớn người được ghép là những
người đang ở tuổi lao động, làm các công việc
lao động chân tay, được ghép giác mạc để
điều trị loét giác mạc nhiễm trùng.
Giảm tỷ lệ người bị viêm loét giác mạc
nhiễm trùng thì sẽ làm giảm đáng kể số
người cần phải ghép giác mạc, cũng như có
thể sử dụng nguồn giác mạc hiếm hoi để
ghép cải thiện thị lực cho các nhóm bệnh
giác mạc khác.
Ghép giác mạc để điều trị các bệnh không
nhiễm trùng như sẹo đục giác mạc, loạn
dưỡng giác mạc bẩm sinh di truyền, bệnh giác
mạc bọng, ghép lại có xu hướng tăng dần.
TCNCYH 85 (5) - 2013 29
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2013
Lời cám ơn
Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn
tổ lưu trữ hồ sơ bệnh án, bệnh viện Mắt Trung
ương đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi
thực hiện nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Eye bank asociation of America
(2010). 2009 eye banking statistical report.
2. Zaidman GW (2002). Pediatric Kerato-
plasty, chapter 23 in Corneal Transplantation,
chapter 23 in Corneal Transplantation. Jaypee
Brother Medical publishers Ltd, New Dehi,
India, 201 - 205.
3. Xie L, Song Z, Zhao J, Shi W, Wang F
(2007). Indications for penetrating keratoplasty in
north china. Cornea, 26, 1070 - 1073.
4. Reddy S C, Tajunisah I (2007). Indica-
tions for penetrating keratoplasty in west Ma-
laysia, International journal of opthamology, 7
(6), 24 - 28.
5. Faris R G, Federico C, Ayres B D et al
(2008). Indications for Penetrating Kerato-
plasty and Associated Procedures, 2001 -
2005. Eye & Contact Lens, 34(4), 211 - 214.
6. Al-Towerki AE, Gonnah ES, Rajhi AA,
Wagoner MD (2004). Changing Indications for
Corneal Transplantation at King Khaled Eye
Specialist Hospital (1983 - 2002). Corneal, 23,
584 - 588.
7. Yahalom C, Mechoulam H, Solomon A
et al (2005). Forty Years of Changing Indica-
tions in Penetrating keratoplasty in Israel. Cor-
nea, 24, 256 - 258.
8. Liu E, Slomovic AR (1997). Indications
for penetrating keratoplasty in Canada, 1986 –
1995. Cornea, 16(4), 414 - 419.
9. Wang J, Shirra F, Seitz B, Szentmary
N (2012). Changing indication for penetrating
keratoplasty in Homburg/Saar from 2001
to 2010-histopathology of 1,200 corneal but-
tons. Graefes Arch Clin Exp Opthalmol, 251
(3), 797 - 802.
10. Dandona L, Ragu K, Janarthanan M,
et al (1997). Indications for penetrating
keratoplasty in India. BR. J. Opthalmol, 81(9),
726 - 731.
11. Edwards M, Clover GM, Brookes N
(2002). Indications for Corneal Transplantation
in New Zeland: 1991 - 1999. Corneal, 21(2),
152 - 155.
12. Chaidaroom W, Ausayakhun S,
Ngamtiphakron S, Prasisilp J (2003). Clini-
cal indication for penetrating keraroplasty in
Maharaj Nakorn Chiang Mai Hospital, 1996 -
1999. J Med Asoc Thai, 86, 20611.
Summary
CHARACTERISTICS OF CORNEAL TRANSPLANTED PATIENTS
IN VIETNAM NATIONAL INSTITUTE OF OPHTHALMOLOGY OVER
PERIOD OF 10 YEARS (2002 - 2011)
Our study was to evaluate the characteristic of corneal transplanted patients treated at the
Vietnam National Institute of Ophthalmology (VNIO) for over a period of 10 years. Medical
records of corneal transplanted patients from 2002 to 2011 were reviewed. The following parame-
30 TCNCYH 85 (5) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
ters were collected and analyzed: age, gender, job, living place, the original corneal pathology for
which the graft was indicated. During the 10 years period, 1016 patients (1049 eyes) under went
corneal transplantation at the VNIO. These patients came from 44 provinces throughout Vietnam.
The means age was 45.3 year old; 63.8% of them were labor workers. Common corneal patholo-
gies consisted of infectious corneal ulcers (53.4%), corneal scar (18.3%), corneal dystrophy
(9.4%), failure graft (6.5%), pseudoaphakic bullous keratopathy (4.1%), and corneal burn (4%).
The less common pathologies were keratoconus (1.4%), corneal degeneration (0.6%), congenital
corneal opacity (0.5%) and some other diseases. During the 10 year period, VNIO have per-
formed corneal graft for patients from 44 provinces. The most common indication for corneal graft
is infectious corneal ulcer. The non-infectious grafted disease is slowly increasing.
Key word: Corneal transplantation
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 13_58_1_pb_4885.pdf