Chương trình đào tạo chỉ huy trưởng công trường - Bài 6 Rủi ro

Rủi ro là một khoa học. Trong phạm vi khái niệm được nêu phần trên là những điều hết sức cơ bản để đối phó với rủi ro. Từ khái niệm rủi ro đã nảy sinh ra cả công nghiệp bảo hiểm. Nghiên cứu kỹ rủi ro sẽ giúp chủ động tránh rủi ro, quản lý dự án thành công./.

doc41 trang | Chia sẻ: truongthinh92 | Lượt xem: 1477 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chương trình đào tạo chỉ huy trưởng công trường - Bài 6 Rủi ro, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chấp nhận rủi ro thuần tuý. Nhận xét: Việc phân chia rủi ro thành rủi ro thuần tuý và rủi ro suy tính có ý nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn kỹ thuật để đối phó, phòng tránh rủi ro. Đối với rủi ro suy tính, người ta có thể đối phó bằng kỹ thuật Hedging (rào cản) còn rủi ro thuần tuý được đối phó bằng kỹ thuật bảo hiểm. Tuy nhiên, hầu hết trong các rủi ro đều chứa cả hai yêu tố: thuần tuý và suy tính và trong nhiều trường hợp ranh giới giũa hai loại rủi ro này còn mơ hồ. 2/ Theo hậu quả để lại cho các hoạt động của con người, người ta chia thành rủi ro số đông (rủi ro toàn cục, rủi ro cơ bản) và rủi ro bộ phận (rủi ro riêng biệt). + Rủi ro số đông là các rủi ro gây ra các tổn thất khách quan theo nguồn gốc rủi ro và theo kết quả gây ra. Những tổn thất này không phải do cá nhân gây ra và hậu quả của nó ảnh hưởng đến số đông con người trong xã hội. Thuộc loại này bao gồm các rủi ro do chiến tranh, lạm phát, thất nghiệp, động đất, lũ lụt.... + Rủi ro bộ phận là các rủi ro xuất phát từ các biến cố chủ quan của từng cá nhân xét theo cả về nguyên nhân và hậu quả. Tác động của loại rủi ro này ảnh hưởng tới một số ít người nhất định mà không ảnh hưởng lớn đến tòan xã hội. Thuộc loại này bao gồm các rủi ro do tai nạn (tai nạn giao thông, tai nạn lao động, hoả hoạn,) do thiếu thận trọng trong khi làm việc cũng như trong cuộc sống (rủi ro do mất trộm....). Nhận xét: Việc phân biệt hai loại rủi ro này có ý nghĩa quan trọng trong việc tổ chức xã hội, nó liên quan đến việc có thể hay không thể chia sẻ bớt những rủi ro trong cộng đồng xã hội. Nếu một rủi ro bộ phận xảy ra, các tổ chức hay cá nhân khác có thể giúp đỡ bằng những khoản đóng góp vào các qũy trợ giúp nhằm chia sẻ bớt những rủi ro nhưng khi rủi ro số đông xảy ra thì việc chia sẻ rủi ro bằng cách trên là không có tác dụng. Tuy nhiên, việc phân loại rủi ro theo cách này cũng chưa được rõ ràng lắm vì rủi ro có thể chuyển từ dạng này sang dạng khác tuỳ theo sự thay đổi của khoa học kỹ thuật và khung cảnh xã hội. Ví dụ lũ lụt gây thiệt hại nghiêm trọng ở một quốc gia nào đó là rủi ro số đông đối với quốc gia đó nhưng lại là rủi ro bộ phận đối với phạm vi toàn thế giới. 3/ Theo nguồn gốc phát sinh các rủi ro, có các loại rủi ro sau: + Rủi ro do các hiện tượng tự nhiên: đây là nguồn rủi ro cơ bản dẫn đến các rủi ro thuần tuý và để lại những hậu quả rất nghiêm trọng đối với con người. Nước lũ, nắng nóng, hoạt động của núi lửa,... Việc nhận biết các nguồn rủi ro này tương đối đơn giản nhưng việc đánh giá khả năng xảy ra cũng như mức độ xảy ra của các rủi ro xuất phát từ nguồn này lại hết sức phức tạp bởi vì chúng phụ thuộc tương đối ít vào con người, mặt khác khả năng biểu biết và kiểm soát các hiện tượng tự nhiên của con người còn hạn chế. + Rủi ro do môi trường vật chất: các rủi ro xuất phát từ nguồn này là tương đồi nhiều, chẳng hạn như hoả hoạn do bất cẩn, cháy nổ.... + Rủi ro do các môi trường phi vật chất khác: Nguồn rủi ro rất quan trọng và làm phát sinh rất nhiều rủi ro trong cuộc sống chính là môi trường phi vật chất hay nói cụ thể đó là các môi trường kinh tê, xã hội, chính trị, pháp luật hoặc môi trường hoạt động của các tổ chức,... Đường lối chính sách của mỗi người lãnh đạo của quốc gia có tốc ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế (ban hành các chính sách kinh tế, áp dụng các quy định và thuế, cắt giảm hoặc xóa bỏ một số ngành nghề). Quá trình hoạt động của các tổ chức có thể làm phát sinh nhiều rủi ro và bất định. Việc thay đổi tỷ giá hối đoái, tỷ lệ lãi suất tín dụng, quan hệ cung - cầu trên thị trường, giá cả thị trường diễn biến bất ổn,... đều có thể đem lại rủi ro cho các tổ chức SXKD. Có rất nhiều rủi ro xuất phát từ môi trường phi vật chất này và các rủi ro cứ nối tiếp nhau diễn ra, rủi ro này được bắt nguồn từ rủi ro khác, rủi ro bắt nguồn từ môi trường chính trị dẫn đến các rủi ro về mặt kinh tế hay xã hội (chẳng hạn rủi ro do môi trường chính trị không ổn định dẫn đến rủi ro về mặt tinh tế (sản xuất đình đốn, hàng hoá đắt đỏ) và sau đó dẫn đến rủi ro về mặt xã hội (thất nghiệp). Để nhận biết các nguồn rủi ro này cần có sự nghiên cứu, phân tích tỷ mỷ, chi tiết và thận trọng. Mặt khác, việc đánh giá khả năng và mức độ xảy ra của các rủi ro xuất phát từ nguồn rủi ro phi vật chất cũng hết sức khó khăn với độ chính xác khác nhau, nó phụ thuộc rất nhiều vào trình độ của người đánh giá. Nhận xét: Các tổn thất phát sinh từ các nguồn rủi ro là rất nhiều và rất đa dạng. Một số tổn thất có thể phát sinh từ cả hai nguồn rủi ro khác nhau, chẳng hạn rủi ro cháy một ngôi nhà có thể do bất cẩn khi đun bếp (môi trường vật chất) nhưng cũng có thể do bạo động, đốt phá (môi trường chính trị). Việc phân loại rủi ro theo các nguồn phát sinh giúp cho các nhà quán lý rủi ro tránh bỏ sót các thông rin khi phân tích đồng thời giúp cho việc lựa chọn các biện pháp phòng chống rủi ro sau này. 4/ Theo khả năng khống chế của con người: có thể chia ra rủi ro có thể khống chế và rủi ro không thể khống chế. Một số loại rủi ro khi xảy ra, con người không thể chống đỡ nổi. Thuộc loại này có các rủi ro do thiên tai, địch hoạ,...Tuy nhiên, đa số các rủi ro con người có thể chống đỡ hoặc có những biện pháp nhằm hạn chế được thiệt hại nếu có những nghiên cứu, dự đoán được khả năng và mức độ xây ra 5/ Theo phạm vi xuất hiện rủi ro có thể chia ra rủi ro chung và rủi ro cụ thể + Rủi ro chung là các rủi ro gắn chặt với môi trường chính trị, kinh tế và pháp luật. Các rủi ro chính trị gồm có rủi ro về hệ thống chính trị, rủi ro chính sách thuế; rủi ro do cơ chế quản lý cấp vĩ mô; rủi ro về chế độ độc quyền; rủi ro do chính trị sách hạn chế nhập khẩu; rủi ro do không đạt được hoặc không gia hạn hợp đồng; Các rủi ro thương mại quốc gia gồm có rủi ro do lạm phát; rủi ro do tỷ lệ lãi suất thay đổi; rủi ro do sản phẩm hàng hoá mất giá; rủi ro do chính sách ngoại hối và đặc biệt ở Việt Nam còn có thể có rủi ro do không chuyển đổi được ngoại tệ; Các rủi ro gắn với môi trường pháp luật quốc gia gồm có rủi ro do thay đổi chính sách pháp luật và qui định; rủi ro về việc thi hành pháp luật; rủi ro do trì hoãn trong việc bồi thường;. + Rủi ro cụ thể là các rủi ro gắn liền với các lĩnh vực sản xuất kinh doanh (SXKD) cụ thể hoặc lĩnh vực hoạt động khác. Đối với lĩnh vực SXKD xây dựng (XD) có thể có các rủi ro theo các giai đoạn của quá trình đầu tư XD, các rủi ro đối với việc thực hiện và hoàn thành kế hoạch, các rủi ro trong quá trình vận hành. Theo các giai đoạn của quá trình đầu tư và XD, một tổ chức SXKD XD có thể gặp rủi ro vì đấu thầu; rủi ro về cấp phát vốn đầu tư (VĐT); rủi ro do sự phối hợp giữa tổ chức thiết kế, giám sát, cung cấp trang thiết bị với đơn vị thi công, không theo đúng kế hoạch tiến độ đã định; rủi ro trong thi công XD; rủi ro trong quá trình thanh quyết toán;... Đối với việc thực hiện và hoàn thành kế hoạch, tổ chức XD có thể gặp rủi ro do sự chậm trễ trong thi công và cung ứng các yếu tố sản xuất; rủi ro do phải phá đi làm lại; rủi ro do các nguyên nhân bất khả kháng Trong quá trình vận hành khai thác có thể có các rủi ro về trang bị cơ sở hạ tầng; rủi ro về kỹ thuật và công nghệ thi công; rủi ro về quản lý; rủi ro do tăng chi phí lưu thông; rủi ro do trình độ cán bộ công nhân vận hành khai thác; rủi ru do các nguyên nhân bất khả kháng; rủi ro trách nhiệm; Chúng ta có thể gặp rủi ro ở bất kỳ hoạt động nào liên quan đến con người, do đó hàng ngày chúng ta phải đưa ra những quyết định để làm thế nào có thế giải quyết được những rủi ro đó. Có thể có một số biện pháp: - Tránh hoàn toàn mọi rủi ro. - Hạn chế rủi ro bằng cách tiến hành nhưng biện pháp phòng ngừa. - Chuyển giao hoặc san sẻ rủi ro sang các cá nhân hay tổ chức khác. Với mọi biện pháp nhằm hạn chế rủi ro đều được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau. Chúng ta biết rằng hầu hết các rủi ro xảy ra đều mang tính ngẫu nhiên và bất ngờ đối với con người và sự vật, vì vậy việc chủ động tránh hoàn toàn mọi rủi ro là hầu như không thể thực hiện được đối với các cá nhân hay một tổ chức. Chẳng hạn, để tránh hoàn toàn rủi ro do tai nạn giao thông, một người nào đó có lúc không bao giờ đi ra đường cả nhưng điều đó lại hạn chế mọi hoạt động của người đó và có lẽ họ sẽ không thể thực hiện được việc tránh khỏi rủi ro bằng cách này. Vì thế, để hạn chế rủi ro người ta tìm cách quản lý các rủi ro đó, chủ yếu tập trung vào hai biện pháp: tiến hành các biện pháp phòng ngừa có thể hoặc san sẻ rủi ro sang các cá nhân hay tổ chức khác. Vậy cá nhân có khả năng chấp nhận rủi ro khác nhau. Một số người có khả năng chấp nhận rủi ro cao và họ không tiến hành một biện pháp phòng ngừa nào cả vì họ tin rằng có ít rủi ro xảy ra với họ và họ có thể chấp nhận được. Một số người khác lại ít có khả năng chấp nhận rủi ro hơn và do họ cố gắng tiến hành mọi biện pháp phòng ngừa có thể như mua các loại bảo hiểm hoặc thực hiện mọi cách phòng ngừa rủi ro trong cuộc sống. Tuy nhiên, dù khả năng chấp nhận rủi ro của mỗi người khác nhau nhưng nói chung mọi người đều sợ rủi ro. Vì thế, việc chúng ta cố gắng nhận biết được mọi rủi ro có thể xảy ra và đánh giá được mức độ trầm trọng của rủi ro là việc làm hết sức quan trọng, hết sức cần thiết và không phải là một việc làm đơn giản. Có thể tóm tắt các cách phân loại rủi ro như hình 1.1 dưới đây. RỦI RO THUẦN TÚY LÀ LOẠI RỦI RO TỒN TẠI KHI CÓ NGUY CƠ TỔN THẤT NHƯNG KHÔNG CÓ CƠ HỘI KIẾM LỜI RỦI RO SUY TÌNH LÀ LOẠI RỦI RO TỒN TẠI KHI CÓ NGUY CƠ TỔN THẤT SONG SONG VỚI MỘT CƠ HỘI KIẾM LỜI RỦI RO SỐ ĐÔNG LÀ LOẠI RỦI RO KHÔNG PHẢI DO CÁ NHÂN GÂY RA VÀ HẬU QUẢ CỦA NÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỐ ĐÔNG CON NGƯỜI TRONG XÃ HỘI RỦI RO BỘ PHẬN XUẤT PHÁT TỪ CÁC BIẾN CỐ CHỦ QUAN CỦA TỪNG CÁ NHÂN VÀ TÁC ĐỘNG ĐẾN MỘT SỐ ÍT NGƯỜI TRONG XÃ HỘI RỦI RO DO HIỆN TƯỢNG TỰ NHIÊN RỦI RO DO MÔI TRƯỜNG VẬT CHẤT RỦI RO DO MÔI TRƯỜNG PHI VẬT CHẤT RỦI RO CÓ THỂ KHỐNG CHẾ RỦI RO KHÔNG THỂ KHỐNG CHẾ RỦI RO CHUNG LÀ CÁC RỦI RO GẮN CHẶT VỚI MÔI TRƯỜNG KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, PHÁP LUẬT RỦI RO CỤ THỂ LÀ CÁC RỦI RO GẮN LIỀN VỚI CÁC LĨNH VỰC KINH DOANH CỤ THỂ THEO TÌNH CHẤT KHÁCH QUAN THEO HẬU QUẢ ĐỂ LẠI THEO NGUỒN GỐC PHÁT SINH THEO KHẢ NĂNG KHỐNG CHẾ THEO PHẠM VI XUẤT HIỆN PHÂN LOẠI RỦI RO Hình1.1. Phân loại rủi ro 1.3. Độ tin cậy Để đánh giá mức độ an toàn hay khả năng làm việc hiệu quả của một đối tượng nghiên cứu, người ta sử dụng khái niệm độ tin cậy. Độ tin cậy có thể khái quát là mức độ đáp ứng và duy trì các yêu cầu của chức năng của một công tác, của bộ phận hoặc của hệ thống. Nghiên cứu về rủi ro nhằm hạn chế các tác hại của rủi ro và nâng cao độ tin cậy của đối tượng của quản lý. Đảm bảo độ tin cậy của hệ thống sản xuất, thiết bị, máy móc hay một hệ thống quản lý là một vấn đề quan trọng. Giải quyết vấn đề này sẽ cho phép giảm tổn thất do ngừng sản xuất, giảm chi phí thay thế, chi phí tài chính phục vụ cho việc duy trì hoạt động, chi phí sửa chữa, giảm ngừng việc trong thời gian sử dụng khai thác. Thiết bị công nghệ có độ tin cậy thấp sẽ đe doạ sự an toàn lao động và đôi khi cả mạng sống con người, đưa đến những hậu quả không lường hết được về mặt kinh tế. Chú ý đến độ tin cậy là thể hiện trình độ quản lý ở mức phát triển cao. Để tăng độ tin cậy cần: - Có sự hợp tác chặt chẽ giữa người sử dụng, khai thác và người thiết kế, sản xuất các thiết bị hay hệ thống quản lý. - Phân tích các nguyên nhân chủ yếu, các dạng hư hỏng, các rủi ro tổn thất có thể xảy ra và hậu quả của chúng. - Phổ biến phương pháp thiết kế tin cậy đối với hệ thống quản lý máy và hệ thống sản xuất. Chi phí P(t)op 1 – Chi phí sản xuất thiết bị 2 – Chi phí sử dụng 3 – Cả hai loại chi phí P(t)op: độ tin cậy tối ưu 3 1 2 Độ tin cậy Cải thiện độ tin cậy sẽ đi liền với việc tăng chi phí thiết kế, chi phí sản xuất đồng thời giảm chi phí sử dụng, khai thác. Mối quan hệ giữa độ tin cậy và các chi phí sán xuất, chi phí sử dụng được thể hiện trong hình sau (hình l.2): Hình 1.2. Mối quan hệ giữa độ tin cậy và các chi phí sản xuất, sử dụng Khi nghiên cứu về đồ tin cậy của một hệ thống, người ta thường hay chú ý tới cơ cấu độ tin cậy của hệ thống. Xét một tổ hợp máy thực hiện một nhiệm vụ sản xuất nhất định, nếu độ tin cậy có thể xét chung cho cả tổ hợp thì coi hệ thống là một tổ hợp máy còn phần tử tử từng máy riêng biệt; Trong trường hợp tổ hợp máy có thể phân biệt thành các cụm khác nhau mà độ tin cậy của từng cụm có ảnh hưởng đến độ tin cậy của cả tổ hợp máy, khi đó khái niệm hệ thống để chỉ bản thân máy đó còn khái niệm phần tử để chỉ từng cụm máy riêng biệt. Nếu độ tin cậy của các phần tử đồng thời xác định độ tin cậy của hệ thống thì sẽ xác định cơ cấu độ tin cậy. Ví dụ một máy mà độ tin cậy của nó được xác định bằng độ tin cậy của động cơ, hệ thống truyền lực, hệ thống thuỷ lực,... Trạng thái các phần tử của một hệ thống n phần tử tại một thời điểm nào đó sẽ được biểu thị như một vectơ n chiều nhị phân. Tập hợp vectơ nhị phân được ký hiệu là Bn. Ví dụ một hệ thống tuỳ thuộc vào trạng thái của các phần tử và chỉ có trạng thái phù hợp hoặc trang thái không phù hợp. Mối liên hệ được biểu thị bằng hàm số: F: Bn ® {0,1} và được gọi là cơ cấu độ tin cậy hệ thống. Cơ cấu độ tin cậy có thể biểu thị dưới dạng giải tích, dưới dạng bảng hoặc dưới dạng sơ đồ khối. Hiểu biết cơ cấu độ tin cậy hệ thống là cần thiết để xác định độ tin cậy của một hệ thống. Trong phân tích độ tin cậy của các máy cơ bản vẽ có hệ thống sản xuất giản đơn thường sử dụng cách biểu thị dưới dạng sơ đồ khối; ngược lại trong trường hợp hệ thống sản xuất phức tạp rất thích hợp dùng mô tả bảng hoặc dưới dạng giải tích. Một hệ thống sản xuất phức tạp hầu như có thể thực hiện nhiệm vụ khi có ít nhất k phần tử nào đó trong n phần tử là tốt. Các hệ thống phức tạp theo quan điểm độ tin cậy là các cơ cấu dạng “k thuộc những" được ký hiệu (k/n). Cơ cấu dạng k/n, khi k < n gọi là cơ cấu độ tin cậy - đa chiều, cơ dạng n/n gọi là cơ cấu độ tin cậy - tuần tự, còn cơ cấu dạng 1/n gọi là cơ cấu độ tin cậy song song. Nếu cơ cấu hệ thống sản xuất có dạng k/n thì độ tin cậy của nó sẽ là Pk/n tức là xác suất để hệ thống an toàn sẽ bằng xác suất để hệ thống thuộc một trong những trạng thái trong đó có ít nhất k phần tử là an toàn Nếu các phần tử của hệ thống sản xuất là hoàn toàn độc lập thì Pk/n có dạng: Trong đó: P1, Pn: độ tin cậy các phần tử của hệ thống y(P1,Pn,i): tổng các tích có các phần tử là tổ hợp của P1, Pn chập i. Ví dụ cho i = 1,2,3,4 và n = 4 y(P1,Pn,1) = P1 + P2 + P3 + P4 y(P1,Pn,2) = P1P2 + P1P2P4 + P1P3P4 + P2P3P4 y(P1,Pn4) = P1P2 P3P4 Với cơ cấu tuần tự dạng n/n, độ tin cậy của hệ thống sẽ là: Với cơ cấu song song dạng 1/n, độ tin cậy của hệ thống sẽ là: Độ tin cậy là một đặc tính tổng hợp phụ thuộc vào một số yếu tố như độ chính xác, mức độ bền vững, mức độ đảm bảo khả năng thực hiện,...Một cách tổng quát có thể hiểu độ tin cậy của một hệ thống là một đặc tính đặc trưng cho khả năng thực hiện một cách hiệu quả các chức năng phức tạp của hệ thống đó trong một thời gian và tương ứng với một điều kiện nhất định. Một trong những nhiệm vụ của quản lý dự án là phải quản lý tiến độ, hay nói khác đi là quản lý các yếu tố thời gian thực hiện dự án. Trong các nghiên cứu về thời gian thực hiện dự án theo phương pháp sơ đồ mạng (SĐM), người ta sử dụng khái niệm "độ tin cậy về thời gian XD" Đặc điểm đặc trưng của thời gian sản xuất theo quan điểm độ tin cậy về thời gian XD là tính biến động của nó. Nhiều nghiên cứu đã chứng tỏ rằng cùng một công việc trong các đơn vị sản xuất, cùng một nhóm công nhân thực hiện nhưng mỗi lần khảo sát sẽ có thời gian thực hiện khác nhau kể cả lao động thủ công và máy móc. Bỏ qua hiện tượng này sẽ dẫn đến sự rối loạn trong sản xuất. Sự biến động về thời gian thực hiện ảnh hưởng nhiều đến năng suất và sự biến động thời gian càng lớn sẽ dẫn tới sự biến động về năng suất càng cao. Số đo (mức độ) độ tin cậy P của một dự án theo sơ đồ mạng (SĐM) là xác suất thời gian thực hiện dự án không dài hơn so với kế hoạch: P = P (T ≤ t) vớt T: thời gian thực hiện và t: thời gian kế hoạch Độ tin cậy Pl của từng công việc là xác suất để hoàn thành công việc thứ i trong thời hạn mà không làm phá vỡ kế hoạch thực hiện dự án theo SĐM Sự phá vỡ kế hoạch theo SĐM xuất hiện khi thời gian Ti kết thúc một công việc bất kỳ nào đó chậm hơn so với thời gian t, đối với nó Pl = R (Ti ≤ ti) i = l, 2,... n (l.4) Khi phân tích mạng coi tổng thời gian thực hiện từng công việc là những biến ngẫu nhiên có cùng phân bố mật độ xác suất. Khi đó ta dùng định lý giới hạn trung tâm trên cơ sở chấp nhận tổng các biến ngẫu nhiên có phân bố chuẩn. Biến chuẩn hoá Uk để tính xác suất nhận thời gian kế hoạch TKH đối với sự kiện k (có thể là sự kiện cuối cùng) được tính như sau: (1.5) TSK: thời hạn sớm nhất có thể xuất hiện sự kiện k sSi: độ lệch chuẩn cho thời gian sớm nhất có thể của sự kiện i Độ tin cậy của công việc khi nhận phân phối chuẩn có thể tính từ phân bố xác suất bằng: (1.6) Giới hạn của tích phân USi, Umi, Un dược xác định như sau: ; Umi = 0 ; (1.7) : độ lệch chuẩn công việc phụ thuộc chuỗi công việc tính theo thời gian sớm nhất : độ lệch chuẩn công việc tính theo thời gian thực tế. f(t) t tei Zsi và Zci, Zri Khái niệm độ tin cậy về thời gian thực hiện dự án được thể hiện trong hình sau: Hình 1.3. Sơ đồ mô tả khái niệm độ tin cậy về thời gian thực hiện dự án Zsi: dự trữ tự do Zci: dự trữ toàn phần Zsi: dự trữ (thực) độc lập 1.4. Khái niệm an toàn Theo Từ điển Tiếng Việt - Ngôn ngữ học Việt Nam của nhà xuất bản Từ điển bách khoa, an toàn là "bình yên không bị tai nạn, thiệt hại”; Thco từ điển Từ và ngữ Việt Nam của nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh an toàn là “yên ổn, không còn sợ tai hoạ"; Theo từ điền Tiếng Việt 2004 của Viện Ngôn ngữ học, an toàn là "yên ổn hẳn, tránh được tai nạn, tránh được thiệt hại". Trong SXKD, có thể hiểu an tòan là khả năng đảm bảo không xảy ra những rủi ro, tổn thất hoặc xảy ra rủi ro, tổn thất ở mức chấp nhận được và đảm bảo thực hiện các mục tiêu đã đề ra với xác suất đã cho. An toàn được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu: xác suất an toàn và độ an tòan. Xác suất an toàn có thể hiểu là xác suất cho phép đảm bảo thực hiện các mục tiêu đã đặt ra. Trong các ứng dụng thực tế, xác suất an toàn thường được biểu thị thông qua xác suất tin cậy Pt. Giữa xác suất an toàn (Pt) và xác suất rủi ro (Pr) có quan hệ tổng và được biểu thị thông qua biểu thức: Pa + Pr = 1 (l.8) Xác suất an toàn càng cao, xác suất rủi ro càng thấp và ngược lại. Độ an toàn là khái niệm để chỉ mức độ đảm bảo an toàn, không xảy ra rủi ro, tổn thất trong SXKD hoặc trong các công tác khác. Trong công tác quản lý SXKD có các khái niệm độ an toàn và kỹ thuật, độ an toàn về tài chính, độ an toàn chất lượng, độ an toàn vô giá thành, độ an toàn và thời gian thực hiện, độ an toàn có liên quan đến môi trường,... Để đo mức độ an toàn, có thể sử dụng chỉ số độ an toàn (A). Độ an toàn (A) có thể được biểu thị bằng nhiều cách khác nhau: có thể biểu thị bằng một phổ các con số chỉ mức độ an toàn trong SXKD hoặc bằng khái niệm chỉ mức độ an toàn từ thấp đến cao cho các lĩnh vực như giao thông, y tế hoặc bằng các ký hiệu, màu sắc khác nhau (vàng, da cam, đỏ) để chỉ mức độ an toàn về quân sự, an ninh, hoả hoạn. Chỉ số độ an toàn càng lớn thì mức độ an toàn càng cao và do đó khả năng xảy ra rủi ro càng thấp. 1.5.Phân biệt rủi ro và bất định Với mỗi hoạt động nào đó thường sẽ xảy ra một trong ba tình huống sau: Tình huống xác định là sự chắc chắn về kết quả sẽ đạt được trong tương lai. Tình huống rủi ro: không chắc chắn về kết quả sẽ đạt được trong tương lai nhưng có thể ước tính được xác suất xảy ra của các biến cố sẽ đạt được trong tương lai hoặc các viễn cảnh mà chúng ta mong muốn (nếu chúng ta tiến hành nghiên cứu một cách đầy đủ và khoa học). Tình huống bất định: không chắc chắn về kết quả sẽ đạt được trong lương lai đồng thời không thể ước tính được xác suất xảy ra của các biến cố trong tương lai. Rủi ro và bất định đều được hình thành do tình trạng thiếu các thông tin hoặc thiếu những hiểu biết về các vấn đề liên quan đến các hoạt động trong tương lai một cách chính xác (chắc chắn) như thiếu các hiểu biết và điều kiện kinh doanh, sự phát triển kỹ thuật, khả năng cung cấp VĐT,... Khái niệm bất định chỉ trạng thái nhận thức của mỗi cá nhân về nguy cơ rủi ro, vì vậy nó rất khó có thể đo lường trực tiếp. Khi tham gia vào các hoạt động phức tạp chẳng hạn như hoạt động kinh doanh, mỗi cá nhân có cách ứng xử rất khác nhau, có người rất thận trọng nhưng bên cạnh đó lại có những người mạnh dạn hơn và thậm chí có những người rất mạnh dạn hay còn được gọi là mạo hiểm và thậm chí có người được đánh giá là liều lĩnh. Nhìn chung, sự bất định có thể hiện diện trong hai mức độ khác nhau được minh họa trong bảng 1. 1 Bảng 1.1. Các mức độ của sự bất định Sự bất định Những đặc tính Ví dụ minh họa Mức 1 Có thể dự đoán được kết quả nhưng không biết xác suất Tai nạn giao thông, một số suy đoán trong kinh doanh Mức 2 Không dự đoán được kết quả và không biết được xác suất Sự thám hiểm không gian, các nghiên cứu về di truyền Mức độ bất định nảy sinh từ một loại rủi ro nào đó sẽ ảnh hưởng đến tổ chức phải đối mặt với rủi ro đó. Việc xác định mức độ bất định của mỗi rủi ro phụ thuộc vào năng lực đánh giá rủi ro của mỗi tổ chức. Mức độ bất định phụ thuộc vào khối lượng, loại thông tin có được để nhận ra những kết quả có thể có và khả năng xảy ra của các biến cố. Việc giảm bớt sự bất định có giá trị kinh tế lớn nhưng muốn giảm sự bất định đòi hỏi phải thu thập được nhiều thông tin liên quan đến biến cố đó. Có thể nói rằng hầu hết các nhân tố ảnh hưởng đến sự bất định đều tồn tại ngay trong bản thân sự vật, hiện tượng. Các nhân tố gây ra sự bất định là nhiều và rất khác nhau trong đó chủ yếu là do sự thiếu thông tin khi nghiên cứu, ngoài ra độ dài của thời gian nghiên cứu và loại hình SXKD cũng là những nhân tố quan trọng mang đến nhiều yếu tố bất định. Nhìn chung bất định là một khái niệm để chỉ trạng thái nghi ngờ về khả năng tiên đoán kết quả đạt được trong tương lai của những hành động hiện tại. Sự bất định xuất hiện khi một cá nhân nhận thức được sẽ có khả năng xảy ra các biến cố nhưng không dự đoán được xác suất xảy ra cũng như mức độ tổn thất của các biến cố đó. Việc phân biệt giữa rủi ro và bất định cũng không hoàn toàn cụ thể. Có những biến cố ban đầu là bất định nhưng trong quá trình nghiên cứu lại xác định được xác suất xảy ra và chuyển thành rủi ro và ngược lại. Vì vậy, trong các nội dung nghiên cứu của luận án không chú ý nhiều đến việc phân biệt này mà chủ yếu tập trung vào việc nghiên cứu các rủi ro và các biện pháp để quản lý rủi ro nói chung và quản lý rủi ro trong hoạt động của các doanh nghiệp XD nói riêng. 1.6 Khái niệm quản lý rủi ro Các rủi ro có ảnh hưởng rất lớn đến các tổ chức, các doanh nghiệp, các hoạt động SXKD ở chỗ nó gây ra những tổn thất đòi hỏi phải tốn kém những khoản chi phí không nhỏ để khắc phục những tổn thất đó, các chi phí này được gọi là chi phí rủi ro Chi phí rủi ro là khoản tổn thất đối với tổ chức khi có rủi ro. Thông thường chi phí rủi ro có hai dạng: chi phí rủi ro xác định và chi phí rủi ro khó xác định. Chi phí rủi ro xác định là khoản tiền mà tổ chức hoặc doanh nghiệp bị tổn thất khi có rủi ro xảy ra như tài sản bị phá huỷ, con người bị tai nạn, Khoản chi phí này có thể xác định được thông qua giá trị các tài sản bị tổn thất hoặc số tiền đền bù thiệt hại cho người bị tai nạn. Chi phí rủi ro khó xác định là khoản chi phí do sự lo sợ rủi ro gây ra. Đối với một cá nhân, chi phí rủi ro khó xác định thể hiện bằng sự lo sợ, mệt mỏi, mất ngủ, dẫn đến những hành động không sáng suốt có thể gây thiệt hại đến tài sản và tính mạng hoặc khoản chi phí bảo hiểm đã đóng những không có rủi ro xảy ra. Đối với một tổ chức, chi phí rủi ro khó xác định xuất hiện khi có sự lo sợ rủi ro xảy ra dẫn đến việc bố trí các nguồn tài nguyên bất hợp lý, đưa ra các quyết định yếu kém về mặt tổ chức hoặc bỏ qua các cơ hội đầu tư vào các dự án có lợi (thường thể hiện bằng hành động tiến hành dự trữ lớn, mua bảo hiểm cao,). Nhìn chung, khoản chi phí rủi ro này rất khó đo lường một cách chính xác do các tổn thất thường mang tính dây chuyền và trong nhiều trường hợp là các yếu tố định tính rất khó lượng hoá. Để đối phó với các rủi ro nhằm hạn chế tối mức tối đa các tổn thất có thể xảy ra, các tổ chức nhất là các tổ chức SXKD phải thực hiện các biện pháp quản lý rủi ro. Quản lý rủi ro (QLRR) được định nghĩa là một sự cố gắng có tổ chức để nhận ra và lượng hoá các khả năng xảy ra rủi ro đồng thời đề xuất các kế hoạch nhằm loại trừ hoặc giảm bớt các hậu quả mà rủi ro có thể gây ra. Để đề phòng rủi ro, biện pháp thông dụng thường được các cá nhân và tổ chức thực hiện là mua bảo hiểm nhằm chuyển các rủi ro (nếu có) sang các hãng bảo hiểm. Với biện pháp này, việc đối phó với các rủi ro mang tính chất bị động vì việc bảo hiềm chỉ có hiệu quả khi rủi ro đã xảy ra. Trái lại, QLRR là cách tiếp cận với các rủi ro mang tính tích cực, đó là chủ động dự kiến trước những mất mát có thể xảy ra và tìm cách giảm nhẹ hậu quả của chúng. Khi đó, bảo hiểm không còn là phương pháp duy nhất để hạn chế rủi ro mà chỉ là một trong những phương pháp quan trọng và có hiệu quả để bù lại phần kinh phí do bị mất mát trong trường hợp có rủi ro xảy ra. Theo một số tài liệu, QLRR đã được thực hiện một cách không chính thức ngay từ thuở ban dầu của loài người nhưng hoạt động này được phát triển rầm rộ vào thập niên 60, 70 của thế kỷ XX. Theo giáo sư H.Wayne Snider thuộc đại học Temple của Hoa Kỳ thì QLRR bắt đầu đi vào một giai đoạn mang tính quốc tế từ giữa những năm 70 - ông gọi đó là “giai đoạn toàn cầu hoá". Cũng theo Snider, hiệp hội quản trị rủi ro và bảo hiểm (viết tắt là RIMS) - hiệp hội gồm những chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực này - là hiệp hội đi đầu trong việc thiết lập những quan hệ với các nhà QLRR châu Âu và châu Á vào những năm 70 của thế kỷ XX. Trong những năm 90, các hoạt động QLRR tiếp tục phát triển, hàng loạt các hiệp hội QLRR ra đời ở Mỹ như hiệp hội QLRR công cộng (viết lắt là PRIMA), hội QLRR về chăm sóc sức khoẻ Mỹ (viết tắt là ASHRM), hiệp hội QLRR và bảo hiểm của trường đại học (viết tắt là URMIA), trung tâm quốc gia về QLRR và bảo hiểm cộng đồng,... đã làm cho hoạt động này trở thành một hoạt động không thể thiếu đối với các tổ chức và doanh nghiệp nhất là các tổ chức có qui mô lớn. Mặc dù có nhiều chức năng quản trị cơ bản giống như các hình thức quản trị khác trong các tổ chức hoặc các doanh nghiệp như quản trị chiến lược, quản trị hoạt động,...nhưng mục đích cuối cùng của các nhà QLRR là giúp cho các tổ chức, các doanh nghiệp giảm tối đa các chi phí về rủi ro dưới mọi hình thức và làm tăng tối đa những lợi ích của rủi ro nhờ mạo hiểm. Nhìn chung, quá trình QLRR gồm 4 bước sau: Nhận dạng rủi ro ® Phân loại rủi ro ® Đo lường và đánh giá rủi ro ® Xử lý rủi ro .Nhận dạng rủi ro là quá trình xác định liên tục và có hệ thống các rủi ro của một dự án (hoặc doanh nghiệp). Các hoạt động nhận dạng rủi ro nhằm thu thập các thông tin đầy đủ và nguồn rủi ro, các yếu tố hiểm họa và nguy cơ rủi ro để từ đó đưa ra một danh sách các rủi ro mà dự án (hoặc doanh nghiệp) phải chịu. Danh sách này càng đầy đủ và hệ thống bao nhiêu, cũng giúp cho quá trình QLRR hiệu quá bấy nhiêu. Thông thường một nhà QLRR thường khó có thể xác định được hết các rủi ro của dự án nên không thể có biện pháp quản lý đối với các rủi ro chưa được phát hiện do đó đã vô tình giữ lại các rủi ro này, đó là điều nên tránh. Vì vậy một phương pháp nhận dạng rủi ro có hệ thống là rất cần thiết. Có một số phương pháp nhận dạng rủi ro đã được áp dụng có hiệu quả như phương pháp sử dụng bảng liệt kê, phương pháp lưu đồ phương pháp thanh tra hiện trường,... trong đó phương pháp sử dụng bảng liệt kê tỏ ra đơn giản và đã được một số tổ chức QLRR lớn trên thế giới áp dụng. Một bảng liệt kê các rủi ro mà tổ chức có thể gặp phải thường được hình thành từ một bảng câu hỏi được thiết kế phục vụ cho một mục đích nhất định. Thông thường, bảng câu hỏi yêu cầu các thông tin cần thiết để nhận dạng và xử lý các đối tượng rủi ro. Các bảng câu hỏi thường được thiết kế nhằm mục đích nhắc các nhà QLRR phát hiện ra các tổn thất có thế có, thu thập thông tin diễn tả hình thức và mức độ rủi ro mà dự án có thể sẽ gặp phải, dự kiến một chương trình quản trị rủi ro hiệu quả. Đối với các rủi ro thuộc về kỹ thuật, chỉ cần lập bảng liệt kê với các dự kiến về mức độ thiệt hại và tần số tổn thất. Đối với các rủi ro do các nguyên nhân ngẫu nhiên tác động từ bên ngoài và các rủi ro xuất phát từ nguyên nhân do thủ tục hành chính pháp lý, vấn đề cổ phần phức tạp hơn và đòi hỏi phải có một nhà chuyên môn được đào tạo về lĩnh vực QLRR nghiên cứu, đề xuất. Sau công đoạn nhận dạng rủi ro, một bảng liệt kê tương đối đầy đủ các rủi ro có thể xảy ra đối với dự án (hoặc doanh nghiệp) đã dược hình thành, trên cơ sở đó cần phân loại các rủi ro theo các tiêu chí cụ thể (theo hậu quả để lại, theo nguồn gốc phát sinh, theo khả năng quản trị,...) để có biện pháp đánh giá và xử lý phù hợp. Nhận dạng và phân loại rủi ro là bước khởi đầu và có ý nghĩa quan trọng trong quá trình quản trị rủi ro, nó cho biết một danh sách tương đối đầy đủ về các rủi ro có thể xảy ra đối với một dự án hoặc một tổ chức nào đó. Tuy nhiên, các thông tin đó chưa đủ để các nhà quản lý đối phó với các rủi ro có thể xảy ra. Để có thể đề ra các biện pháp xử lý rủi ro có hậu quả cần có thêm các thông tin đó đo lường mức độ của rủi ro đối với tổ chức. Cụ thể là đo lường tần số tổn thất có thể xảy ra (đối với rủi ro thuần tuý) hoặc đo lường tần số của các kết quả tiêu cực và tích cực (đối với rủi ro suy tính); Xác định mức độ nghiêm trọng của tổn thất, hoặc độ lớn của kết quả. Để có thể đo lường tần số tổn thất và mức độ nghiêm trọng của tổn thất, các nhà QLRR thường phải sử dụng các kỹ thuật xác suất và thống kê toán học. Các thông tin về tần số của các tổn thất có thể xảy ra và mức độ nghiêm trọng của tổn thất đó rất có ích trong việc xác định các phương pháp tốt nhất độ quản lý các nguy cơ rủi ro. Từ các số liệu này, có thể ước lượng giá trị trung bình của tổn thất, đó là mức trung bình giá trị bị tổn thất nếu có rủi ro xảy ra hay có thể hiểu đó là mức trung bình để phòng tránh rủi ro. Giá trị trung bình này được dùng làm cơ sở để QLRR, cân nhắc, tính toán lựa chọn biện pháp xử lý các rủi ro. Nếu giá trị trung bình của tổn thất lớn hơn lượng tiền bảo hiểm phải đóng thì tổ chức nên mua bảo hiểm, nếu nhỏ hơn thì tổ chức có thể giữ rủi ro lại để tự xử lý hoặc nếu giá trị trung bình là thấp thì có thể mạo hiểm chấp nhận rủi ro để SXKD. Có thề nói mục đích cụ thể của việc đo lường đánh giá rủi ro là nhằm xác định một cách chính xác các ước lượng giá trị trung bình của tồn thất để từ đó đề xuất, lựa chọn các biện pháp xử lý rủi ro hiệu quả. Tuy nhiên, nhà QLRR cần phải biết rằng độ chính xác của các ước lượng này phụ thuộc vào lượng thông tin nhà QLRR có thể có. Nói chung tổn thất càng thường xuyên xảy ra, càng có nhiều thông tin để ước lượng các yếu tố rủi ro và ngược lại nhưng nhiều khi có sẵn các thông tin mà các ước lượng tần số và mức độ nghiêm trọng của tổn thất vẫn bị sai số vì bản chất của rủi ro là hoàn toàn ngẫu nhiên luôn nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người. Việc không xác định được giá trị đúng của tần số tổn thất do sai số là hoàn toàn có thề xảy ra, giá trị thực của các tổn thất có thể biến động xung quanh ước lượng của giá trị trung bình. Cả hai số liệu về tần số và mức độ nghiêm trọng của tổn thất đều cần thiết để đánh giá mức độ quan trọng của một nguy cơ rủi ro. Tuy nhiên sự quan trọng của một nguy cơ rủi ro thường phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tổn thất chứ không phụ thuộc nhiều vào tần số xảy ra. Một rủi ro gây ra nhiều thiệt hại to lớn đáng quan tâm hơn nhiều so với một rủi ro thường xuyên xảy ra nhưng chỉ gây ra những tổn thất nhỏ. Xử lý rủi ro: Tuỳ từng trường hơp, quá trình xử lý rủi ro có thể là các nội dung: - Chuyển rủi ro sang các chủ thể kinh tế khác thông qua các hợp đồng. Tuỳ theo loại rủi ro mà đối tượng chịu rủi ro có thể chuyển rủi ro sang các cá nhân hoặc tổ chức khác như ngân hàng hoặc các công ty bảo hiểm (đối với rủi ro về tài chính, kỹ thuật) nếu các đối tượng đó chịu nhận về mình một số rủi ro để đổi lấy những lợi ích khác. - Giữ lại các rủi ro có mức độ thiệt hại và tần số tổn thất nhỏ trên cơ sở đề ra các biện pháp cụ thể như chuẩn bị các phương án thay thế hoặc chuyển sang các phương án ít rủi ro hơn, đa dạng hoá sản phẩm hoặc tìm các nguồn tài trợ để trang trải nếu có rủi ro xảy ra, phân phối rủi ro về các bộ phận đồng thời cử các cán bộ chuyên trách về QLRR tham dự vào quá trình thực hiện dự án. Việc lựa chọn hình thức xử lý rủi ro căn cứ chủ yếu vào vần đề kinh phí và năng lực của người quản lý dự án. Cùng với việc lựa chọn hình thức xử lý rủi ro cần có biện pháp kiểm tra, theo dõi quá trình QLRR trong khi thực hiện dự án nhằm xử lý kịp thời những rủi ro có thể phát sinh mà chưa lường trước được khi phân tích nhận dạng rủi ro. QLRR là một hình thức quản trị luôn chủ động đối với những rủi ro, qua đó hướng tổ chức đi đến mục tiêu đã đặt ra một cách hiệu quả nhất. Ngày nay, cùng với quản trị chiến lược và quản trị hoạt động, QLRR là một hoạt động hết sức cần thiết đối với mỗi một tổ chức hoạt động trong nền kinh tế thị trường vốn có rất nhiều yếu tố rủi ro bất định. 1.7. Kháí niệm mạo hiểm (take risks or venture) Ai không dám mạo hiểm, người đó không có chiến thắng vinh quang, Điều đó đã được kiểm nghiệm qua thực tế và luôn đứng trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Theo từ điển tiếng Việt 2004 của viện Ngôn ngữ học, mạo hiểm là "liều lĩnh làm một việc mà biệt là có thể mang lại hậu quả tai hại" hay theo từ điển Từ và ngữ Việt Nam của giáo sư Nguyễn Lân, mạo hiểm là "liều lĩnh, không tính đến sự nguy hạn”. Trong SXKD, chúng ta có thể hiểu mạo hiểm là hành động có tính đến rủi ro. Khác hẳn với may rủi, để có thể mạo hiểm trong SXKD cần phải biết đánh giá các khả năng rủi ro có thể xảy ra và tính toán được xác suất kết quả có thể đạt được ứng với mỗi hành động hay nói một cách khác là phải biết QLRR. Khi mức độ rủi ro càng cao, mức độ mạo hiểm càng lớn nhưng bù lại, khả năng thu lợi nhuận càng cao. Nhìn chung, mạo hiểm là hành động chấp nhận rủi ro một cách có tính toán để SXKD thu lợi nhuận cao. Làm rõ ra các rủi ro Là một quá trình nhận ra được tất cả rủi ro có nguy cơ xảy ra trong dự án mà có thể đối phó và có thể dùng lý lẽ để giải thích được. Bất cứ một rủi ro tiềm ẩn nào không phải lúc nào cũng là mối đe doạ lớn tới sự thành công của một dự án mà cũng chẳng là một vấn đề mà tổ dự án không xem xét tới. Để thấy được tất cả các nguy cơ rủi ro trong dự án, người ta yêu cầu các nhà chỉ đạo dự án cung cấp danh sách cụ thể về các vấn đề có liên quan tới phạm vi chịu trách nhiệm của riêng từng người. Rồi họ xem xét lại các danh sách để khẳng định rằng vấn đề rủi ro đang thực sự gây nguy hiểm tới sự thành công của dự án và đang được tổ dự án chỉ đạo đối phó. Phương pháp này được thực hiện bằng cách sử dụng Cơ cấu Phân chia Công việc (CPC)* như là một cơ cấu của vấn đề để tìm ra các hiểm hoạ cụ thể. Nhà quản lý dự án hay nhà đối phó rủi ro (đối với các dự án lớn) sẽ phỏng vấn từng nhà chỉ đạo dự án để tìm ra các vấn đề tiềm ẩn đôí với mỗi yếu tố cơ bản của CPC. Với mục đích đánh giá rủi ro mọi người sẽ theo một danh sách tổng hợp về nguy cơ rủi ro. Đánh giá mức độ của rủi ro Là sự đánh giá xem nếu một rủi ro xảy ra sẽ thiệt hại thế nào, là một phương pháp để nhận ra khả năng giới hạn ảnh hưởng đối với mỗi vấn đề rủi ro. Khả năng giới hạn chỉ ra mức độ rất có khả năng xảy ra mà rủi ro sẽ cụ thể hoá và được biểu thị bằng các thuật ngữ có liên quan và có định lượng. Ảnh hưởng của rủi ro là cách đánh giá về mức độ dự án sẽ chịu rủi ro là bao nhiêu nếu như vấn đề rủi ro được cụ thể hoá. Các ảnh hưởng được diễn giải trong mối quan hệ về chi phí cùng với/ hoặc kế hoạch và/ hoặc hiệu quả thực hiện có tính chuyên môn. Để đánh giá các vấn đề rủi ro, cách trực tiếp nhất là phải dự đoán được khả năng và ảnh hưởng đối với mỗi vấn đề rủi ro đã được xác định bằng cách sử dụng kỹ thuật hoặc bằng cách phán xét và kinh nghiệm giải quyết. Thu thập các dữ liệu có liên quan và các phân tích cơ bản có thể cung cấp hướng “phán xét đúng nhất này” cho việc đánh giá rủi ro. Nhà quản lý dự án hay nhà đối phó rủi ro sẽ phân thích nguy cơ rủi ro của dự án và công nhận (sử dụng quyết định) khả năng và ảnh hưởng của mỗi rủi ro. 1.10. Lựa chọn vấn đề rủi ro Là sự lựa chọn, một phương pháp xác định cách thích hợp để đối phó với các rủi ro chính của dự án mà các rủi ro này thực sự gây nguy hiểm tới sự thành công của dự án, nó dễ dược tổ dự án giải quyết và xét cho đến cùng đó là phương sách có thể giải quyết rủi ro. Việc này sẽ dẫn đến một loạt các rủi ro có thể được giải quyết bằng phương pháp đối phó rủi ro của dự án. Một loạt rủi ro sẽ được sử đổi trong quá trình thực hiện vì trong lúc mộ số rủi ro biến 1.10. Lựa chọn vấn đề rủi ro Là sự lựa chọn, một phương pháp xác định cách thích hợp để đối phó với các rủi ro chính của dự án mà các rủi ro này thực sự gây nguy hiểm tới sự thành công của dự án, nó dễ dược tổ dự án giải quyết và xét cho đến cùng đó là phương sách có thể giải quyết rủi ro. Việc này sẽ dẫn đến một loạt các rủi ro có thể được giải quyết bằng phương pháp đối phó rủi ro của dự án. Một loạt rủi ro sẽ được sử đổi trong quá trình thực hiện vì trong lúc mộ số rủi ro biến mất thì một số khác lại xuất hiện. Đối với một số rủi ro, nhà quản lý dự án sẽ gặp khó khăn trong việc đưa ra đường lối chỉ đạo chống lại chúng. Theo lẽ thường thì tổ dự án sẽ phải đưa ra được đánh giá chung về tất cả những rủi ro ban đầu rồi lựa ra một tập hợp rủi ro thích hợp để đối phó. Dự kiến phương pháp tránh rủi ro Là một quá trình cần thiết để làm giảm bớt đi khả năng xuất hiện đối với mỗi rủi ro đã lựa chọn để giải quyết. Mỗi một phạm vi chuyên môm xác định được những hành động nào nên được tiến hành để tránh hoặc để giảm khả năng xuất hiện rủi ro được chọn lựa giải quyết. Người ta cũng phải xét hiệu quả sinh lợi cho hướng tránh rủi ro sắp tới. Trong việc xác định được phương pháp này, không một giải pháp cụ thể nào được đưa ra mà nó vượt qua cách bố trí hợp lý, quyết định sử lý có lôgíc. Việc xác định kế hoạch đối phó bất trắc xảy ra và các điều kiện tiến hành/ kết thúc 2.1 Kế hoạch đối phó bất trắc xảy ra Lập kế hoạch đối phó và quản lý rủi ro cho ta thấy những công việc mà phải làm để giảm thiểu các ảnh hưởng gây ra do rủi ro mà nó đã nảy sinh ra như là một vấn đề của dự án. Thêm vào đó, người ta phải xác định các điều kiện bắt đầu/ hoàn thành một hoạt động. Các nhà chỉ đạo mỗi một chuyên môn xác định họ phải thực hiện các hành động đối phó nào với những bất trắc xảy ra mà họ phải có trách nhiệm giải quyết. Bất cứ một giải pháp cụ thể nào được đề xuất mà nó lại vượt ra ngoài việc tiến hành bình thường, cách bố trí hợp lý và quyết định sử lý với mục đích nhận ra phương pháp giải quyết. Điều này dẫn đến kế hoạch đối phó với mỗi rủi ro bất ngờ được chọn nhằm giải quyết rủi ro rồi xác định điều kiện nào phải giữa để bất đầu tiến hành và kết thúc kế hoạch đối phó với rủi ro bất ngờ. 2.2. Tìm ra dấu vết rủi ro và báo cáo cách thức xác định rủi ro Là một phương pháp trong đó hiện trạng rủi ro phải được giám sát để xác định liệu phương pháp tránh rủi ro đã được xác định còn phù hợp cho việc giải quyết các rủi ro hiện tại và liệu kế hoạch đối phó với rủi ro bất ngờ còn có tác dụng đối với các rủi ro được sử lý. Bằng biện pháp này người ta tìm ra biện pháp trong đó sự nỗ lực điều chỉnh này phải được hoàn thành và các tình trạng rủi phải được thu thập, báo cáo, và cân nhắc. Các rủi ro chính phải được báo cáo trong Báo cáo Phân tích Vấn đề Rủi ro. Tất cả các nhà quản lý chuyên môn xác định rõ đặc điểm, tính chất cách tìm ra từng rủi ro như thế nào. Nhà quản lý dự án (hoặc nhà xử lý dự án) sẽ chỉ rõ tất cả các tình trạng rủi ro trong bản báo cáo sẽ được thu thập, phổ biến và được chú ý như thế nào trong các buổi họp duyệt lại dự án. C Cụ thể là, việc theo dõi xử lý rủi ro sẽ được hoàn thành thông qua cơ sở dữ liệu xử lý rủi ro có chứa dữ liệu thích đáng đối với một vấn đề rủi ro. Từng phần của dữ liệu cơ bản sẽ được cập nhật thường kỳ khi bản báo cáo về các rủi ro được đưa ra. Điều này sẽ dẫn đến việc định rõ mỗi rủi ro sẽ được tìm ra như thế nào và các hoạt động đối phó với rủi ro sẽ được hỗ trợ ra làm sao và được xét duyệt ở cấp dự án nào. 2.3. Tổ chức quản lý rủi ro và xác định trách nhiệm Là một quá trình xác định việc tổ chức giải quyết rủi ro và chịu trách nhiệm đối với việc giải quyết rủi ro. Nhiệm vụ của nhà quản lý dự án (nhà xử lý rủi ro) là phải chỉ ra được các tổ chức giải quyết rủi ro và trách nhiệm liên đới đối với từng các nhân. điều này sẽ đẫn đến việc lập ra biểu đồ và bảng về chịu trách nhiệm liên đới (Ma trận chịu trách nhiệm liên đới đối với việc xử lý rủi ro). 2.4. Quản lý rủi ro và chuẩn bị dữ liệu. Việc cung cấp chính của việc lập kế hoạch đối phó với những rủi ro là một kế hoạch được chứng minh bằng tài liệu mà nó hỗ trợ các tất cả các thành viên trong tổ dự án có nhận thức chung rõ ràng về cách rủi ro được giải quyết dựa vào dự án cũng như là vai trò của họ trong kế hoạch này, ví dụ như là trách nhiệm cụ thể của họ. Dữ liệu cơ sở sẽ được chuẩn bị thu thập và báo cáo tất cả dữ liệu đối phó với rủi ro. Nhà quản lý dự án (nhà xử lý rủi ro) sẽ chịu trách nhiệm về nội dung kế hoạch đối phó rủi ro có cơ sở lý luận. Phương pháp này sẽ đưa ra sự bố trí về các dữ liệu đối phó vối các rủi ro. 3. Chỉ đạo đối phó với rủi ro Việc chỉ đạo đối phó với rủi ro bất đầu bằng việc thi hành giảm bớt đi bất cứ khả năng rủi ro hoặc các hoạt động giảm thiểu ảnh hưởng rủi ro. Thực hiện hướng tránh rủi ro: người ta đề xuất nhiều cách giảm khả năng rủi ro khác nhau được dựa trên cơ sở cách thức đối phó với rủi ro được xác định trước và được thực hiện theo đúng kế hoạch, có nghĩa là việc làm nhẹ bớt triển khai đồng bộ với việc thực hiện giảm nhẹ khả năng xảy ra rủi ro; làm dịu đi để giảm tác ảnh hưởng hoăc chấp nhận nó để mà chấp nhận hậu quả. Báo cáo và đánh giá rủi ro: trong suốt thời gian thực hiện dự án, báo cáo rủi ro phải được triển khai định kỳ dựa trên cở các dữ liệu rủi ro có chứa thông tin về tất cả rủi ro cụ thể của dự án. Các báo cáo rủi ro phải gồm dữ liệu thích đáng về mỗi rủi ro chuẩn bị được giải quyết. Các báo cáo trở thành vấn đề nghị sự cả về mức độ chuyên môn lẫn mức độ nhìn nhận dự án tại đó tình trạng rủi rẽ được bàn bạc. Nhiều bản báo cáo sẽ không thay đổi vì những phạm vi cụ thể đòi hỏi những dữ liệu cập nhật do thành viên tổ dự án chịu trách nhiệm riêng. Thành viên này sẽ trình các báo cáo về hiện trạng rủi ro xác đáng. Người quản lý dự án (người giải quyết rủi ro) sẽ chỉ ra hiện trạng rủi ro được xác định như là nhiệm vụ trong quá trình xem xét của khách hàng. Các nhà hợp đồng phụ sẽ báo cáo hiện trạng rủi ro theo cách tương tự đúng như cách tổ chức chuyên môn. Thực thi kế hoạch chống rủi ro bất ngờ: thành viên tổ dự án có trách nhiệm với vấn đề rủi ro họ dã được giao giải quyết sẽ báo cáo với nhà quản lý đự án (người giải quyết rủi ro) việc thực thi kế hoạch đối phó với rủi ro bất ngờ. Đánh giá các hoạt động kế hoạch chống rủi ro bất ngờ: Sự đánh giá về hiệu lực mỗi kế hoạch chống rủi ro bất ngờ đã thực hiện được đưa ra và được báo các trên cơ sở định kỳ. Trách nhiệm của mỗi cá nhân về mỗi vấn đề rủi ro riêng biệt định giá hiệu quả các hoạt động được thực hiện trong kế hoạch đối phó với rủi ro bất ngờ và báo cáo mức độ hiệu lực trong báo cáo về rủi ro. Thường xuyên đánh giá sẽ phù hợp với cách báo cáo thường xuyên. Nhà quản lý dự án (người giải quyết rủ ro) sẽ xem xét định kỳ các báo cáo đánh giá này do tính kiên định của việc thực hiện. Trong mỗi báo cáo về rủi ro, hiện trạng tồn tại rủi ro mà kế hoạch các hoạt động nên tóm tắt các hoạt động bước đầu giảm thiểu các ảnh hưởng của các rủi ro cụ thể. Xác định lại các kế hoạch đối phó với rủi ro bất ngờ: từng nhà lãnh đạo dự án sẽ thực hiện quá trình xác định lại kế hoạch đối phó với rủi ro bất ngờ vì mỗi vấn đề rủi ro nên được yêu cầu giải quyết. Bảo hiểm trong hoạt động xây dựng Bộ Tài chính trong Thông tư số 65/TC-ĐTPT ngày 02 tháng 11 năm 1996 Hướng dẫn Bảo hiểm công trình xây dựng. Thông tư này quy định chung như sau: 1. Khi tiến hành đầu tư và xây dựng chủ đầu tư các dự án đầu tư phải mua bảo hiểm công trình xây dựng tại Công ty bảo hiểm được phép hoạt động tại Việt Nam. Riêng các dự án đầu tư xây dựng nhà ở của tư nhân, Nhà nước khuyến khích mua bảo hiểm công trình xây dựng. Các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài áp dụng theo quy định của pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Các dự án đầu tư sử dụng vốn Nhà nước sẽ không được cấp vốn ngân sách nhà nước và vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước cho các khoản thiệt hại rủi ro thuộc phạm vi phải mua bảo hiểm công trình. 2. Phí bảo hiểm công trình xây dựng là một bộ phận vốn đầu tư của dự án, được tính trong tổng dự toán (dự toán) công trình được duyệt. Trường hợp chủ đầu tư uỷ quyền cho nhà thầu mua bảo hiểm thì phí bảo hiểm được tính trong giá trị gói thầu. Phí bảo hiểm được xác định theo quy định hiện hành của Bộ Tài chính và là mức phí cao nhất để chủ đầu tư tiến hành mua bảo hiểm. Các tổ chức, cá nhân nhận thầu xây lắp, tư vấn, cung ứng vật tư thiết bị phải mua bảo hiểm cho vật tư, thiết bị, nhà xưởng phục vụ thi công, bảo hiểm tai nạn đối với người lao động, bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba, bảo hiểm cho sản phẩm khảo sát, thiết kế... trong quá trình thực hiện dự án. Phí bảo hiểm tính vào chi phí sản xuất. Các quy định cụ thể như sau: 1. Đối tượng mua bảo hiểm 1.1. Chủ đầu tư: - Các dự án đầu tư sử dụng vốn Nhà nước. - Các dự án đầu tư của Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần và Hợp tác xã. - Các dự án đầu tư của tư nhân. 1.2. Các tổ chức, cá nhân có liên quan đến các dự án đầu tư: - Tư vấn xây dựng. - Cung ứng vật tư thiết bị. - Xây lắp. 2. Loại hình bảo hiểm: 2.1. Chủ đầu tư phải mua những loại bảo hiểm sau: - Bảo hiểm công trình xây dựng trong quá trình thực hiện đầu tư (bao gồm cả trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba do công trình xây dựng gây ra) để ứng phó với những thiệt hại do những rủi ro bất ngờ và không lường trước được như cháy, động đất, lũ lụt... Phí bảo hiểm tính vào giá trị công trình và được quyết toán trong khoản mục chi phí khác. - Bảo hiểm vật tư, thiết bị xây dựng thuộc trách nhiệm quản lý của chủ đầu tư trong quá trình vận chuyển từ nơi mua (nhận hàng) đến chân công trình và đang bảo quản trong kho. Phí bảo hiểm được tính vào giá của vật tư thiết bị. 2.2. Các tổ chức, cá nhân có liên quan đến các dự án đầu tư phải mua các loại bảo hiểm sau: - Bảo hiểm tài sản thuộc trách nhiệm quản lý như vật tư, thiết bị, nhà xưởng phục vụ thi công... - Bảo hiểm trách nhiệm bao gồm: bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba trong quá trình thi công; bảo hiểm tai nạn đối với người lao động của các tổ chức nói trên trong thời gian được bảo hiểm; bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của các tổ chức tư vấn đầu tư xây dựng. Phí bảo hiểm tính vào chi phí sản xuất, kinh doanh của các tổ chức, cá nhân nói trên. 3. Phương thức mua bảo hiểm, thanh toán phí bảo hiểm: 3.1. Quy tắc, điều khoản, phí bảo hiểm: Thực hiện theo quy định hiện hành của Bộ Tài chính. 3.2. Thủ tục mua bảo hiểm: Trường hợp không có thoả thuận nào khác giữa đối tượng mua bảo hiểm và công ty bảo hiểm thì thủ tục bảo hiểm được áp dụng như sau: a) Đối với chủ đầu tư: Chủ đầu tư trực tiếp hoặc uỷ quyền cho nhà thầu mua bảo hiểm công trình xây dựng tại công ty bảo hiểm do chủ đầu tư lựa chọn. Người mua bảo hiểm gửi cho công ty bảo hiểm các hồ sơ sau: - Sơ đồ mặt bằng công trình. - Văn bản tóm tắt về kết cấu và biện pháp thi công công trình. - Tổng dự toán công trình được duyệt hoặc giá trúng thầu. - Hợp đồng mua vật tư thiết bị. - Bản trích lục phần bảo hiểm trong hợp đồng xây dựng. - Những văn bản cần thiết khác theo yêu cầu của quy tắc bảo hiểm. Căn cứ vào dự toán phí bảo hiểm, biểu phí bảo hiểm và hồ sơ nói trên, công ty bảo hiểm tính toán mức phí bảo hiểm và cấp đơn bảo hiểm cho người mua bảo hiểm. b) Đối với các tổ chức, cá nhân có liên quan đến dự án đầu tư: người mua bảo hiểm gửi cho công ty bảo hiểm các hồ sơ sau: - Bản kê số lượng, giá trị vật tư, máy móc, thiết bị thi công trên công trường. - Bản danh sách lao động tham gia mua bảo hiểm. - Dự kiến giá trị tài sản xung quanh công trường có thể tổn thất trong quá trình thi công. - Bản kê những dự án đã thực hiện trong 5 năm gần nhất. - Những văn bản cần thiết khác theo yêu cầu của quy tắc bảo hiểm. Công ty bảo hiểm xem xét, đánh giá và định mức phí bảo hiểm, cấp đơn bảo hiểm cho người mua bảo hiểm. 3.3. Thanh toán phí bảo hiểm: - Đối với phí bảo hiểm vật tư, thiết bị phí bảo hiểm được thanh toán đầy đủ và đúng hạn theo quy định trong đơn bảo hiểm. - Đối với bảo hiểm công trình xây dựng, phí bảo hiểm được thanh toán một hoặc nhiều lần theo quy định trong đơn bảo hiểm và kế hoạch năm được duyệt. - Đối với các loại bảo hiểm khác, phí bảo hiểm được thanh toán theo quy định trong đơn bảo hiểm. 4. Bồi thường: - Khi xảy ra sự cố thuộc trách nhiệm bảo hiểm, người được bảo hiểm phải thông báo ngay cho công ty bảo hiểm biết và trong thời hạn bảy ngày sau phải thông báo chi tiết bằng văn bản cho công ty bảo hiểm. - Sau khi nhận được thông báo của người được bảo hiểm, trong thời hạn ba ngày công ty bảo hiểm phải cử cán bộ hoặc mời chuyên gia chuyên ngành (khi cần thiết) đến hiện trường để đánh giá nguyên nhân, mức độ tổn thất. - Công ty bảo hiểm phải bồi thường cho người được bảo hiểm theo đúng các điều kiện và điều khoản của đơn bảo hiểm. Thông tư này có hiệu lực từ ngày ký và thay thế Thông tư 105 TC/ĐT ngày 8/12/1994 của Bộ Tài chính. Mua bảo hiểm là biện pháp hạn chế các thiệt hại khi có rủi ro xảy ra cho công trình. KẾT LUẬN : Rủi ro là một khoa học. Trong phạm vi khái niệm được nêu phần trên là những điều hết sức cơ bản để đối phó với rủi ro. Từ khái niệm rủi ro đã nảy sinh ra cả công nghiệp bảo hiểm. Nghiên cứu kỹ rủi ro sẽ giúp chủ động tránh rủi ro, quản lý dự án thành công./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbai6_chihuytruongr_ro_4156.doc