Công nghệ chuyển hóa than - Phần 8: Công nghệ khí hóa than
Với kỹ thuật làm lạnh trực tiếp, khí tạo thành cùng với xỉ đi xuống
phía dưới của lò khí hóa và vào vùng làm mát ( quenching – tôi).
Khí sau khi ra khỏi vùng quenching sẽ bão hòa hơi nước có nhiệt độ
khoảng 200-300oC. Nếu sử dụng khí cho sản xuất hóa học như sản
xuất hydro và NH3 thì điều kiện này là ly tưởng để thực hiện phản
ứng shift CO.
Xỉ sẽ trao đổi nhiệt và trở về trạng thái rắn và được tháo ra ngoài
thông qua cửa tháo hopper, nước tách ra ở đây sẽ được đưa trở lại
thiết bị tạo nhũ tương (bùn).
Với kỹ thuật làm mát bằng radiar sử dụng để sản xuất điện năng.
Khí sau khi ra khỏi thiết bị khí hóa sẽ vào thiết bị làm mát radiar và
giảm nhiệt độ của khí xuống 760oC. Khí sau khi làm kạnh tiếp tục
và thiết bị trao đổi nhiệt dạng ống và hạ xuống 425oC. Hai thiết bị
làm mát này đều tăng nhiệt độ của môi chất làm mát ( hơi nước có
áp suất cao). Áp suất có thể lên đến 115bar.
87 trang |
Chia sẻ: nguyenlam99 | Lượt xem: 974 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Công nghệ chuyển hóa than - Phần 8: Công nghệ khí hóa than, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN 8
CÔNG NGHỆ KHÍ HÓA THAN
Giảng viên : Văn Đình Sơn Thọ
Phone : 097.360.4372
thovds-petrochem@mail.hut.edu.vn
Địa chỉ load bài giảng :
https://sites.google.com/site/vandinhsontho
Khí hóa than đó là phản ứng oxy hóa không hoàn toàn phần
hữu cơ của than dưới tác dụng của oxy, hơi nước hoặc các tác
nhân oxy hóa khác.
Quá trình khí hóa than xảy ra ở nhiệt độ cao (800oC-1800oC)
để thu được khí H2 và CO.
Trong công nghiệp hỗn hợp khí này thường được đốt trong
các lò công nghiệp ( chủ yếu nhà máy nhiệt điện, xy măng,
ceramic).
Làm nguyên liệu đểđể sản xuất NH3 và CH3OH và nhiên liệu
tổng hợp. H2 đó là những hóa chất cơ bản để thiết lập nên
ngành hóa học hữu cơ.
Nguyên liệu để khí hóa
Than
Chất thải sinh hoạt
Biomass
Petrocoke
Các vùng trong thiết bị khí hóa
Vùng cháy
Vùng khử
Vùng nhiệt phân
Vùng sấy
Vùng cháy :
Là nơi xảy ra phản ứng cháy của than với oxy.
Phản ứng
Đây là pu oxy hóa tỏa nhiệt mạnh ( Q = 98500
Kcal/Kmol) và nguồn nhiệt này sẽ cung cấp nhiệt
lượng cho toàn bộ quá trình khí hóa.
Đối với tầng chuyển động thì nhiệt độ của vùng khí
hóa phải thấp hơn nhiệt độ chảy mềm của tro. Sản
phẩm của vùng cháy sẽ chuyển động lên vùng khử
và cấp nhiệt cho than ở vùng khử.
Quá trình truyền nhiệt chủ yếu là đối lưu ( không có
dẫn nhiệt vì hệ số dẫn nhiệt của than là rất kém.)
Vùng khử :
Khí đi vào vùng khử là sp của nguyên liệu
của vùng cháy gồm CO2 và hơi nước. Sẽ
có 03 phản ứng chính sau
1. C + CO2 = 2CO – Q
2. C + H2O = CO + H2 – Q
3. C + 2H2O = CO2 + 2H2 – Q
Vùng khử sẽ tạo ra khí CO và H2 và thu
nhiệt mạnh, lúc này tốc độ của phản ứng
giảm
Vùng nhiệt phân : Sản phẩm của vùng
khử đi vào vùng nhiệt phân và sẽ
nung nóng than trong vùng này. Quá
trình nhiệt phân sẽ xảy ra quá trình cắt
các mạch nhánh của phân tử than tạo
ra các sản phẩm khí và sản phẩm
lỏng (còn gọi là chất bốc)
Vùng sấy
Quá trình khí hóa phụ thuộc và thiết bị
chính của quá trình đó là là khí hóa.
Lò khí hóa hiện đang sử dụng rộng rãi
trên thế giới được phân làm 3 loại :
1. Khí hóa tầng chuyển động,
2. Khí hóa tầng sôi
3. Khí hóa tầng chuyển động
4. Khí hóa trong lòng đất
Tầng chuyển động còn được gọi là tầng chặt, đặc trưng của thiết bị
này là tầng than chuyển động từ từ xuống dưới do trọng lượng.
Trong thiết bị này, khí tổng hợp ở tầng khí hóa sẽ đốt dòng và nhiệt
phân của những lớp than tiếp theo. Trong quá trình này lượng oxy
tiêu tốn là không đáng j kể vì sản phẩm của quá trình nhiệt phân
thường tồn tại trong hỗn hợp khí sản phẩm.
Nhiệt độ của dòng khí sản phẩm ra khỏi lò phản ứng là không cao
và nhiệt độ của lớp xỉ là cao nhất trong toàn bộ lò.
Nguyên liệu sử dụng cho quá trình này thường là than cục. Trong
trường hợp than có quá nhiều hạt nhỏ và nếu than đó không có tính
bền nhiệt nó có thể cản trở dòng khí lưu thông trong lò.
Khí hóa tầng chuyển động
Khí hóa tầng sôi
Lò tầng sôi có ưu điểm là có sự phối trộn rất đồng đều của nguyên
liệu và tác nhân oxy hóa và thúc đẩy quá trình trao đổi nhiệt và
chuyển khối.
Quá trình này đảm bảo việc phân phối đồng đều của nguyên liệu
trong tầng sôi nhưng một lượng nhất định nguyên liệu sẽ bị đưa ra
ngoài cùng với tro. Chính vì vậy ức chế quá trình chuyển hóa của lò
tầng sôi.
Nhiệt độ của lò khí hóa phải thấp hơn nhiệt độ chảy mềm của tro vì
nếu tro kết dình với nhau sẽ ảnh hưởng đến quá trình sôi của lớp
nguyên liệu.
Một vài nỗ lực đã ngiên cứu điều khiển nhiệt độ của lò ở nhiệt độ
mềm của tro để nâng cao quá trình chuyển hóa của nguyên liệu.
Kích thước của than cũng là một yếu tố quan trọng của thiết bị này,
nếu kích thước quá nhỏ sẽ bay ra ngoài lò và được tách ra bằng
cyclon và sau đó lại được đưa lại vào lò phản ứng.
Nhiệt độ lò thấp hơn sẽ phù hợp hơn cho quá trình khí hóa những
nguyên liệu như than chấy lượng thấp hoặc biomass.
Khí hóa cùng chiều
Thiết bị khí hóa cùng chiều là tác nhân oxy hóa và
nguyên liệu chuyển động cùng chiều.
Thời gian tiếp xúc rất ngắn, chỉ vài giây.
Kích thước của nguyên liệu nhỏ hơn 100micro do
đó quá trình chuyển khối và vận chuyển trong dòng
gas sẽ không đồng nhất. Do thời gian tiếp xúc
ngắn do đó nhiệt độ quá trình phải cao để đảm bảo
quá trình chuyển hóa và do đó lượng oxy cần thiết
sẽ lớn.
Quá trình này có ưu điểm là có thể sử dụng được
nhiều loại than khác nhau kể cả những loại than có
hàm ẩm cao và hàm lượng tro lớn.
KHÍ HÓA TẦNG CHUYỂN ĐỘNG
Xét về mặt lịch sử đây là quá trình lâu đời
nhất để sản xuất khí tổng hợp và hơi nước.
Nguyên liệu phù hợp cho qua trình này là
than antraxit
Thiết bị làm việc ở áp suất thường và khí
của quá trình khí hóa tầng chuyển động
phải được làm sạch để tách loại tar.
Sản xuất khí đốt
Trong thiết bị sx khí, không khí ẩm được thổi từ dưới lên qua lớp
than nóng đỏ. Than được nạp liệu từ trên đỉnh xuống và chuyển
động từ từ xuống phía dưới.
Xỉ được tháo ra ở phí dưới lò bằng thiết bị thủy lực.
Không khí sẽ phản ứng với than và sx khí gas có nhiệt trị thấp
6500kj/m3. Nhiệt trị thấp do trong thành phần không khí thổi lò
phản ứng có N2 nên ở trong pha khí sản phẩm khí N2 chiếm
khoảng 50% và đó là nhược điểm của công nghệ này.
Ưu điểm của công nghệ này là có thể cho phép sx khí một cách liên
tục.
Khi sử dụng những nguyên liệu khác như gỗ hoặc biomass thì nhiệt
trị của khí chỉ khoảng 3500kJ/m3.
Công nghệ này thường được áp dụng cho các ngành công nghiệp
nhỏ để lấy khí cho quá trình đốt lò công nghiệp ( khí cho ngành
thủy tinh, sành sứ và luyện cốc) và đặc biệt công nghệ này được
áp dụng rất rộng rãi ở Trung Quốc.
Sản xuất hơi nước
Sản xuất khí hơi nước là quá trình không liên tục, khi đó hơi
nước sẽ phản ứng với than hoặc coke để sx H2 và CO.
Đầu tiên không khí được thổi từ dưới lên để phản ứng với
lớp than, khi nhiệt độ đạt 1300oC, không khí sẽ ngừng thổi và
hơi nước sẽ được đưa vào từ dưới lên và sau đó từ trên
xuống để sản xuất khí hơi nước.
Quá trình thổi hơi nước theo hai chiều mục đích để cho chế
độ nhiệt được đồng đều trong toàn hệ thống vì phản ứng khử
là phản ứng thu nhiệt mạnh. Khi nhiệt độ của lò hạ xuống
khoảng 900oC thì hơi nước sẽ dừng lại và thay thế là dòng
không khí.
Các chu kỳ cứ như thế được tiến hành để sản xuất khí hơi
nước. Sau khi phân riêng và làm sạch khí hơi nước, khí H2
và CO có thể được sử dụng để sx amoniac hoặc methanol.
Khi công nghệ phân tách O2 và N2 chưa phát triển thì quá
trình sx khí hơi nước là quá trình có thể sản xuất khí tổng
hợp có chất lượng cao.
Công nghệ khí hóa than của nhà
máy phân đạm Hà Bắc
Sinh viên báo cáo
5.1Quá trình Lurgi
Năm 1927 quá trình này được phát minh, đó là quá trình
khí hóa than áp suất cao, quá trình này được nghiên cứu
và phát triển bởi đại học k ỹ thuật Berlin (GS Rudolf
Drawe).
Năm 1931 quá trình Lurgi được phát triển mạnh và được
sử dụng rộng rãi để sản xuất khí đốt ở Bohlen, Brux.
Công nghệ khí hóa áp suất cao Lurgi (25-30 bar) kết hợp
với tháo xỉ rắn và các quá trình tự động hóa, tối ưu hóa
là thành công và có ứng dụng thương mại.
Các tiêu chí cơ bản của thiết bị khí hóa được mô tả ở
bảng 5.2
Than được đưa lên trên đỉnh và được đưa vào lò phản ứng
thông qua thiết bị lock. Mục đích của thiết bị này để khi nạp than
vào lò không làm ảnh hưởng nhiều đến áp suất của lò.
Oxy và hơi nước được thổi từ dưới lên và ngược dòng với
đường nạp liệu của than.
Thiết bị phản ứng gồm 2 lớp vật liệu chịu nhiệt và ở giữa là lớp
nước. Lớp nước này có tác dụng làm giảm nhiệt độ của thiết bị
khí hóa và tạo ra hơi nước nhờ quá trình trao đổi nhiệt với lớp
vật liệu chịu nhiệt của lò khí hóa. Hơi nước này có áp suất tương
đương với áp suất của lò khí hóa do đó là tăng khả năng trao đổi
nhiệt của lớp gạch chịu nhiệt phía trong.
Than thông qua đĩa phân phối được đưa vào đồng đều trong lò
và chuyển động từ từ xuống dưới là thông qua các tầng sấy,
nhiệt phân, khí hóa và tầng cháy. Xỉ của quá trình cháy được đưa
ra ngoài thông qua cửa tháo xỉ (dạng ghi quay). Gió, hơi nước sẽ
tiếp xúc với lớp xỉ và làm giảm nhiệt độ của lớp xỉ xuống khoảng
300-400oC.
Gió được đưa vào lò từ dưới lên và thông qua hệ thống phân
phỗi sẽ đưa gió tiếp xúc với tất cả các tầng than của lò khí hóa.
Gió sẽ được nâng nhiệt độ nhờ trao đổi với lớp xỉ và vào vùng
cháy và phản ứng với than tạo ra CO2. Ở vùng này nhiệt độ là
cao nhất (hình 5.2). CO2 và hơi nước tiếp tục phản ứng với lớp
than ở tầng khí hóa để hình thành CO, H2 và CH4. Phản ứng
tạo khí ở vùng khí hóa là do đặc trưng của 3 phản ứng chính đó
là phản ứng khí với hơi nước, phản ứng Bourdouard và phản
ứng methan hóa.
Trong lò khí hóa có 4 tầng và than cũng như các chất khí sẽ
chuyển động từ tầng này đến tấng khác. Phản ứng khí hóa là
phản ứng tỏa nhiệt và tiến hành sau khi toàn bộ lượng O2 đã
được sử dụng hết cho vùng cháy. Khí sau khi ra khỏi vùng khí
hóa vào vùng nhiệt phân và nhiệt độ cao của khí sẽ làm nhiệt
phân than và làm sấy khô than đưa vào. Khí này có nhiệt độ
khoảng 800oC và sẽ trao đổi nhiệt với lớp than và xuống
khoảng 550oC trước khi ra khỏi lò phản ứng.
Lớp không khí và nguyên liệu ngược chiều này sẽ làm nồng độ
của CH4 trong pha khí tương đối cao. Một phần khí cũng hình
thành trong quá trình nhiệt phân như tar, nhựa, phenol và
amoniac và các hydrocacbon khác. Quá trình hạ nhiệt độ đột
ngột của dòng khí ra khỏi lò khí hóa sẽ loại bụi, hydrocacbon có
nhiệt độ sôi cao.
Thiết bị khí hóa Lurgi
Đặc điểm của quá trình này là lượng hơi nước đưa vào nhiều
nhưng lượng oxy đưa vào ít hơn. Thành phần của khí thu
được phụ thuộc nhiều vào hai tham số này.
Nguyên liệu khí hóa với công nghệ này đòi hỏi than có kích
thước lớn, Đối với than có kích thước nhỏ phải dùng chất kết
dính ( nhựa đường ) hoặc sản phẩm tar để kết dính các hạt
than có kích thước nhỏ vào với nhau trước khi khí hóa.
Những loại than quá dòn cũng không thể sử dụng cho công
nghệ này, những loại khác (mildly caking coal) thì cần phải
có sự đảo khấy trộn để hạn chế hiện tượng tăng trở lực của
lò khí hóa.
Ứng dụng
Dây chuyền công nghệ lớn nhất sử dụng công nghệ này do hãng Sasol lắp
đặt ở Nam phi để sản xuất nhiên liệu tổng hợp.
Trong sơ đồ công nghệ có 13 tháp MKIII, 83 tháp MkiV và 1 tháp MKV.
Công suất của hệ thống này là 55 triệu Nm3/ngày khí tổng hợp. Khí tổng
hợp được tiếp tục sử dụng để sản xuất 170.000bbl/ngày của nhiên liệu tổng
hợp theo công nghệ Fischer-Tropsch (số liệu cập nhất năm 2002) . Công
nghệ này được áp dụng ở Nam phi vì khi đó chỉ duy nhất công nghệ này là
khí hóa áp suất cao và công nghệ này phù hợp với loại than có nhiệt độ
chảy mềm của tro cao.
Công nghệ này đã được áp dụng ở Nam phi, Đức, Mỹ, Séc. Ở Đức và Séc
sử dụng công nghệ này để sản xuất khí gas sử dụng cho tuốc bin để sản
xuất điện năng. Ở Mỹ áp dụng công nghệ này để sx SNG ( Substitte
Natural Gas).
Tại Trung Quốc công nghệ này được áp dụng để sx khí đốtamoniac và
hydro.
5.2 British Gas/ Lurgi Slagging
Gasifirer (BGL)
Công nghệ BGL được phát triển trên cơ sở công
nghệ Lurgi và được công ty British Gas nghiên cứu
với hệ thống tháo xỉ được thiết kế cho Slagging
condition.
Quá trình này được bắt đầu năm 1960 nhưng sau
đó thì dừng lại vì nước Anh phát hiện ra mỏ khí
thiên nhiên có trữ lượng rất lớn ở Biển Bắc.
Công nghệ này lại được áp dụng lại vào năm 1974
khi xảy ra cuộc khủng hoảng về dầu lửa.
Năm 1990 công nghệ này được áp dụng ở công ty
Schwarze ở Đức với nguyên liệu là sự phối trộn
của lignin và chất thải rắn đô thị
Công nghệ này có những đặc điểm chính
sau
Tăng sản lượng của CO và H2
Tăng công suất của lượng nguyên liệu đưa
vào
Có thiết kế đặc biệt với loại nguyên liệu có
nhiệt độ chảy mềm của tro thấp
Có những yêu cầu riêng về những nguyên
liệu có kích thước nhỏ
Giảm lượng hơi tiêu thụ
Bộ phận phía trên của BGL tương tự như thiết bị
khí hóa Lurgi tháo xỉ khô và chỉ có một vài cải tiến.
Không có bộ phận ghi lò để tháo xỉ. Thiết bị đưa
gió (đầu phun) được thiết kế ở trên vùng xỉ lỏng,
thiết bị này cũng có thể để đưa nhiên liệu khác vào
lò như tar hoặc than bụi ( vì nếu than bụi đưa lên
phía trên sẽ bị tắc lò).
Phần dưới của thiết bị là bộ phận tháo xỉ lỏng. Xỉ
được tháo qua bộ phận quenching bằng nước và
xỉ sẽ thành rạng rắn và được tháo ra nhờ thiết bị
tháo xỉ.
Lượng hơi nước tiêu tốn ít hơn và lượng oxy tiêu
tốn nhỏ hơn so với công nghệ Lurgi. Lượng khí
tổng hợp thu được lớn hơn nhiều so với cùng
lượng nguyên liệu đưa vào và sản phẩm của quá
trình nhiệt phân ít hơn tuy nhiên lượng CO2 lại ít
hơn...
So sánh 2 công nghệ Lurgi và BGL được đưa ra ở bảng 5.5
KHÍ HÓA TẦNG SÔI
Công nghệ tầng sôi được Winkler nghiên cứu năm
1920.
Với tốc độ gió đạt đến giới hạn sẽ tạo ra lớp sôi
của các chất rắn.
Sôi tĩnh đó là quá trình mà chất rắn tập trung với
mật độ cao khi quá trình cân bằng giữa tốc độ
dòng khí và trọng lực.
Khi tăng tốc độ dòng khí tới khi toàn bộ chất rắn bị
cuốn theo dòng khí và tạo thành “ full pneumatic
tránport” hình thành.
Ở tốc độ gió vừa phải, sự khác nhau giữa tốc độ
khí và chất rắn đạt tới mức tối đa, chế độ này gọi là
chế độ cuốn theo ( slip velocity) nó được gọi là sôi
tuần hoàn. Các lớp sôi này được mô tả ở hình 5.6.
Chế độ sôi có hai chức năng chính đó
là cung cấp tác nhân oxy hóa và tạo
ra lớp sôi trong thiết bị.
Quá trình này phức tạp lúc điều khiển
khi bắt đầu hoặc khi kết thúc.
Trong quá trình, hỗn hợp oxy/hơi
nước sẽ được sử dụng làm tác nhân
thổi. Khi sử dụng cho mục đích sx
điện năng thì không khí có thể sử
dụng làm tác nhân oxy hóa ( khi sử
dụng biomass).
Một vài đặc điểm chính
Nhiệt độ :
Bất kỳ dạng tầng sôi nào đều phụ thuộc vào vào kích thước
hạt và tốc độ của gió.
Một lượng lớn xỉ (95%) còn lại trong tầng sôi trong khi đó
lượng cacbon đã được khí hóa thành khí tổng hợp. Lượng xỉ
này sẽ mềm ra và tụ kết với nhau thành những hạt có kích
thước lớn hơn. Lúc này trở lực sẽ lớn hơn tốc độ gió và hạt xỉ
sẽ lắng xuống và thoát ra khỏi tầng sôi và sẽ tạo ra sáo trộn
và phá vỡ lớp sôi.
Chính vì nguyên nhân này nên chế độ nhiệt của thiết bị khí
hóa luôn nhỏ hơn nhiệt độ chảy mềm của tro. Đối với than
nhiệt độ khoảng 950-1100oC và với biomass khoảng 800-
950oC.
Khi nhiệt độ khí hóa thấp thì lượng tar sẽ nhiều hơn trong
hỗn hợp khí. Nguyên nhân là do quá trình cấp nhiệt từ từ nên
quá trình nhiệt phân diễn ra nhiều hơn nên nhiều tar hình
thành trong quá trình này và nhiệt độ thấp thì phản ứng
cracking của tar sẽ không xảy ra.
Chất lượng nguyên liệu :
Mục tiêu của công nghệ này là để sử dụng các loại
nguyên liệu có chất lượng thấp như biomass, than
chất lượng thấp
Đối với than chất lượng thấp thì tốc độ phản ứng
nhanh hơn do đó nhiệt độ của lò khí hóa có thể
khống chế thấp hơn.
khí hóa tầng sôi kích thước không dưới 10mm. Do
than khác nhau về kích thước và hình dáng nên
duy trì chế độ sôi là khó khăn. Chế độ sôi phải
được kiểm soát chặt chẽ vì nếu nhiều hạt than kích
thước nhỏ hơn sẽ bị cuốn theo chế độ gió ra ngoài.
Các hạt than này sẽ được tách ở xyclon và đưa trở
lại thiết bị khí hóa.
Chuyển hóa carbon :
Quá trình khuấy trộn đồng đều của gió và than tạo ra sự
khấy trôn l y tưởng và chuyển khối thuận lợi của chế độ
tầng sôi. Thực tế chế độ tầng sôi là thiết bị phản ứng tĩnh
với chế độ khuấy l y tưởng.
công nghệ này cũng có một vài nhược điểm đó là rất khó
không chế thời gian phản ứng của các hạt than phân bố đều
trong tầng sôi.
Do đó có những phần than chưa phản ứng đã bị đưa ra
khỏi lò. Lượng cacbon chuyển hóa tối đa là 97%.
Lượng oxy sử dụng cho khí hóa tânhf sôi lớn hơn nhiều so
với khí hóa tầng chặt
Tro
Tro của quá trình khí hóa tầng sôi ở dạng
leachable form.
Trạng thái tro sẽ phức tạp hơn nếu bổ sung đá vôi
vào quá trình với mục đích kết dính sunfua hình
thành trong quá trình cháy và để hạn chế quá trình
làm sạch sunfua của khí sản phẩm.
Tuy nhiên đá vôi không thể chuyển hóa hết thành
CaSO4 nên tro sẽ còn lẫn cả đá vôi chưa phản
ứng.
Xỉ được loại ra từ đáy của thiết bị khí hóa hoặc là
được tách ra ở xyclon. Quá trình khí hóa tầng sôi
có thể khác nhau về phương pháp tháo xỉ ( tháo xỉ
khô hoặc tháo xỉ kết dính).
Yêu cầu về thiết bị :
Do nhiệt độ của tầng khí hóa không cao (dưới 1100oC)
nên thiết bị làm vỏ lò cũng không có yêu cầu đặc biệt
như khí hóa lớp chuyển động. Gạch chịu lủa thường
được sử dụng để làm vật liệu lót trong của lò để chịu
được nhiệt độ cao và môi trường ăn mòn.
Bên ngoài là lớp thép.
Đối với khí hóa tầng sôi tuần hoàn phải chú y hơn về độ
dãn nở nhiệt vì gradien nhiệt độ là không đều nhau trong
lò khí hóa. ???
Quá trình Winkler
Quá trình này là quá trình khí hóa tầng sôi
ở áp suất thường.
Phát minh này được cấp patern năm 1922
và nhà máy đầu tiên được xây dựng năm
1925.
Đến nay đã có khoảng 70 dây truyền này
được lắp đặt trên thế giới với năng suất
khoảng 20 triệu Nm3/ngày.
Quá trình này có thể sử dụng bất k y loại
nguyên liệu nào như than nâu, than sub-
bituminous, bitummius.
Than trước khi đưa vào lò khí hóa được nghiền
sao cho kích thước dưới 10mm
Nếu than có độ ẩm nhỏ hơn 10% thì không cần
quá trình sấy trước khí sử dụng. T
han được đưa vào thiết bị khí hóa bằng băng
truyền và tầng sôi được duy trì nhờ gió được thổi
từ dưới lên. Tốc độ gió vào khoảng 5m/s và khi tốc
độ tăng thì nhiệt độ tầng khí hóa tăng và sản phẩm
tar trong khí sản phẩm cũng giảm đi.
Nhiệt độ hoạt động của lò từ 950-1050oC.
Hệ thống gồm hai thiết bị phụ trợ đó là thiết bị tận
dụng nhiệt và cyclon tách xỉ.
Trong xỉ lượng cacbon chưa phản ứng còn rất lớn
vào khoảng 20% lượng than đưa vào lò. Xỉ có lẫn
nhiều cacbon này sử dụng như là nhiên liệu cho
các quá trình khác.
Quá trình Winkler nhiệt độ cao (HTW)
Quá trình này được xây dựng vào năm 1970 để khí
hóa lignin để đối phó với giá dầu mỏ gia tăng.
Quá trình này được sử dụng để sản xuất methanol
và hydrogen và SNG.
Quá trình này có nhiệt độ cao và áp suất cao do đó
giảm hiệu suất tiêu tốn năng lượng, nâng cao chất
lượng khí và tăng khả năng chuyển hóa của
cacbon và tuần hoàn cacbon chưa phản ứng thu
được ở cyclon.
Quá trình HTW tận dụng rất tốt nhiệt độ cao của
khí sản phẩm ra khỏi lò có nhiệt độ 900oC giảm
xuống 300oC
Một dây truyền 600 tấn/ngày với áp suất
10bar được xây ở Berrenrath đã vận hành
trong 12 năm và đạt hiệu suất khai thác là
84 để sản xuất khí phục vụ cho quá trình
tổng hợp methanol.
Hai dây truyền với năng suất 980t/ngày
phối hợp với IGCC ở Cộng hòa Séc. Trong
dây truyền đó có 26 lò khí hóa tầng chặt.
Quá trình này lại được phát triển để khí hóa
chất thải rắn. Dây truyền 20t/ngày đã được
xây ở Nhật Bản.
Quá trình khí hóa lớp sôi tuần hoàn
(CFB)
Tháp khí hóa lớp sôi tuần hoàn có nhiều ưu điểm hơn so với
khí hóa tầng chặt và « transport reactor ». Là có tốc độ gió
cao đảm bảo sự đảo trộn và tiếp xúc đồng đều của pha khí
và pha rắn do đó quá trình chuyển khối và truyền nhiệt xảy ra
hiệu quả hơn.
Pha rắn được đưa vào lò nhờ dòng khí và sau đó lại được
tách ra khỏi dòng khí và được đưa trở lại nhờ (vòng tuần
hoàn ngoài). Đối với những hạt có kích thước lớn hơn, quá
trình sôi tuần hoàn chủ yếu nằm ở thiết bị chính và khi chỉ khi
nhỏ đi nó sẽ tiếp tục thực hiện (vòng tuần hoàn ngoài).
Công nghệ CFB, các pha rắn thực hiện quá trình tuần hoàn
nhiều hơn so với khí hóa tầng chặt do đó có ưu điểm là có
tốc độ gia nhiệt nhanh đối với dòng nguyên liệu, nó giảm
đáng kể lượng tar hình thành trong quá trình gia nhiệt nguyên
liệu.
Có 2 công ty nổi tiếng với công nghệ này đó là
Lurgi và Foster Wheeler.
Sơ đồ thiết bị CFB của Lurgi được mô tả ở hình
5.10 và công nghệ CFB rất phù hợp cho khí hóa
sinh khối.
Tốc độ của dòng khí là 4-8m/s, tốc độ này đảm bảo
tất cả các pha rắn có kích thước lớn đều được đưa
vào lò và được nâng lên phía trên. Pha rắn được
tách ra khỏi pha khí nhờ cyclon và quay trở về lò
nhờ ống nối.
Tác nhân khí hóa sử dụng là không khí được đưa
vào qua vòi phun (dòng khí thứ nhất) và nguyên
liệu được được đưa ở phía đối diện nhờ dòng khí (
dòng khí thứ 2) và phía trên so với đường vào của
tác nhân oxy hóa.
Đối với nguyên liệu là biomass, kích thước phải
khống chế trong khoảng 25-50mm.
Thiết bị khí hóa KBR ( Kellogg
Brown và Root)
Tốc độ gió là 11-18m/s nên có tốc độ tuần hoàn
cao hơn.
Nguyên liệu và chất hấp thụ ( đá vôi) được đưa
vào thiết bị khí hóa thông qua bộ phận lock
hopper.
Thiết bị khí hóa này làm việc ở áp suất 11-18 bar
và nhiệt độ 900-1000oC.
Hiệu suất chuyển hóa cacbon 95-98%.
Trong vùng khuấy trộn tác nhân oxy hóa và hơn nước được
trộn với pha rắn nguyên liệu hoặc được tuần hoàn từ ống
tuần hoàn.
Khí và pha rắn được đưa vào vùng trộn và phản ứng sau
đó vào vùng phân tách. Ở đây các hạt có kích thước lớn
tách ra nhờ trọng lượng, các hạt có kích thước nhỏ hơn
được phân tách tại xyclon. Các chất rắn tách khỏi pha khí
được đưa lại vùng trộn thông qua J-leg.
Khí sản phẩm được làm lạnh và sau đó qua thiết bị tách
bụi cuốn theo, đó là các vật liệu tách bằng gốm hoặc lưới
kim loại có khả năng chịu nhiệt độ trong khoảng 370-
780oC.
Chất hấp thụ sẽ phản ứng với S tạo thành CaS. Chúng và
char, xỉ và sẽ được tách ra ở stand-pipe bằng vít tải và bụi
tách từ quá trình tách bụi sẽ được đốt ở lò tầng sôi.
KHÍ HÒA CÙNG CHIỀU
Ưu điểm của quá trình khí hóa cùng chiều là có thể
khí hóa bất cứ loại nguyên liệu.
Thành phần khí thu được không có thành phần
nhựa và tar.
Xỉ tháo ra trong quá trình này là loại inert và frit.
Quá trình này tiêu thụ lượng lớn oxy đặc biệt khi
tiến hành khí hóa hỗn hợp than ướt hoặc than có
độ ẩm cao.
Hai công ty nổi tiếng nhất cho công nghệ khí hóa
cùng chiều với nguyên liệu là hỗn hợp than-nước
nạp trên đỉnh là của hãng Shell và Krupp-Koppers.
Công ty Noell lại nổi tiếng với công nghệ khí hóa
cùng chiều than khô và nạp liệu trên đỉnh
Các đặc điểm chính của quá trình khí hóa cùng chiều
được tóm tắt ở bảng 5.7
Quá trình khí hóa cùng chiều được áp dụng
trong công nghiệp từ những năm 1950 với
áp suất khoảng 20-50bar và nhiệt độ
1400oC.
Các hạt than mịn được thổi vào cùng chiều
với tác nhân oxy hóa là không khí hoặc oxy
và nhiệt độ của thiết bị khí hóa lớn hơn
nhiệt độ chảy mềm của xỉ.
Công nghệ này có thể thu được hàm lượng
khí tổng hợp chất lượng cao vì hàm lượng
CH4 trong thành phần khí là nhỏ.
Ở nhiệt độ này thành phần nhựa và tar bị
phân hủy thành khí
Các đặc tính của công nghệ
a. Với nguyên liệu là than khô : có thể thực hiện
với tốc độ thổi tác nhân oxy hóa là nhỏ hơn so với
nguyên liệu là hỗn hợp than- nước.
Thiết bị khí hóa cùng chiều với nguyên liệu là than
khô cho chất lượng sản phẩm khí tổng hợp là tốt
nhất.
Tuy nhiên có thể diều chỉnh tỷ lệ H2/CO. Thao tác
quá trình khí hóa với sự xuất hiện của CO2 từ 0.5
– 4%mol ở 1500oC là thuyết phục hơn cả.
Thiết bị khí hóa một giai đoạn
Cho phép có nồng độ khí có độ sạch cao, lẫn rất ít hydrocacbon
và CH4 ( khoảng dưới 0,1%).
Với nồng độ CO2 thấp và độ chuyển hóa cacbon cao, điều đó
có nghĩa rằng toàn bộ thành phần cacbon của nguyên liệu đưa
vào được chuyển hóa thành CO do đó quá trình rửa khí bằng
axit là không áp dụng cho công nghệ này.
Quá trình này đã được áp dụng ở Buggenum IGCC 250MW,
Puertollano ( Tây ban nha) với công suất 300MW, Schwarze ở
Germany với năng suất 600 tấn/ngày.
Quá trình khí hóa áp suất thường Koppers-Totzek
Khí hóa cùng chiều của Koppers-Totzek được xây dựng ở
Phần lan, Hy lạp,Thổ nhĩ kỳ, Ấn độ, Nam phi và Zimbabue.
Các nhà máy này phần lớn để sản xuất amoniac.
Lò khí hóa KT được thiết kế để than và oxy được đưa vào từ
hai bên của lò khí hóa, khí sản phẩm sẽ ra ở trên đỉnh lò và
đáy lò là nơi tháo xỉ.
Thiết bị đầu tiên được thiết kế với năng suất 5000Nm3/h với
hai của nạp. Gần đây công suất thiết kế của thiết bị lên đến
32.000Nm3/h với 4 của nạp.
Khí sản phẩm ra có nhiệt độ 1500oC và được làm nguội bởi
nước xuống 900oC để xỉ lỏng không thể vào thiết bị làm
nguội và trong trường hợp có vào thiết bị trao đổi nhiệt thì là
xỉ khô, do đó không ảnh hưởng lớn đến các ống trao đổi
nhiệt. Lò khí hóa có lớp áo nước để giảm nhiệt độ của tường
lò khí hóa. Một tỷ lệ đánh kể lượng nhiệtđược truyền vào lớn
áo nước áp suất thấp và đó là lượng nhiệt đáng kể của quá
trình.
Đáy lò khí hóa là water bath dùng để tận dụng nhiệt của xỉ và
là van thủy lực ( nước) để khí hình thành trong lò khí hóa
không theo đường xỉ ra ngoài.
Quá trình khí hóa của Shell
Hai công ty Shell và Koppers liên doanh để xây dựng nhà máy
khí hóa Shell vào năm 1978 ở Harburg- Đức với công suất 150
tấn/ngày với những tham vọng khác nhau.
Hãng Koppers muốn phát triển khí hóa để sản xuất khí tổng
hợp với năng suất cao, còn hãng Shell tham vọng sản xuất
nhiên liệu tổng hợp từ than bằng công nghệ khí hóa và Fischer-
Tropsch. Sau đó hai công ty này phát triển công nghệ này theo
những mục đích khác nhau..
Shell xây dựng một nhà máy khác ở Houston có công suất 250
tấn/ngày còn Koppers xây nhà máy công suất 48 tấn/ngày ở
Furstenhausen (đức).
Năm 1994 nhà máy công suất 2000 tấn/ngày được xây dựng
ở Phần Lan và 1997 xây dựng nhà máy 3000 tấn/này ở Tây
Ban Nha. Trong những năm gần đây rất nhiều nhà máy mới
được hãng Shell xây dựng ở Trung Quốc
Than bột thông qua các hoppers (có kích thước dưới 90um) được đưa
vào thiết bị khí hóa bằng khí trơ thông qua vòi phun.
Quá trình khí hóa sẽ xảy ra ở trong lòng ống của thiết bị khí hóa. Ở
gần đầu đốt sẽ phối trộn với oxy và hơi nước. Phản ứng sẽ xảy ra rất
nhanh và thời gian lưu của than là 0,5-4 seconds. Khí sinh ra sẽ thoát
ra ở đỉnh lò.
Xỉ theo đường đáy của lò khí hóa ra ngoài bằng water bath.
Nhiệt độ của lò khí hóa khoảng 1500oC và áp suất khoảng 30-40bar.
Quá trình làm nguội đột ngột của xỉ khi tiếp xúc với nước sẽ làm xỉ
vụn nhỏ và mịn, sản phẩm này sẽ được sử dụng làm nguyên liệu cho
quá trình sản xuất xi măng.
Lớp lót lò phản ứng là lớp màng có cấu tạo đặc biệt và được bọc bởi
gạch SiC để hạn chế nhiệt bức xạ và nhiệt độ cao của xỉ tiếp xúc với
lớp thành kim loại của lò khí hóa.
Trong ống, hơi nước sẽ hình thành và sử dụng cho nhà máy nhiệt
điện.
Lượng nhiệt mất mát ở tường lò khí hóa phụ thuộc vào chế độ tháo xỉ.
Và chiếm khoảng từ 2-4% nhiệt cháy của lượng than đưa vào.
Tỷ lệ CO là 2/3 và H2 là 1/3. Khí sau khi ra khỏi lò khí hóa được tiếp
xúc trực tiếp với nước để giảm nhiệt độ xuống 900oC với dòng nước
tuần hoàn là 280oC.
Thiết bị tiếp xúc được thiết kế để khí nóng và xỉ luôn ở dạng khô
trước khi tiếp xúc với các ống trao đổi nhiệt bằng kim loại.. Sau khi ra
khỏi thiết bị tiếp xúc trực tiếp, khí sản phẩm tiếp tục làm mát ở thiết bị
làm mát khí và làm tăng nhiệt độ của hơi nước ( là tác nhân làm lạnh)
để phục vụ cho quá trình sản xuất điện năng.
Khí sau khi làm nguội có nhiệt độ 280oC tiếp tục qua các thiết bị lọc
bụi ( candle) để loại bỏ bụi rắn. Khoảng ½ lượng khí lại được đưa trở
lại thiết bị nén khí để sử dụng như là quenching gas. Lượng khí còn
lại tiếp tục làm mát bằng thiết bị sục.
Quá trình khí hóa Noell
Quá trình khí hóa Texaco
Năm 1983 và 1985 hai nhà máy được xây dựng
ở Ube-Nhật bản và 01 nhà máy được xây dựng
ở Tuynidi.
Năm 1990, 09 nhà máy được xây dựng trong đó
05 nhà máy ở Trung Quốc trong đó hai nhà máy
ở Trung Quốc sản xuất methanol và khí đốt và
các nhà máy còn lại sản xuất NH3 và điên năng.
Có 04 nhà máy ở Mỹ trong đó có 03 nhà máy ở
Mỹ sử dụng nguyên liệu là coke dầu mỏ sx NH3
và 01 nhà máy ở Mỹ sản xuất điện năng với
công suất 250MWe.
Công nghệ Texaco nạp nguyên liệu dạng huyền phù đưa
từ đỉnh tháp và là công nghệ khí hóa cùng chiều và tường
lò làm bằng vật liệu chịu nhiệt.
Công nghệ Texaco có 2 kỹ thuật làm mát đó là làm mát
theo phương pháp tiếp xúc trực tiếp và radiant boiler.
Than hoặc coke dầu mỏ được nghiền ướt với kích thước
nhỏ khoảng 100um và tạo huyền phù ở thiết bị tạo huyền
phù, huyền phù được đưa vào thiết bị khí hóa bằng bơm
màng và áp suất của lò khí hóa là 30bar cho quá trình
IGCC và sẽ hoạt động ở áp suất 70-80 bar nếu để sản
xuất khí tổng hợp.
Huyền phù được đưa vào thiết bị khí hóa cùng với tác
nhân oxy hóa ( thường là oxy) thông qua vòi phun được
đặt ở đỉnh của tháp. Nhiệt độ của tháp khí hóa là 1500oC
ở nhiệt độ chảy lỏng của xỉ.
Với kỹ thuật làm lạnh trực tiếp, khí tạo thành cùng với xỉ
đi xuống phía dưới của lò khí hóa và vào vùng làm mát (
quenching – tôi). Khí sau khi ra khỏi vùng quenching sẽ
bão hòa hơi nước có nhiệt độ khoảng 200-300oC. Nếu sử
dụng khí cho sản xuất hóa học như sản xuất hydro và
NH3 thì điều kiện này là l y tưởng để thực hiện phản ứng
shift CO. HCl sinh ra sẽ qua tháp rửa axit trước khi tiếp
xúc vào tầng xúc tác của phản ứng shift. Xỉ sẽ trao đổi
nhiệt và trờ về trạng thái rắn và được tháo ra ngoài thông
qua cửa tháo hopper, nước tách ra ở đây sẽ được đưa trở
lại thiết bị tạo nhũ tương (bùn).
Với kỹ thuật làm mát bằng radiar (hình 5.20) sử dụng để
sản xuất điện năng và có khả năng tận thu nhiệt tỏa ra tối
ưu. Khí sau khi ra khỏi thiết bị khí hóa sẽ vào thiết bị làm
mát radiar và giảm nhiệt độ của khí xuống 760oC. Xỉ
lỏng sẽ tiếp xúc với nước và hóa rắn và được tháo ra
ngoài nhờ hopper. Khí sau khi làm kạnh tiếp tục và thiết
bị trao đổi nhiệt dạng ống và hạ xuống 425oC. Hai thiết
bị làm mát này đều tăng nhiệt độ của môi chất làm mát (
hơi nước có áp suất cao). Áp suất có thể lên đến 115bar.
Trước khi đi sử dụng, khí cũng qua thiết bị rửa để loại
HCl và bụi cơ học.
Công nghệ này đầu tư không đắt tiền nhưng chi phí sửa
chữa là khá lớn.
Với kỹ thuật làm lạnh trực tiếp, khí tạo thành cùng với xỉ đi xuống
phía dưới của lò khí hóa và vào vùng làm mát ( quenching – tôi).
Khí sau khi ra khỏi vùng quenching sẽ bão hòa hơi nước có nhiệt độ
khoảng 200-300oC. Nếu sử dụng khí cho sản xuất hóa học như sản
xuất hydro và NH3 thì điều kiện này là l y tưởng để thực hiện phản
ứng shift CO.
Xỉ sẽ trao đổi nhiệt và trở về trạng thái rắn và được tháo ra ngoài
thông qua cửa tháo hopper, nước tách ra ở đây sẽ được đưa trở lại
thiết bị tạo nhũ tương (bùn).
Với kỹ thuật làm mát bằng radiar sử dụng để sản xuất điện năng.
Khí sau khi ra khỏi thiết bị khí hóa sẽ vào thiết bị làm mát radiar và
giảm nhiệt độ của khí xuống 760oC. Khí sau khi làm kạnh tiếp tục
và thiết bị trao đổi nhiệt dạng ống và hạ xuống 425oC. Hai thiết bị
làm mát này đều tăng nhiệt độ của môi chất làm mát ( hơi nước có
áp suất cao). Áp suất có thể lên đến 115bar.
Xỉ lỏng sẽ tiếp xúc với nước và hóa rắn và được tháo ra ngoài nhờ
hopper.
Công nghệ này đầu tư không đắt tiền nhưng chi phí sửa chữa là khá
lớn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- p8_2_cong_nghe_khi_hoa_than_8649.pdf