Chương trình đào tạo chỉ huy trưởng công trường - Bài 5 An toàn lao động

Bảo đảm an toàn lao động và môi trường là yêu cầu của Nhà Nước. Sản xuất an toàn và bảo vệ môi trường an toàn là tiêu chí nhân văn. Vấn đề sản xuất an toàn được đưa vào các văn bản pháp luật, đòi hỏi được tuân thủ nghiêm túc./.

doc64 trang | Chia sẻ: truongthinh92 | Lượt xem: 1488 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chương trình đào tạo chỉ huy trưởng công trường - Bài 5 An toàn lao động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kỹ thuật làm đồ sứ, in hình, làm hoa nhân tạo. Bệnh lý: + Chứng não cấp + Bị run cố ý ( tremblement intentionnel ) + Mất điều hoà tiểu não ( ataxie cérébelleuse ) + Đau bụng, ỉa chảy + Viêm thận tăng đạm trong máu Bệnh nhiễm bụi phổi silic Công việc có thể nhiễm độc bụi phổi silic + Khoan đập đá + Tán, nghiền sàng đá + Đẽo, mài đá + Sản xuất và sử dụng các loại đá mài, bột đánh bóng, và các sản phẩm có silic tự do + Chế biến chất cacborundum, mài thuỷ tinh, đồ sành, sứ, gốm, gạch chịu lửa. + Các việc liên quan đến cát, bụi cát + Làm sạch bề mặt bằng phun cát. Các bệnh lý khi nhiễm độc bụi phổi silic + Xơ phổi + Biến chứng tim do hậu quả của xơ phổi + Biến chứng phổi: - Tràn dịch phế mạc đột phát - Lao phổi Bệnh bụi phổi nhiễm bụi amiăng Công việc có thể gây ra bệnh nhiễm độc bụi amiăng + Khoan,đập phá, khai thác quặng hay đá có amiăng + Tán, nghiền, sàng và thao tác khô với quặng hoặc đá có amiăng + Chải sợi, kéo sợi và dệt vải amiăng + Làm cách nhiệt bằng amiăng + áp dụng amiăng vào súng bắn nhiệt + Thao tác khô với amiăng khi chế tạo xi măng amiăng + Tạo gioăng bằng amiăng và cao su + Chế tạo má phanh bằng cao su amiăng + Chế tạo các tông có amiăng Bệnh lý khi bị nhiễm độc bụi phổi amiăng + Xơ phổi và phế quản do hít phải bụi amiăng + Xơ phổi nhưng chưa đến mức rối loạn hô hấp hoặc đã đến rối loạn hô hấp + Ung thư phổi + Biến chứng vào tim như thiểu năng tim, suy tim không hồi phục. Bệnh nhiễm độc mănggan và các hợp chất của măng gan Công việc có thể gây ra bệnh nhiễm độc mănggan + Khai thác, nghiền, sàng, đóng bao và trộn khô bioxytmangan ( MnO2) nhất là trong việc chế tạo pin điện, que hàn. + Dùng bioxytmangan trong việc làm già ngói, chế tạo thuỷ tinh, thuốc màu. + Nghiền và đóng bao xỉ ở lò luyện kim có bioxytmangan Bệnh lý khi bị nhiễm độc mănggan + Hội chứng thần kinh kiểu Parkinson thể hiện ở triệu chứng run tay nhẹ, run tay nặng đến mức không tự phục vụ mình được. Bệnh nghề nghiệp gây ra do quang tuyến X và các tia phóng xạ Công việc có thể gây ra bệnh do các dạng tia + Khi lao động có tiếp xúc với các dạng tia + Khai thác và chế biến quặng có chất phóng xạ + Điều chế và sử dụng các chất phóng xạ, các sản phẩm hoá học và dược có chất phóng xạ + Điều chế và áp dụng các chất phóng xạ có phát quang + Nghiên cứu và đo các tia phóng xạ và quang tuyến X trong phòng thí nghiệm + Chế tạo các máy để điều trị bằng radium và các máy quang tuyến X + Các công việc liên quan đến tia xạ trong bệnh viện, phòng thí nghiệm, trong công nghiệp, trong nông nghiệp khác. + Quanh khu vực hàn hồ quang, hàn hơi Bệnh lý có thể gây ra bệnh do các tia + Các bệnh về máu như: giảm bạch cầu, giảm bạch cầu đa nhân, hội chứng xuất huyết, thiếu máu, trạng thái giả bạch cầu, bệnh bạch cầu. + Các dạng bệnh về mắt như: viêm mí mắt hay viêm màng tiếp hợp, viêm giác mạc, đục thuỷ tinh thể + Các dạng bệnh về da như: viêm da cấp, viêm da mãn tính, viêm niêm mạc mãn. + Các bệnh về xương như hoại tử xương, ung thư xương + Các bệnh về phổi như ung thư phổi do hít phải bụi phóng xạ. Bệnh nghề nghiệp do tiếng ồn Công việc có thể gây ra bệnh do tiếng ồn + Công nhân làm việc ở những nơi bị ồn từ 6 giờ trở lên trong một ngày và độ ồn trên 80 dB. Bệnh lý có thể gây ra do tiếng ồn + Bị điếc nghề nghiệp dạng tiếp âm thể đáy, giảm thính lực trên 35%. + Tổn thương tế bào nghe ở loa đạo biểu hiện qua nghiệm pháp đo thính lực trên ngưỡng + Chức năng tiền đình không bị ảnh hưởng + Giảm thính lực không tốt lên sau 3 tháng. Bệnh nghề nghiệp gây ra cho da Công việc có thể gây ra bệnh cho da + Chế tạo accuy, sản xuất xi măng, đồ gốm, bột màu pha sơn hay pha vôi màu, men sứ, thuỷ tinh, cao su, bản kẽm, gạch chịu lửa, hợp kim nhôm, nghề nề và phụ nề, mạ điện, mạ crôm. Bệnh lý về da + Loét da và niêm mạc + Loét vách ngăn mũi + Viêm da tiếp xúc, chàm tiếp súc. + Xạm da do tiếp xúc với dầu hoả, than cốc, nhựa đường, bitum, luu huỳnh. Bệnh nghề nghiệp gây ra do làm việc trong môi trường bị rung Công việc gây bệnh + Thao tác với các dụng cụ hơi nén cầm tay như đục, búa dùi, búa tán rivê, chày đục phá khuôn, máy khoan đá, máy đầm. + Sử dụng các máy động cơ nổ như máy cưa cầm tay, máy cắt cỏ, máy mài cầm tay. + Tiếp xúc với vật gây rung như tời khoan, máy mài. Bệnh lý + Hư khớp khuỷu, khớp cổ tay + Hoại tử xương bán nguyệt + Gia hư khớp xương thuyền + Bệnh Raynaud nghề nghiệp như rối loạn thần kinh vận mạch ở các ngón, rối loạn cảm giác. Bệnh bụi bông phổi ( byssinosis ) Công việc gây bệnh + Lao động khi xé bông, chải thô, làm sợi bông, đay, gai làm các vật liệu nhồi trong xây dựng, làm vật liệu tẩm trong xây dựng, làm các lớp cách ẩm, cách nhiệt. Bệnh lý + Khó thở, tức ngực ngay từ ngày đầu tiên lao động. + Biến đổi chức năng hô hấp từ nhẹ đến trung bình. Bệnh lao nghề nghiệp Công việc gây bệnh + Tiếp xúc với súc vật bị lao hoặc mang vi khuẩn lao + Thao tác sừng, xương, da súc vật + Tiếp xúc với bệnh nhân lao khi người bị lao là công nhân, người lao động. Bệnh lý + Bệnh lao da + Bệnh lao hạch + Lao màng hoạt dịch + Lao xương khớp + Lao màng phổi + Lao phổi Bệnh viêm gan virut nghề nghiệp Công việc gây bệnh + Phải tiếp xúc với người đang mắc bệnh viên gan virut, vật phẩm ô nhiễm Bệnh lý + Viêm gan + Xơ gan Bệnh do leptospira nghề nghiệp Công việc gây bệnh + Làm việc trong hầm, hào, hố sâu, cống rãnh. + Đào kênh, mương, hố sâu. + Làm việc ở đầm lầy, suối, ruộng, ao, hồ. Bệnh lý + Sốt do leptospira (15) Bệnh nhiễm độc TNT Công việc gây bệnh: + Nhồi, nạp thuốc và lỗ mìn. + Dùng mìn gây nổ phá đá + Các việc tiếp xúc với TNT Bệnh lý: + Tổn thương máu + Suy tuỷ + Tổn thương gan + Đục nhân mắt + Tổn thương niêm mạc đường tiêu hoá + Suy nhược thần kinh Các biện pháp chủ yếu nhằm khắc phục tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp trong ngành xây dựng. Việc xây dựng mới, mở rộng, cải tạo các cơ sở để sản xuất, sử dụng, bảo quản, lưu giữ các loại máy, thiết bị, vật tư, các chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động, vệ sinh lao động thì chủ đầu tư, người sử dụng lao động phải lập luận chứng về biện pháp bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động. Luận chứng phải được cơ quan thanh tra nhà nước về an toàn lao động hoặc vệ sinh lao động phối hợp với cơ quan hữu quan chấp thuận. Nhà nước cũng quy định về sử dụng các tiêu chuẩn, quy phạm về an toàn lao động, về nơi làm việc phải an toàn, về nơi làm việc phát sinh độc hại, trang bị bảo hộ lao động, định kỳ khám sức khoẻ, về huấn luyện về an toàn cho người lao động. Khi lập thiết kế công trình cũng như thiết kế biện pháp thi công cần đề xuất biện pháp đảm bảo an toàn lao động. Chủ đầu tư là người có tư cách pháp nhân đầu tư phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về an toàn lao động trên công trình mình là chủ đầu tư. Chủ đơnvị sử dụng người lao động phải chịu trách nhiệm về an toàn của người công nhân, về vệ sinh lao động trong quá trình lao động. Các Bộ Lao động và Thương binh xã hội, Bộ Y tế và Tổng Công đoàn đã có nhiều thông tư liên tịch hướng dẫn về tổ chức thực hiện công tác bảo hộ lao động trong doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh. Sự quan tâm đến an toàn lao động và vệ sinh lao động của Nhà nước đã biến thành trách nhiệm của từng cơ sở sản xuất, kinh doanh. Sự quan tâm này được thể hiện thành sự phân định trách nhiệm quản lý của cán bộ quản lý và các bộ phận chuyên môn của doanh nghiệp. Điều này phản ảnh qua kế hoạch và biện pháp cụ thể về bảo hộ lao động, về an toàn và vệ sinh lao động. Nội dung, hình thức và tổ chức việc kiểm tra an toàn lao động cũng được quy định rất cụ thể. Những biện pháp quản lý rất khắt khao và cụ thể cùng với ý thức của người lao động sẽ hạn chế tai nạn, làm cho người lao động yên tâm, có hiệu quả, tạo nên năng suất cao và chất lượng công trình tốt. An toàn lao động trong lập nghiên cứu khả thi và bộ Hồ sơ đấu thầu 1.Nội dung bảo đảm an toàn phải được phản ảnh trong báo cáo nghiên cứu khả thi Trong bản nghiên cứu khả thi phải đặt vấn đề an toàn cho sử dụng công trình cũng như phải đảm bảo an toàn lao động trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Khi thiết kế công trình phải tuân theo các quy định cấu tạo kiến trúc sao cho bảo đảm an toàn cho người sử dụng công trình về lâu dài. Một số thí dụ như những khoảng trống, hở phải có lan can bảo đảm cho người không thể ngã, rơi từ trên cao xuống thấp do vô tình. Lan can không làm xọc ngang để người có thể dẫm chân vào các thanh ngang của lan can mà dễ dàng vượt qua lan can. Chiều cao của tường chắn mái đủ giữ an toàn không cho người bị lộn qua tường chắn mái ngã khỏi sân thượng. Cửa sổ nhà cao tầng không được lắp bản lề đứng mà phải là cửa trượt trong mặt phẳng cửa. Đầu mũi các bậc thang phải có các vạch ngang chống trơn khi lên, xuống thang. 2. Nội dung hồ sơ mời thầu phải yêu cầu nhà thầu khi lập biện pháp kỹ thuật thi công phải kèm biện pháp an toàn cho sản xuất, cho người lao động. Chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm trước nhà nước về an toàn lao động nên khi thông qua các biện pháp thi công cần chú ý đúng mức đến các biện pháp an toàn cho người lao động. Nội dung hồ sơ mời thầu phải gắn sự phối hợp tiến độ với an toàn lao động. Cần yêu cầu trong hồ sơ mời thầu sự khẩn trương thi công theo nguyên tắc triển khai những việc có điều kiện triển khai được, nhưng những việc đang thi công không được gây tai nạn cho những việc khác. Để đảm bảo an toàn cho nhau khi triển khai nhiều công việc đồng thời thì trên một mặt bằng thi công cho một công việc không nên bố trí việc khác tiến hành trong đó. Trên cùng một chiều cao mà khi thi công có thể ảnh hưởng mất an toàn cho công việc bên dưới thì không được bố trí hai việc cùng làm. Bố trí việc làm đồng thời chỉ khi có đủ mặt bằng cho nhiều công việc tiến hành mà không cản trở hoặc làm mất an toàn cho nhau. Lập kế hoạch bảo đảm an toàn chung cho công trường dựa vào bản tổng sơ đồ ( master schedule), mỗi công việc trong tổng sơ đồ thấy có khả năng xảy ra sự mất an toàn nào sẽ đưa vào thời điểm ấy những tai nạn khả dĩ xảy ra và biện pháp ngăn ngừa. Bản kế hoạch bảo đảm an toàn khi thi công công trình: Bản kế hoạch bảo đảm an toàn khi thi công công trình lập trên cơ sở bản tiến độ thi công ( calendar planning ). Cần dựa vào các biện pháp thi công nhằm thực hiện các công tác xây dựng trong bản tiến độ để lập ra biện pháp an toàn bảo đảm cho khi thi công cụ thể không bị xảy ra mất an toàn. Trước hết, phải nắm được khi thi công trong điều kiện nào sẽ có khả năng bị tai nạn. Phải có các biện pháp ngăn ngừa tai nạn khi thực hiện từng biện pháp thi công. a) Quy định chung cho đảm bảo an toàn lao động Qui định về rào chắn Mọi chỗ có thể rơi người từ trên cao xuống như từ các sàn tầng cao, từ miệng hố sâu đều phải rào chắn, ngăn không cho người rơi do thiếu chú ý. Những nơi có thể rơi vật treo trên cao xuống lối đi hay mặt bằng công tác của người lao động như phạm vi làm việc của cần trục, phải rào chắn hoặc có chỉ giới không cho người qua lại nhằm tránh tai nạn. Rào chắn có những gối đỡ cho các thanh chắn ngang là các thanh đứng được bắt chặt vào chắc chắn với nền. Khoảng cách giữa thanh đứng không quá 2 mét, Những thanh ngang phải tỳ vào thanh đứng sao cho nếu có lực tác động, những thanh này không bị bật bung làm té ngã người cần bảo vệ. Thanh ngang phải sơn vằn đen vàng, chiều rộng vằn lớn hơn 20 cm. Rào chắn phải được thiết kế chi tiết khi đề xuất giải pháp thi công. Phải làm xong rào chắn mới được thực hiện các thao tác kỹ thuật khác. Qui định về chỉ giới nguy hiểm Đường phân giới giữa khu vực nguy hiểm, có khả năng xảy ra tai nạn với khu vực an toàn là chỉ giới nguy hiểm. Chỉ giới tạm thường làm thành hàng rào. Nếu tính di động khá thường xuyên thì chỉ giới có thể làm dưới hình thức thanh chắn ngang hoặc dây ngăn an toàn. Dây phải được móc treo vào những trụ đỡ bằng bê tông cốt thép, bằng thép hay bằng gỗ tạm thời. Trụ đỡ đủ chân đế để tự ổn định và có thể di chuyển được để có thể chuyển chỗ khi cần điều chỉnh khu vực nguy hiểm. Dây hoặc thanh ngang làm đường ngăn chỉ giới phải có chiều rộng bản trên 50 mm đủ để nhận biết bằng mắt thường. Phải sơn vằn vàng-đen thành khoang mà chiều dài mỗi khúc vằn phải sơn là 200 mm. Màu sắc và chữ cho các tín hiệu an toàn: Chữ để chỉ dẫn các tín hiệu về an toàn phải viết kiểu chữ in chân phương. Chiều cao của chữ phải lớn hơn 20 cm và chiều rộng nét chữ trên 20 mm. Nền để viết chữ phải là màu sáng, thường là màu vàng. Chữ có thể màu đỏ hay đen. Chữ tín hiệu an toàn cần chỉ dẫn khi thiếu ánh sáng phải có đèn chiếu rọi đủ sáng để đọc được trong mọi tình huống. Qui định về thông báo tín hiệu an toàn lao động: Những thông báo bằng tín hiệu cho công tác an toàn phải để người đọc nhận biết được trước khi vào khu vực mà tín hiệu chỉ dẫn một khoảng cách đủ để kịp có hành động ngăn ngừa tai nạn. Tín hiệu thông báo về an toàn không được treo ngược sáng làm cho người đọc nhìn không rõ. Khi buộc lòng phải treo tín hiệu ngược sáng, phải có đèn chiếu trực tiếp vào bảng tín hiệu để người đọc nhận rõ được tín hiệu. Về Ergonomics, nhân trắc và không gian tác nghiệp Trong thiết kế biện pháp kỹ thuật, người kỹ sư, kỹ thuật viên phải chú ý đến ergonomics. Ergonomics được gọi theo tiếng Việt là công thái học là môn khoa học liên ngành, kết hợp giữa khoa sinh học người và khoa học kỹ thuật tạo ra sự thích ứng giữa phương tiện kỹ thuật, môi trường lao động với khả năng của con người về giải phẫu sinh lý, tâm lý nhằm đảm bảo cho lao động có hiệu quả nhất, bảo vệ sức khoẻ, an toàn lao động và tiện nghi cho con người. Khi nghiên cứu ergonomics trong lao động xây dựng, phải sử dụng những số liệu nhân trắc của con người Việt nam tương quan đến công cụ lao động, máy móc cho phù hợp thao tác, thích ứng với điều kiện an toàn lao động cho người công nhân Việt nam. Những vấn đề cụ thể là giàn giáo thi công, một mặt phải phù hợp với mô đun độ cao của ngôi nhà đồng thời phải phù hợp với độ cao trung bình của người Việt nam, sao cho thao tác trong lao động được an toàn nhất. Không gian tác nghiệp của một công nhân phải phù hợp với số liệu nhân trắc của con người Việt nam. Tổ chức không gian tác nghiệp của một công nhân hợp lý là lựa chọn kích thước khu vực lao động sao cho giảm nhẹ sự di chuyển trong quá trình lao động. Quan hệ giữa con người lao động với đối tượng lao động thuận tiện nhất nhằm tạo ra năng suất lao động cao, ít hao phí năng lượng nhất đồng thời phải đảm bảo an toàn nhất. Về mặt phẳng tác nghiệp các phương Khi thiết kế tư thế trong lao động cần hết sức chú ý đến mặt phẳng tác nghiệp. Trước mặt là mặt phẳng tác nghiệp thuận lợi nhất: đạt năng suất cao, đạt độ chính xác của sản phẩm cao nhất đồng thời thuận với tư thế lao động, ít gây tai nạn. Hạn chế mọi tư thế lao động khi phải quay xương sống quanh trụ sống để thao tác ở những mặt phẳng làm với mặt phẳng đối xứng trước sau theo phương đứng của cơ thể. Làm việc ở những tư thế này không huy động được sức cơ bắp đến mức cao nhất, dễ gây ra sự co rút cơ do cơ bị vận động không phù hợp với quy tắc sinh học. Về độ cao của mặt phẳng công tác, tuỳ tư thế đứng hay ngồi mà chọn cho phù hợp với nhân trắc người Việt nam. Khi lao động với tư thế đứng thì độ cao công tác tốt nhất là ở độ cao 90 cm so với mặt chân đứng. Khi lao động trong tư thế ngồi thì độ cao của mặt công tác tốt nhất là 30 cm cách mặt ghế ngồi. Mặt công tác không phù hợp với tư thế lao động, không những lao động bị giảm năng suất mà còn dễ gây ra tai nạn lao động. Dụng cụ và trang bị tạm, nhất thời Dụng cụ cầm tay phải phù họp với sức khoẻ và nhân trắc người Việt nam. Không được quá nặng, khó sử dụng cũng như dễ gây tai nạn. Những dụng cụ có khả năng tuột, văng khi lao động, tay cầm phải tạo gợn sóng hợp với bàn tay khi nắm và có lớp lót, tráng cao su, tăng độ ma sát khi nắm chắc. Khi lao động ở những tư thế mà công cụ bị văng tuột sẽ gây nguy hiểm cho người chung quanh hay bên dưới, dụng cụ ấy phải có lỗ buộc dây néo giữ khi công cụ bị văng hay tuột. Độ dài của dây không cản trở khi thi công nhưng không quá dài gây tình trạng neo giữ không có tác dụng. Dụng cụ phải đảm bảo độ an toàn khi sử dụng, không gây tai nạn cho người sử dụng và người chung quanh. Trang bị bảo hộ thích hợp cho từng tác nghiệp xây dựng: Với mỗi dạng công tác xây dựng đòi hỏi phải có trang bị bảo hộ lao động thích ứng. Mỗi công nhân cần điều chỉnh cho những trang bị lao động vừa vặn với cơ thể và nhân trắc của mình. Quần áo bảo hộ không thể mặc rộng thùng thình, ngăn cản sự nhanh nhẹn cũng như cản trở các thao tác khi lao động. Mũ đội phải có quai và không bị quá lỏng hay quá chật. Mũ chật sinh tức máu trên đầu, gây ra đau đầu và nhức đầu. Găng tay phải đi vừa, không chật mà không lỏng. Lỏng sẽ bị tuột và chặt sẽ cản trở khi cầm, nắm dụng cụ hoặc vật liệu xây dựng. b) Sự gắn liền biện pháp kỹ thuật, biện pháp kiểm tra chất lượng và biện pháp an toàn lao động thành một thể thống nhất Theo mục e điều 16 của bản Quy định quản lý chất lượng công trình xây dựng ban hành theo quyết định số 18/2003/QĐ-BXD ngày 27-6-2003 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng thì chủ đầu tư phải kiểm tra biện pháp thi công, biện pháp an toàn lao động cho công trình và an toàn cho các công trình lân cận do doanh nghiệp xây dựng lập. Lập biện pháp thi công là xây dựng tài liệu cơ sở để tiến hành thi công, tạo ra sản phẩm xây dựng bảo đảm các yêu cầu kỹ thuật và an toàn lao động do chủ đầu tư nêu ra trong hồ sơ mời thầu. Kiểm tra chất lượng sản phẩm xây dựng do nhà thầu tạo ra phải đồng thời kiểm tra những biện pháp bảo đảm an toàn lao động vì chất lượng công trình không thể tách rời an toàn lao động. Người lao động có làm việc trong điều kiện an toàn mới tạo ra sản phẩm tốt. Vừa lao động vừa lo ngay ngáy cho sự an toàn trong quá trình lao động của mình thì khó tạo được sản phẩm có chất lượng. Trách nhiệm của nhà thầu là phải đề xuất các biện pháp đảm bảo chất lượng cũng như biện pháp an toàn lao động. Trách nhiệm của chủ đầu tư là xem xét và phê duyệt các biện pháp kỹ thuật thi công cùng với biện pháp an toàn sao cho sản xuất có chất lượng đồng thời bảo đảm an toàn. c) Sắp xếp trình tự thi công trong tiến độ phải đảm bảo không gian lao động đủ an toàn + Sự phối hợp các yếu tố kỹ thuật nhằm thi công nhanh Có ba cách tổ chức thi công có thể thực hiện trên một mặt bằng hạng mục công trình là thi công tuần tự, thi công song song và thi công kiểu dây chuyền. Trong việc sắp xếp thi công hợp lý, phải triển khai đến mức tối đa những công việc có thể triển khai được nhằm tranh thủ hoàn thành công việc tạo sản phẩm xây dựng nhanh nhất. Cách thi công theo tuần tự, mặt bằng thi công rộng rãi, lực lượng thi công huy động thấp nhưng thời gian tạo ra sản phẩm xây dựng bị kéo dài. Cách thi công song song, nhiều việc được thi công đồng thời nên thời gian tạo ra sản phẩm xây dựng rút ngắn. Thi công song song phải huy động lực lượng thi công lớn và vì nhiều người cùng tham gia thi công đồng thời nên khả năng mất an toàn trong lao động cũng lớn. Thi công kiểu dây chuyền đòi hỏi chia mặt bằng thi công thành các phân đoạn và chia lao động thành những nhóm chuyên. Nguyên tắc của tổ chức dây chuyền là tạo nên sự đồng đều khối lượng trong các phân đoạn để điều phối lao động một cách điều hoà, nhịp nhàng. Trong một phân đoạn không gian lao động chỉ có một nhóm thợ chuyên vào lao động. Nhóm này ra, nhóm kia mới vào trong phân đoạn. Trên một phân đoạn chỉ có một nhóm thợ chuyên thực hành thi công. Phải tạo ra điều kiện lao động liên tục cho người lao động và trên từng phân đoạn không gian liên tục có việc cho người làm. Có hai dạng trình tự trong việc tiến hành các biện pháp thi công như sau: Trình tự tiếp nối là biện pháp tạo ra sản phẩm xây dựng có nhiều thao tác mà thao tác này phải tiến hành trước, phải đợi thực hiện xong mới tiến hành được thao tác đứng sau. Trình tự song song là biện pháp mà hai thao tác có thể đồng thời tiến hành, không ảnh hưởng đến nhau về mặt quá trình sản xuất. Để tạo ra sản phẩm xây dựng thì càng tiến hành song song được nhiều việc thì thời gian hoàn thành chung càng nhanh. Nhưng cần xem xét về điều kiện lao động, điều kiện mặt bằng công tác sao cho khi tiến hành thao tác này không làm mất an toàn lao động cho thao tác khác. Nguyên tắc phối hợp giữa những công việc của các nhóm chuyên môn hay là giữa những thao tác khác nhau trong một quá trình sản xuất chung là tạo điều kiện thuận lợi cho nhau, không gây mất an toàn lao động cho nhau. Tuyệt đối không bố trí hai hay nhiều đội sản xuất cùng thi công trong cùng một mặt bằng công tác khi điều kiện an toàn lao động không cho phép. + Các yêu cầu phải đảm bảo an toàn lao động trong không gian lao động Trong một không gian lao động tức là trong một phân đoạn công trình được chia để tiến hành thi công không nên bố trí hai nhóm lao động chuyên môn cùng thi công. Khi tiến hành công tác chuyên môn, công tác cần có không gian để triển khai công việc của mình. Không gian cần thiết để triển khai có thể diễn ra theo mặt bằng nhưng nhiều công tác cần không gian theo chiều cao hoặc nhiều công tác lại cần không gian theo cả mặt bằng, cả chiều cao. Lấy thí dụ như để tiến hành công tác láng nền. Láng nền nhà đòi hỏi mặt bằng để trải vữa tạo lớp nền hoàn chỉnh. Khi láng nền một gian phòng không thể bố trí dựng cốp pha cho sàn tầng trên của gian phòng ấy được vì làm cốp pha đòi hỏi mặt bằng để chống những cây chống, đồng thời lại đòi hỏi không gian trên cao để trải hệ thống tấm cốp pha cho sàn bên trên. Như thế, trong một gian buồng, không thể vừa láng nền, vừa làm cốp pha. Từ đặc điểm khi triển khai công tác đòi hỏi không gian để lao động, nguyên tắc bố trí công việc là không bố trí hai hay nhiều công tác chuyên môn cùng tiến hành trong một không gian lao động. + Các yêu cầu về an toàn lao động khi phối hợp các yếu tố kỹ thuật trong cùng một không gian: Để đẩy nhanh tiến độ hoàn thành nhiều công việc phải tiến hành, cần thiết phải sắp xếp để cùng lúc có thể tiến hành nhiều công việc đồng thời. Nhưng như mục trên đã phân tích, khi tiến hành đồng thời nhiều công việc trong cùng một không gian lao động, việc nọ sẽ cản trở việc kia hoặc việc này có thể gây tai nạn cho người làm việc khác. Nguyên tắc để bố trí phối hợp các công việc trong cùng một không gian lao động là phải phân khu, phân vùng lao động để khi tiến hành công việc, các thao tác của công việc này không gây cản trở cho việc khác cũng như không gây mất an toàn lao động cho việc khác. Nếu không có vật liệu chống đỡ, ngăn cách không gian theo chiều đứng thành các khu vực an toàn khi tiến hành đồng thời nhiều việc, không được bố trí hai nay nhiều việc làm đồng thời theo chiều cao. Không có ranh giới rõ ràng theo mặt bằng cũng không tiến hành cùng một lúc nhiều việc theo mặt bằng. Cần phân khu rõ ràng, giữa các khoảng không gian tiến hành các thao tác nghiệp vụ không để phạm vi công tác của việc này lấn sang phạm vi công tác của việc khác mà sự lấn ấy có thể làm mất an toàn cho nhau. d) Thiết kế tổng mặt bằng thi công hay là sự cung cấp dịch vụ thi công phải có quan điểm an toàn lao động + Tổng mặt bằng phải được sắp xếp ngăn nắp và đồng bộ: Các thành phần được sắp xếp trên tổng mặt bằng nhằm phục vụ các điều kiện của thi công. Tổng mặt bằng là khu đất hạn chế ở quanh công trình xây dựng chính được sử dụng phục vụ cho các giai đoạn thi công công trình. Cần thiết phải lựa chọn sao cho để thành phần nào trên tổng mặt bằng thì thành phần ấy phải phục vụ được tốt cho thi công ở giai đoạn tiến hành công việc. Tổng mặt bằng thi công được làm cho nhiều thời kỳ thi công nên không phải chỉ có một tổng mặt bằng chung cho mọi giai đoạn thi công mà mỗi giai đoạn thi công có một tổng mặt bằng. Tuy nhiên cố gắng để ít thay đổi vị trí các thành phần của tổng mặt bằng qua các thời kỳ thi công khác nhau nhưng cũng không nên quá khiên cưỡng mà chỉ làm một tổng mặt bằng chung. Trước khi sắp xếp các thành phần của tổng mặt bằng vào vị trí, cần tính toán và quyết định diện tích của thành phần tổng mặt bằng được sắp xếp tại công trường. Cách tính toán được trang bị trong môn tổ chức thi công. Tuy nhiên tại công trường xây dựng đất đai để bố trí tổng mặt bằng thường nhỏ hơn diện tích theo tính toán. Người thiết kế tổng mặt bằng cần cân nhắc trên quan điểm phục vụ tốt nhất cho thi công và an toàn nhất để quyết định diện tích cần triển khai cho các thành phần của tổng mặt bằng công trường. Sự sắp xếp từng thành phần của tổng mặt bằng phải xem xét rằng thành phần ấy phục vụ công tác thi công nào, vị trí của thành phần ấy liên quan đến những thành phần khác thế nào để quyết định vị trí sắp xếp. Sự sắp xếp vị trí của thành phần tổng mặt bằng liên quan đến đường vận chuyển trên công trường, liên quan đến quan hệ giữa các thành phần và nhất là hướng gió. Vật liệu, cấu kiện dùng trong xây dựng đều nhiều về số lượng và nặng về trọng lượng nên những nơi chứa vật liệu và cấu kiện phải xếp ven đường vận chuyển. Tuy nhiên có những bãi cấu kiện khi di chuyển phải dùng cần trục để bốc, xếp thì vị trí những nơi này phải thuận lợi cho việc chuyên chở và bốc xếp. Những nơi chứa vật liệu gây bụi như bãi cát cần xếp ở cuối gió, không để cho gió thổi bụi vào nơi thi công. Những khu vực phát ra khói, phát ra khí độc hại cũng cần lưu ý và sắp xếp sao cho thuận lợi theo gió. Cần lưu tâm rằng, có thể một vị trí cuối gió của công trường của ta lại là đầu gió, gây bất tiện cho công trình sẵn có của nhà liền kề. Những trường hợp này phải có biện pháp khử bụi, khử khói, khử hơi độc một cách chủ động và nhân tạo. Không thể để các chất gây ô nhiễm không khí ảnh hưởng đến môi trường của cả khu vực xấy dựng và chung quanh. + Các yêu cầu về an toàn với đường tạm cho các dạng phương tiện Tiến hành vạch đường tạm phục vụ để thi công phải căn cứ vào giai đoạn thi công của tổng mặt bằng. Giai đoạn san ủi, đường thi công phục vụ chủ yếu cho việc vận chuyển đất, đường thi công cần làm rõ lối xe vào lấy đất và lối để chở đất ra khỏi công trường. Tổng mặt bằng thi công giai đoạn làm phần móng, đường cần sử dụng để chuyển đất đến hoặc đi, cần chuyển vật liệu để thi công móng công trình. Tổng mặt bằng thi công phần thân công trình thì đường thi công phục vụ việc vận chuyển vật liệu đến, vận chuyển cấu kiện đến công trình, vận chuyển dư phẩm hoặc rác xây dựng đi nơi khác. Khiu thi công phần thân công trình, xe đến công trình đa dạng hơn khi thi công phần đất, móng. Cần thiết kế luồng giao thông sao cho thuận lợi trong quá trình thi công: kết cấu nền đường phải đủ sức chịu tải, luồng đường không giao cắt hoặc ít giao cắt với các luồng vận chuyển khác, hạn chế đến mức tối thiểu việc phải di chuyển trong phạm vi hoạt động của cần trục. Phải bố trí lối vào hoặc vành đai di chuyển cho công nhân di chuyển trên công trường. Lối di chuyển cần quang đãng, không có chướng ngại vật, chú ý đến những sự cố gây nguy hiểm cho công nhân khi di chuyển như rơi vật liệu từ trên cao, lăn vật liệu từ bên ngoài, từ bãi chứa vào đường đi của công nhân. Cần có chỉ dẫn ở những chỗ bố trí máy nâng vật liệu như cần trục, thăng tải để mọi người đề phòng hoặc cảch giác khi di chuiyển gần phạm vi này.Dọc theo đường đi phải có biển hiệu thông báo, chỉ dẫn cho người qua lại để có thể nhận biết tình trạng quãng đường sắp di chuyển đến. Cần bố trí lối vào và ra cho các phương tiện cấp cứu. Khi đường di chuyển dọc theo biên có độ sâu trên 1,2 mét, cần làm lan can để tránh người vô ý ngã từ trên cao xuống thấp. Khi di chuyển qua những độ cao khác nhau phải làm bậc hoặc làm thang. Nên bố trí để việc di chuyển xe và người trên công trường theo các đường một chiều tránh tắc nghẽn do luồng giao thông giao cắt hoặc phải chờ đợi gây ra. Vị trí của kho, bãi chứa vật liệu, cấu kiện, thiết bị nên bám sát đường giao thông. Vật liệu, cấu kiện càng gần nơi sản xuất càng tốt thí dụ đá, sỏi, xi măng gần nơi chế, trộn bê tông hoặc vữa. + Các yêu cầu về thoát nước đảm bảo an toàn Khi chuẩn bị mặt bằng để khởi công công trình, nhất thiết phải thoát nước trên mặt bằng. Mọi chỗ đọng nước cần làm khô.Không được để đọng từng vũng nước trên mặt bằng. Nếu địa hình dốc, cần làm những con trạch ở phía trên của hố đào để nếu mưa, nước không dồn vào hố đào. Cần làm những đường hào hoặc mương nhỏ dẫn nước tụ về những điểm có quy hoạch, có thiết kế theo chủ định rồi bơm thoát. Sau khi mưa ngưng, trên mặt bằng phải khô ráo ngay, không để có vũng nước, không để ngập nước. Nếu công trường thi công cọc nhồi, tường barrette, cần thiết kế biện pháp thu hồi dung dịch bentonite. Làm rãnh, mương dẫn bentonite đùn lên từ lỗ khoan khi đổ bê tông về hố thu, trang bị máy lọc cát để sử dụng lại bentonite. Nếu không sử dụng lại bentonite thì bentonite cũng phải được tập trung để thoát vào nơi thích hợp. Không được đổ trực tiếp bentonite vào hệ thoát nước công cộng vì bentonite sẽ làm cho hệ cống công cộng bị tắc nghẽn nhanh chóng. + Các yêu cầu về cấp nước đảm bảo an toàn Nguồn nước cấp từ nhà máy nước cần được bảo vệ chống thất thoát. Đường ống dẫn từ điểm cấp đến các nơi tiêu thụ nước trong công trường cần được bảo vệ an toàn, chống bị vỡ ống khi đường dẫn cắt qua đường giao thông. ống nước cắt qua đường giao thông phải chôn ngầm ở độ sâu trên 50 cm cách mặt trên của áo đường. Đoạn ống qua đường phải luồn qua ống vỏ để bảo vệ cho ống dẫn. Đường kính ống vỏ phải lớn hơn đường kính ống dẫn nước tối thiểt 3 lần. Phải đảm bảo các điểm nối của ống dẫn nước được nối đủ ren, có sử dụng vật liệu chống rò rỉ nước. Vị trí nối ống không được nằm trên đoạn ống luồn qua đường giao thông. Nên đặt ống dẫn nước song song với đường giao thông. Càng hạn chế việc bố trí ống qua đường càng giảm được mối lo vỡ ống. Trên đường ống cần bố trí van, khoá đầy đủ để khi sửa chữa đường dẫn nước tại vị trí nào đó, không làm ảnh hưởng đến các điểm tiêu thụ nước chỗ khác + Các yêu cầu về điện, máy xây dựng phải đảm bảo an toàn và phục vụ tốt cho sử dụng Điện là nguồn năng lượng hết sức quan trọng cho mọi hoạt động trên công trường. Tuy nhiên tai nạn về điện cũng là nguy cơ đáng kể. Đặc điểm của tai nạn do điện gây ra thường khó nhận biết trước được, yếu tố ngẫu nhiên rất cao. Theo thống kê lâu năm của Tổ chức Lao động Quốc tế, cứ 30 tai nạn về điện có một tai nạn làm cho chết người. Cách chống tai nạn do điện gây ra là phải tuân thủ hết sức nghiêm ngặt các quy định về hệ thống điện. Việc chọn tuyến dây điện trên không hay đường dây cáp phải rất hợp lý và đảm bảo an toàn. Việc lựa chọn các thiết bị điện phải phù hợp với điều kiện sản xuất và an toàn. Phải thường xuyên kiểm tra độ an toàn của hệ thống dây dẫn điện. Nếu độ cách điện có dấu hiệu không đủ an toàn, phải có biện pháp bổ cứu kịp thời. Tuy là lưới điện tạm nhưng nhất thiết phải làm hệ tiếp điạ cho đủ an toàn khi sự cố hoặc khi giông bão. Khi thiết kế tổng mặt bằng phải nghiên cứu đặc biệt đến việc sử dụng cần trục tháp và phải vạch ra phạm vi hoạt động của cần trục tháp. Tuy nhiên không phải mọi thời gian đều cấm không được di chuyển hoặc lao động trong phạm vi vạch ra cho cần trục tháp hoạt động mà chỉ khi nào cần trục tháp hoạt động mới cần rào chắn phạm vi hoạt động của cần trục tháp. Khi hoạt động không thường xuyên, cần bố trí người cảnh giới để gìn giữ an toàn thì hiện thực hơn. + Nhà tạm phục vụ các đối tượng khác nhau trên công trường Nhà tạm phục vụ là những kho chứa, nhà sản xuất, nhà hành chính và sinh hoạt của công trường. Nhà tạm phải bố trí thành từng khu vực cho công trường ngăn nắp, phục vụ tốt nhất cho sản xuất và an toàn nhất cho người lao động cúng như bảo vệ tốt được tài sản công trường. Kho chứa phải bám vào ven đường để giảm công sức vận chuyển thủ công khi lấy và cất chứa hàng hoá nhưng nhà kho không được cản trở mọi hoạt động trên công trường cũng như gây mất an toàn lao động. Kho chứa những chất dễ bắt cháy thì kết cấu của kho phải làm bằng vật liệu khó cháy. Sự sắp xếp hàng trong kho phải dễ tìm, dễ thấy và dễ lấy khi xuất hàng. Kho chứa cần bố trí gần những nhà sản xuất cần sử dụng vật liệu hàng hoá chứa trong kho. Kho xăng, dầu hoặc chứa chất độc, chất dễ bốc cháy phải đặt ở vị trí thuận tiện cứu hoả nếu rủi ro bị cháy, đám cháy không lan toả ra các nhà chung quanh. Phải tuân thủ khoảng cách ly an toàn giữa những nhà kho. Nhà sản xuất cũng cần bám lấy đường di chuyển để việc cung cấp vật liệu và lấy hàng hoá đưa ra công trình thuận lợi. Những xưởng khi sản xuất có khả năng gây cháy như phân xưởng hàn, rèn, dập phải bố trí xa kho gỗ và xưởng sản xuất mộc. Nơi sản xuất có sử dụng xăng, dầu phải lưu tâm đến khâu phòng và chữa cháy. Nhà bếp phục vụ công nhân ăn uống, nhà nghỉ ngơi của công nhân cần lưu ý đến khả năng cháy do lửa. Lửa có thể từ bếp nhưng cũng nhiều khả năng do công nhân dùng thuốc lá, thuốc lào mà gây cháy. + Hướng gió và sự sắp xếp các yếu tố tổng mặt bằng Khi sắp xếp các thành tố của tổng mặt bằng cần chú ý hướng gió. Phải vẽ trên tổng mặt bằng hoa gió của năm. Khi công trường tồn tại ngắn, vẽ hoa gió theo mùa mà thời gian thi công sẽ bị ảnh hưởng. Những nơi sinh bụi như bãi cát, nơi sản xuất vữa, nơi sinh khói như lò nấu bitum, nơi sinh chất độc tỏa vào không khí như bể ngâm tẩm gỗ, nhà vệ sinh của công trường cần bố trí cuối hướng gió. Lại phải chú ý rằng cuối hướng gió của công trường mình là đầu gió cho khoảng đất hoặc nhà lân cận nên phải giải quyết sao cho sản xuất không tạo ra mất an toàn và gây ô nhiễm cho môi trường lao động. 2.3 Lập kế hoạch bảo vệ môi trường trong khu vực xây dựng Lập kế hoạch bảo vệ môi trường có kế hoạch bảo vệ môi trường chung và kế hoạch bảo vệ môi trường trong quá trình thi công. 2.3.1 Kế hoạch bảo vệ môi trường chung cho toàn công trường: Bảo vệ môi trường trong các dự án đầu tư xây dựng được quy định như sau: + Đối với từng dự án xây dựng phải được xác định ngay từ khâu chuẩn bị đầu tư cho đến giai đoạn xây dựng và nghiệm thu, đưa dự án vào sử dụng. Trong khâu thẩm định các dự án đầu tư xây dựng cần thực hiện các qui định về Đánh giá Tác động Môi trường (ĐTM) (Thông tư số 490/1998/TT của Bộ KHCN&MT hướng dẫn lập và thẩm định báo cáo ĐTM, Thông tư số 1420/MTg ngày 26/11/1994 Hướng dẫn ĐMT đối với các cơ sở đang hoạt động) và cần đưa vào dự án nguồn kinh phí để xây dựng các công trình kỹ thuật xử lý những vấn đề có liên quan đến môi trường. Qui định về giá, tác động môi trường trong lập dự án đầu tư: Đánh giá tác động môi trường là việc phân tích dự báo các tác động đến môi trường của dự án đầu tư cụ thể đưa ra các biện pháp bảo vệ môi trờng khi triển khai dự án đó. Báo cáo tác động môi trường của dự án đầu tư phải do cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, là một điều kiện bắt buộc để phê duyệt dự án, cấp phép đầu tư và triển khai dự án. Không phải mọi dự án đều phải báo cáo đánh giá tác động môi trường mà có qui định cụ thể: Các đối tượng dự án phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường. - Dự án công trình quan trọng quốc gia. + Nghị quyết số 66/2006/NQ-QH quy định cụ thể thế nào là dự án quan trọng quốc gia. + Nghị đinh 12/2009/NĐ-CP phụ lục về phân loại dự án đầu tư - Dự án có sử dụng một phần diện tích đất hoặc có ảnh hưởng xấu đến khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia, các khu di tích, lích sử văn hóa, di sản thiên nhiên, danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng, - Dự án có nguy cơ ảnh hưởng xấu đến nguồn nước, lưu vực sông, vùng ven biển, vùng có hệ sinh thái được bảo vệ. - Dự án xây dựng kết cấu hạ tầng khu kinh tế khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu chế xuất và cụm làng nghề. - Dự án xây dựng mới đô thị, khu dân cư tập trung - Dự án khai thác, sử dụng nước dưới đất và tài nguyên thiên nhiên có quy mô lớn. Các dự án khác có tiềm ẩn nguy cơ lớn có tác động xấu đối với môi trường. Quá trình đánh giá tác động môi trường của dự án. Chủ đầu tư dự án có trách nhiệm lập báo cáo đánh giá tác động môi trường đồng thời với dự án đầu tư. Quá trình đánh giá tác động môi trường có các bước sau: - Tiến hành đánh giá hiện trạng môi trường của khu vực dự án (xem mức độ ô nhiễm ở địa điểm về xây dựng về không khí, tiếng ồnđể đo lường được sức chịu tải của môi trường.) - Đánh giá tác động môi trường của dự án môi trường xung quanh (trên cơ sở đề xuất của dự án đến môi trường xung quanh) - Đề xuất các biện pháp cụ thể để giảm thiểu các tác động xấu đối với môi trường xung quanh và phòng ngừa rủi ro - Lập báo cáo đánh giá tác động môi trường - Lấy ý kiến của chính quyền, phường xã - Phê duyệt báo các đánh giá tác động môi trường. Nội dung của báo cáo đánh giá tác động môi trường: - Liệt kê, mô tả chi tiết các hạng mục công trình của dự án liên quan theo quy mô về không gian, thời gian và khối lượng thi công công nghệ vận hành của từng hạng mục công trình và của cả dự án. - Đánh giá chung về hiện trạng môi trường nơi thực hiện dự án và vùng kế cận, đánh giá mức độ nhậy cảm và sức chịu tải của môi trường. Khi mức ô nhiễu ở mức độ thấp -> tác động với môi trường nhỏ hầu như không nhận thấy. Đến một mức nào đó có ảnh hưởng rất lớn đến dù mức ô nhiễm tăng rất ít. - Đánh giá chi tiết các tác động MT có khả năng xẩy ra khi dự án được thực hiện và các thành phần môi trường, các yếu tố kinh tế xã hội chịu tác động của dự án. Dự báo những rủi ro về môi trường do công trình gây ra. - Trình bầy các biện pháp cụ thể giảm thiểu tác động xấu đến môi trường, các biện pháp phòng ngừa ứng phó các sự cố môi trường. - Trình bầy cam kết thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường trong quá trình xây dựng và vận hành công trình - Danh mục các công trình, các chương trình quản lý và giám sát các vấn đề môi trường trong quá trình triển khai thực hiện dự án. - ý kiến của Uỷ Ban Nhân Dân xã phường, thị trấn, ý kiến của cộng đồng dân cư nơi thực hiện dự án, các ý kiến không tán thành việc đặt dự án tại địa phương hoặc không tán thành đối với các giải pháp bảo vệ môi trường đã đề xuất phải được nêu trong báo cáo đánh giá tác động môi trường. - Chỉ dẫn các nguồn cung cấp số liệu, dữ liệu và thuyết minh phương pháp đánh giá + Các dự án phải bảo đảm phù hợp với môi trường cảnh quan khu vực và tiếp nối thích hợp với hạ tầng hiện có, phải đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ với các công trình lân cận như hệ thống giao thông, xử lý nước thải, khí thải, thu gom xử lý rác thải khu vực. Các nguồn chất thải (khí thải, nước thải, rác thải) phát sinh trong quá trình vận hành công trình xây dựng phải được xử lý cục bộ hoặc được truyền tải kín tới hệ thống cơ sở hạ tầng kĩ thuật xử lý chất thải của đô thị và khu công nghiệp. + Về tiện nghi, an toàn sức khoẻ cho người sử dụng: Phải tuân thủ Qui chuẩn xây dựng và các Tiêu chuẩn có liên quan về chiếu sáng tự nhiên, thông hơi thoáng gió, lối đi lối thoát, phòng chống cháy nổ, chống động đất và nhiệt độ trong phòng đối với các công trình có sử dụng điều hoà nhiệt độ. Vật liệu sử dụng bảo đảm không gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khoẻ những người sống và làm việc trong công trình đó. + Tiết kiệm năng lượng: Cần nâng cao hiệu suất trong việc sử dụng năng lượng, nhiên liệu và bảo đảm vệ sinh môi trường xây dựng theo Qui chuẩn xây dựng cụ thể là: a. Tận dụng điều kiện chiếu sáng tự nhiên. b. Sử dụng các trang thiết bị trong công trình có hiệu suất năng lượng cao. c. Vỏ bao che cách nhiệt tốt để giảm tối đa hiện tượng truyền nhiệt. d. Các công trình công cộng, thương mại, chung cư nên sử dụng hệ thống làm mát trung tâm và khi sử dụng thiết bị có dung môi làm lạnh phải tuân thủ Công ước Montreal về bảo vệ tầng ozon mà Chính phủ Việt Nam đã tham gia ký và phê chuẩn ngày 26 tháng 4 năm 1994. Bảo vệ môi trường trên công trường xây dựng a) Công trường xây dựng Các công trường xây dựng phải đảm bảo các Qui định về an toàn lao động và vệ sinh môi trường trong quá trình chuyên chở vật liệu xây dựng, quá trình thi công và hoàn thiện công trình. Các công trường xây dựng phải có tổng hợp tình hình môi trường định kỳ hoặc đột xuất khi có yêu cầu, theo bản phê duyệt báo cáo ĐTM trong quá trình thi công công trình cho đến khi hoàn thành, bàn giao đưa công trình vào sử dụng. b) Công nghệ và trang thiết bị trên công trường Khi thi công móng cọc cho các công trình trong đô thị phải xem xét lựa chọn thiết bị thi công thích hợp để tránh rung động, khói, bụi, tiếng ồn và ảnh hưởng tới các công trình khác. c) Xử lý nước bề mặt và nước thải trong quá trình thi công (i). Phải có hệ thống thoát nước công trường bảo đảm không gây ô nhiễm nguồn tiếp nhận, không gây sụt lở đất các khu vực xung quanh, không gây lầy lội làm ảnh hưởng đến phía ngoài công trình và giao thông đô thị bằng cách xử lý riêng trong công trường hoặc có hố thu gom và chuyên chở ra nơi qui định. (ii). Các dung dịch khoan hoặc bùn đất phải thu gom và lắng đọng để nạo vét hoặc thu hồi. d) Thu gom phế thải các công trường thi công. (i). Có biện pháp quản lý, thu gom phế thải xây dựng, chỗ vệ sinh tạm thời cho công nhân xây dựng. (ii). Cấm đổ phế thải xây dựng tự do từ trên cao xuống mặt đất hoặc sàn dưới. (iii). Phải có kế hoạch thu gom, vận chuyển chất thải xây dựng đến nơi quy định. 4. ở những nơi quá chật hẹp phải xin phép nơi đổ phế thải tạm thời e. An toàn vệ sinh trong thi công và bảo vệ công trình xây dựng (i). Các công trường xây dựng phải thực hiện những qui định về vệ sinh và an toàn lao động theo TCVN 5308-91, an toàn điện TCXDVN 394-2007, và Qui chuẩn xây dựng - 1996. (ii). Công trường phải được che chắn chống bụi và vật rơi từ trên cao, chống ồn và rung động quá mức TCVN TCVN 3985-85, phòng chống cháy TCVN 3254-89, an toàn nổ TCVN3255-86 trong quá trình thi công. (iii). Xe vận chuyển vật tư, vật liệu xây dựng rời, phế thải xây dựng dễ gây bụi và làm bẩn môi trường phải được bọc kín, tránh rơi vãi; tránh mang bùn, bẩn trong công trường ra đường phố và hệ thống đường giao thông công cộng. (iv). Công trình kĩ thuật hạ tầng tại công trường: Bảo vệ cây xanh trong và xung quanh công trường, việc chặt hạ cây xanh phải được phép cơ quan quản lý cây xanh; Việc chiếu sáng bên ngoài phải tuân theo tiêu chuẩn, đối với các nhà cao tầng phải có đèn báo hiệu an toàn ban đêm; Các công trình vệ sinh tạm thời phải được xử lý triệt để và không gây ảnh hưởng đến môi trường lâu dài sau khi hoàn thành công trình. (v). Phải có biện pháp cụ thể để bảo vệ cảnh quan, giá trị thẩm mỹ, không gian kiến trúc và các yêu cầu khác của khu vực xung quanh trong quá trình thi công xây dựng công trình. Bảo vệ môi trường trong cơ sở sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng a) Các cơ sở sản xuất xi măng 1. Phải xử lý từ khâu nhập nguyên, nhiên vật liệu (đát sét, đá vôi, than, dầu...) đến khâu thành phẩm (bụi xi măng) trong các nhà xưởng theo tiêu chuẩn môi trường lao động. 2. Đối với bụi và khí thải có nguồn gốc từ đốt nhiên liệu khi nung luyện clinker và trong khâu nghiền phải qua xử lý lọc bụi, cần phải tính toán đầy đủ chiều cao của ống khói với địa hình cho phép theo tiêu chuẩn môi trường. 3. Đối với công nghệ xi măng lò quay sản xuất theo phương pháp ướt là loại công nghệ lạc hậu, tổn hao năng lượng lớn, ô nhiễm môi trường trầm trọng cần ưu tiên đầu tư chuyển sang công nghệ khô (hoặc phải cải tạo môi trường theo hướng đầu tư hiện đại nhất). Cần phải tuân thủ các qui định về an toàn lao động và vệ sinh môi trường theo các TCVN có liên quan đối với công nghệ xi măng lò đứng và lò quay. 4. Đối với công nghệ xi măng lò đứng, phải tiến hành cải tiến kỹ thuật đầu tư chiều sâu hoàn thiện dây chuyền, bảo đảm an toàn lao động và bảo vệ môi trường: cần sớm loại bỏ những cơ sở xi măng lò đứng không đáp ứng yêu cầu chất lượng sản phẩm và gây ô nhiễm môi trường. b) Các cơ sở sản xuất thuỷ tinh và gốm xây dựng: + Các cơ sở sản xuất gạch xây: a. Lò nung sấy tuynen ô nhiễm khí thải vẫn còn lớn, cần trang bị hệ thống hấp phụ SO2 hoặc ống khói đủ chiều cao nhằm lan toả khí thải theo hướng pha loãng. b. Đối với loại lò gạch sản xuất theo kiểu thủ công lãng phí nguyên liệu, nhiên liệu và gây ô nhiễm môi trường, cần hạn chế ô nhiễm môi trường tiến đến thay thế dần loại sản xuất gạch thủ công bằng loại lò nung sấy tuynen. + Các cơ sở sản xuất tấm lợp, má phanh ô tô: a. Các cơ sở sản xuất này gây ô nhiễm môi trường do khí thải, nước thải và bụi amiăng, xi măng. Phải có biện pháp kỹ thuật để xử lý nhằm bảo đảm vệ sinh môi trường và an toàn lao động, hạn chế và loại trừ các chất ô nhiễm trước khi xả ra nguồn tiếp nhận và phải được đưa đến vị trí theo quy hoạch được duyệt. b. Việc sử dụng nguyên liệu và sản xuất sản phẩm có chứa amiăng cần thực hiện đúng các quy định hiện hành. + Cơ sở sản xuất thuỷ tinh, kính tấm xây dựng: Ô nhiễm bụi, dầu mỡ, khí SO2, HF và các khí độc hại khác cũng phải được loại trừ trước khi xả ra nguồn tiếp nhận. + Các cơ sở sản xuất thiết bị sứ vệ sinh và gạch lát: Các cơ sở sản xuất này gây ô nhiễm môi trường chủ yếu là bụi, khí thải và nước thải; ở phân xưởng sản xuất và tráng men có hàm lượng cặn lơ lửng rất cao; Phải có các biện pháp kỹ thuật xử lý bụi và lắng cặn nước thải đạt tiêu chuẩn trước khi xả ra nguồn tiếp nhận. + Các cơ sở sản xuất sản phẩm cơ khí xây dựng: Ô nhiễm chủ yếu là xỉ than, bã đất đèn, phoi sắt thép, SiO2, NaCO3, cát làm khuôn, khí thải, dầu mỡ và các kim loại nặng trong nước thải (đặc biệt là phân xưởng mạ). Phải có biện pháp thu khí, bụi, thu dầu mỡ; Trung hoà và xử lý nước thải đạt chất lượng trước khi thải ra nguồn tiếp nhận. + Các cơ sở khai thác cát, đá, sỏi làm cốt liệu bê tông, khai thác gia công đá ốp lát: 1. Phải bảo vệ cảnh quan, giảm thiểu sự thay đổi bề mặt đất đai, thay đổi dòng chảy các sông suối. 2. Bụi đá và nước thải phải được xử lý đạt tiêu chuẩn trước khi xả ra nguồn tiếp nhận. 3. Phải có biện pháp kiểm soát và xử lý bụi đá từ nguồn phát sinh để bảo đảm môi trường lao động và môi trường chung: trong nhà phải được thu hút và lọc bụi, ngoài công trường phải phun ẩm nhằm giảm lượng bụi phát tán. + Khuyến khích các cơ sở sản xuất các sản phẩm vật liệu xây dựng đạt chất lượng môi trường. Các cơ sở sản xuất phải xác định các yếu tố chủ yếu của hệ thống quản lý môi trường của mình để xây dựng nội qui quản lý cơ sở, cụ thể gồm: 1. Phổ biến nhằm quán triệt những quy định về quản lý môi trường từ thủ trưởng đơn vị đến tất cả mọi thành viên trong đơn vị. 2. Xác định các sản phẩm của cơ sở sản xuất cần đạt tiêu chuẩn môi trường. 3. Nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật cụ thể để bảo vệ môi trường. 4. Cần Qui định cụ thể về công nghệ, kinh phí và lực lượng thực hiện hoạt động quản lý môi trường, có quy chế cụ thể để lực lượng này hoạt động. 5. Đào tạo và có các phương pháp nâng cao nhận thức về quản lý chất lượng sản phẩm theo yêu cầu bảo vệ môi trường cho cán bộ, công nhân viên. 6. Tổ chức thông tin, tuyên truyền trong nội bộ và bên ngoài về vấn đề bảo vệ môi trường. Các thông tin phải được lưu giữ để có thể kiểm tra xử lý kịp thời. 7. Định kỳ kiểm tra mạng lưới tổ chức bảo vệ môi trường của cơ sở. 8. Cấp quản lý phải kiểm tra hệ thống kỹ thuật bảo vệ môi trường nhằm bảo đảm hệ thống hoạt động liên tục, thường xuyên và có hiệu quả. 9. Phấn đấu bảo đảm cơ sở sản xuất được cấp chứng chỉ theo các tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9.000 và các tiêu chuẩn quản lý môi trường ISO 14.000. + An toàn và vệ sinh lao động trong sản xuất vật liệu xây dựng 1. Các cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng phải tổ chức định kỳ kiểm tra, đo đạc các yếu tố môi trường lao động theo quy định hoặc theo giấy phép về môi trường. Yếu tố môi trường lao động gồm: a. Các yếu tố vi khí hậu (nhiệt độ, độ ẩm, tốc độ gió, bức xạ nhiệt); b. Các yếu tố vật lý (ánh sáng, tiếng ồn, rung, các bức xạ có hại: bức xạ ion hoá và không ion hoá), c. Các yếu tố hoá học (hơi, khí, bụi độc, chất hoá học) d. Các vi sinh vật gây bệnh như vi khuẩn, siêu vi khuẩn, nấm mốc, các loại ký sinh trùng, côn trùng. e. Khi các yếu tố độc hại vượt quá tiêu chuẩn vệ sinh cho phép thì phải có biện pháp khắc phục ngay; hoặc nếu thấy có khả năng xẩy ra sự cố bất thường gây nguy cơ đến sức khoẻ và tính mạng của người lao động thì phải ngừng ngay hoạt động và báo ngay cho cơ quan có trách nhiệm để kiểm tra, xử lý kịp thời. 2. Cơ sở sản xuất phải bảo đảm những quy định về an toàn lao động và vệ sinh môi trường cho từng cá nhân. Xe vận chuyển nguyên liệu, vật liệu, vật tư xây dựng ra khỏi công xưởng, xí nghiệp sản xuất vào đường phố phải che kín, tránh rơi vãi. 2.3.2 Kế hoạch bảo vệ môi trường trong quá trình thi công: Phải căn cứ vào tiến độ thi công để lập kế hoạch bảo vệ môi trường trong quá trình thi công. Tùy thuộc biện pháp thi công cho từng thời gian thi công, quá trình thi công thải loại ra các yếu tố gây ô nhiễm cho môi trường, phải có giải pháp được sắp xếp để đối phó, ngăn chặn sự làm ô nhiễm cho khu vực xây dựng. Khi thi công đất, đất đào ra sẽ được vận chuyển cất chứa hay đổ tại đúng vị trí qui định. Biện pháp chống bụi do đất đào bị gió tung lên không gian bằng cách tưới ẩm cho khu vực đào, xe vận chuyển phải có nắp che chắn, biện pháp chống rơi vãi đất ra đường vận chuyển. Nếu sử dụng nước, đề phòng sự gây bẩn vì nước thải, nước bơm từ hố đào. Khi nấu nhựa đường hay các sản phẩm khác, chống khói, bụi. Bể ngâm tẩm gỗ, chống bốc hơi độc... Ứng với mỗi biện pháp thi công gây ảnh hưởng xấu đến môi trường cần có biện pháp chống lại các ảnh hưởng ấy. Những biện pháp này gắn với thời gian xảy ra để người điều hành tiện độ nhận biết được khi bắt đầu tiến hành công việc. 3. Các biện pháp kiểm soát và đảm bảo an toàn lao động và môi trường xây dựng Để kiểm soát và bảo đảm an toàn lao động và môi trường xây dựng phải dựa vào các bản kế hoạch bảo đảm an toàn và môi trường xây dựng. Chủ đầu tư phải căn cứ vào bản kế hoạch bảo đảm an toàn lao động và môi trường xây dựng để phân công cho các đơn vị chuyên trách, đơn vị phối hợp và các cá nhân chịu trách nhiệm cụ thể theo dõi, giám sát quá trình thi công và đôn đốc thực hiện các biện pháp bảo vệ an toàn và môi trường. Quá trình theo dõi, đôn đốc, giám sát quá trình thi công về mặt an toàn và môi trường, cá nhân và đơn vị được phân công phải lập báo cáo định kỳ và báo cáo đột xuất gửi chủ đầu tư xem xét và quyết định xử lý. Báo cáo định kỳ có thể có chu kỳ là 1 tuần, 1 tháng, 1 quý. Báo cáo đột xuất, không thường xuyên khi có nguy cơ hoặc khả năng xảy ra sự cố hoặc tai nạn. Kết luận: Bảo đảm an toàn lao động và môi trường là yêu cầu của Nhà Nước. Sản xuất an toàn và bảo vệ môi trường an toàn là tiêu chí nhân văn. Vấn đề sản xuất an toàn được đưa vào các văn bản pháp luật, đòi hỏi được tuân thủ nghiêm túc./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbai5_chihuytruong_atld_2931.doc