Chương trình đào tạo chỉ huy trưởng công trường - Bài 1 Nhiệm vụ

Bài tập 1 : Nêu sự khác nhau và giống nhau giưa một tổ chức xã hội với tổ chức sản xuất. Bài tập 2 : Tổ chức sản xuất xây dựng khác với tổ chức sản xuất sản phẩm cơ khí hàng loạt ở những điểm nào ?

doc36 trang | Chia sẻ: truongthinh92 | Lượt xem: 1627 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chương trình đào tạo chỉ huy trưởng công trường - Bài 1 Nhiệm vụ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dưới đây: a) Hạng 1: - Có thời gian liên tục làm công tác thi công xây dựng tối thiểu 7 năm; - Đã là chỉ huy trưởng công trường của công trình cấp đặc biệt hoặc cấp I hoặc 2 công trình cấp II cùng loại. b) Hạng 2: - Có thời gian liên tục làm công tác thi công xây dựng tối thiểu 5 năm; - Đã là chỉ huy trưởng công trường của công trình cấp II hoặc 2 công trình cấp III cùng loại. c) Đối với vùng sâu, vùng xa, những người có trình độ cao đẳng hoặc trung cấp thuộc chuyên ngành xây dựng phù hợp với loại công trình, có kinh nghiệm thi công tối thiểu 5 năm được giữ chức danh chỉ huy trưởng hạng 2. 2. Phạm vi hoạt động: a) Hạng 1: được làm chỉ huy trưởng công trình cấp đặc biệt, cấp I, II, III và IV cùng loại; b) Hạng 2: được làm chỉ huy trưởng công trình cấp II, III và IV cùng loại; c) Đối với cá nhân chưa được xếp hạng thì chỉ làm được chỉ huy trưởng công trình cấp IV; nếu đã làm chỉ huy trưởng 5 công trình cấp IV thì được làm chỉ huy trưởng công trình cấp III cùng loại. Chỉ huy công trưởng điều hành tổ chức thi công nên phải có điều kiện năng lực như quy định sau đây: 1. Năng lực của tổ chức thi công xây dựng công trình được phân thành 2 hạng theo loại công trình như sau: a) Hạng 1: - Có chỉ huy trưởng hạng 1 của công trình cùng loại; - Có đủ kiến trúc sư, kỹ sư thuộc chuyên ngành phù hợp với loại công trình thi công xây dựng; - Có đủ công nhân kỹ thuật có chứng chỉ đào tạo phù hợp với công việc đảm nhận; - Có thiết bị thi công chủ yếu để thi công xây dựng công trình; - Đã thi công xây dựng ít nhất 1 công trình cấp đặc biệt, cấp I hoặc 2 công trình cấp II cùng loại. b) Hạng 2: - Có chỉ huy trưởng hạng 1 hoặc hạng 2 của công trình cùng loại; - Có đủ kiến trúc sư, kỹ sư thuộc chuyên ngành phù hợp với loại công trình thi công xây dựng; - Có đủ công nhân kỹ thuật có chứng chỉ đào tạo phù hợp với công việc đảm nhận; - Có thiết bị thi công chủ yếu để thi công xây dựng công trình; - Đã thi công xây dựng ít nhất 1 công trình cấp II hoặc 2 công trình cấp III cùng loại. 2. Phạm vi hoạt động: a) Hạng 1: được thi công xây dựng công trình cấp đặc biệt, cấp I, cấp II, cấp III và cấp IV cùng loại; b) Hạng 2: được thi công xây dựng công trình từ cấp II, cấp III và cấp IV cùng loại; c) Đối với tổ chức chưa đủ điều kiện để xếp hạng thì được thi công xây dựng công trình cải tạo, sửa chữa có tổng mức đầu tư dưới 3 tỷ đồng, nhà ở riêng lẻ. 3. Đối với tổ chức thi công xây dựng công trình chưa đủ điều kiện xếp hạng, nếu đã thi công cải tạo 3 công trình thì được thi công xây dựng công trình cấp IV và tiếp sau đó nếu đã thi công xây dựng ít nhất 5 công trình cấp IV thì được thi công xây dựng công trình cấp III cùng loại. 2. Ràng buộc về chức năng 2.1 Chỉ huy trưởng công trường là nhà tổ chức sản xuất xây dựng 2.1.1 Những khái niệm chung về tổ chức sản xuất xây dựng 1. Tổ chức Khái niệm về tổ chức Tổ chức là một tập hợp nhiều người có những đặc tính giống nhau nhằm thực hiện một hoặc một số mục tiêu xác định. Những loại tổ chức: Tổ chức chính trị Là tập hợp những người có cùng khuynh hướng chính trị, tập trung trong tổ chức để thực hiện mục tiêu chính trị xác định. Tổ chức xã hội Là tập hợp những người có cùng nguyện vọng, quyền lợi giống nhau cùng hành động như nhau nhằm thực hiện mục tiêu xã hội đề xuất. Tổ chức kinh tế Là tập hợp những người có những đặc thù nghề nghiệp thích hợp nhằm tạo ra sản phẩm hay dịch vụ phục vụ xã hội. Một tổ chức phải xây dựng được mục tiêu hành động cho tổ chức mình. Để thực hiện có hiệu quả mục tiêu, tổ chức phải xây dựng được điều lệ, tôn chỉ đúng đắn nhằm thu hút mọi cố gắng của các thành viên trong các hoạt động của tổ chức. - Mục tiêu của tổ chức Tập tài liệu này tập trung vào tổ chức kinh tế nên không đề cập đến các tổ chức chính trị, xã hội. Một tổ chức kinh tế phải xác định được mục tiêu, chiến lược và kế hoạch hành động cho doanh nghiệp của mình. Những mục tiêu chính của một doanh nghiệp là : + Mục tiêu kiếm lời ( profit objective ) Sản xuất, kinh doanh cần chi phí để trang trải những chi tiêu phục vụ cho sản xuất và các rủi ro trong quá trình sản xuất. Lợi nhuận nhằm bù đắp mọi chi phí trong quá trình sản xuất và tạo ra sự phát triển tiếp tục. Không có lợi nhuận sẽ không đủ tiền lương bù đắp cho lao động tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ không thể cung ứng hàng hoá hay dịch vụ cho khách hàng và cộng đồng. + Mục tiêu cung ứng ( service objective ) Tổ chức kinh tế có nhiệm vụ phải cung ứng hàng hoá hoặc dịch vụ cho xã hội. Đó là sự phân công chung của cộng đồng. Đây là nghĩa vụ của doanh nghiệp sản xuất hay dịch vụ với xã hội nhằm giữ cho cộng đồng tồn tại và phát triển. Việc cung ứng sản phẩm hay dịch vụ phụ thuộc vào nhu cầu của xã hội. Nhu cầu của xã hội phát triển không ngừng nên mục tiêu cung ứng này cũng thường xuyên thay đổi cho phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của công chúng và tình trạng cạnh tranh trên thị trường. + Mục tiêu phát triển ( growth objective ) Trong một nền kinh tế đang mở mang thì sự phát triển của tổ chức kinh tế là dấu hiệu của sự tăng trưởng lành mạnh. Để thực hiện phát triển lành mạnh, tổ chức kinh tế mà ta sẽ gọi là các doanh nghiệp phải được tăng thêm vốn liên tục. Vốn tăng có thể do được huy động thêm dưới mọi hình thức hoặc sử dụng chính ngay lợi nhuận tạo ra để làm tăng vốn. + Trách nhiệm với xã hội ( social responsibilities ) Ngoài việc kiếm lợi nhuận, doanh nghiệp còn có nghĩa vụ với xã hội như là bảo vệ quyền lợi của khách hàng, của những người cung cấp đầu vào cho sản xuất của doanh nghiệp , với nhân viên của mình. Nói rộng ra là doanh nghiệp phải bảo vệ quyền lợi của cộng đồng. Trong mọi hoạt động sản xuất và kinh doanh, doanh nghiệp phải tuân theo pháp luật, những quy định chung của cộng đồng và phải bảo đảm sự bền vững của môi trường sinh thái. Doanh nghiệp phải chịu sự quản lý của Nhà Nước về đường lối phát triển kinh tế chung và doanh nghiệp phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đạo đức kinh doanh ( business ethics ) là yêu cầu về phép ứng xử của doanh nghiệp nhằm dung hoà lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của cộng đồng. Sau khi xây dựng được mục tiêu của tổ chức kinh tế, doanh nghiệp phải xây dựng chiến lược phát triển doanh nghiệp . Kế hoạch hành động là công việc phải xây dựng thường xuyên cho các khoảng thời gian nhằm đạt được các mục tiêu và chiến lược đề ra. - Yêu cầu của tổ chức Một tổ chức sản xuất kinh doanh phải xác định rõ mục tiêu, chiến lược kinh doanh và có kế hoạch hành động thực hiện mục tiêu rõ ràng. Tổ chức hoạt động theo điều lệ chặt chẽ nhằm bảo đảm mọi hoạt động đạt được mục tiêu. Có hai phạm trù khi xây dựng chiến lược kinh doanh của tổ chức cần xác định rõ ràng là cơ chế hoạt động và cơ cấu của tổ chức cần phù hợp nhằm tạo mọi điều kiện cho mọi hoạt động của tổ chức được thuận lợi. Cơ chế là những qui định về mối quan hệ giữa các thành viên và thành phần của cơ cấu trong tổ chức. Cơ chế là chính sách chung của doanh nghiệp về quan hệ giữa người với người trong và ngoài doanh nghiệp, là quan hệ giữa người và vật tư trong lao động sản xuất, quan hệ giữa người lao động và công cụ sản xuất, là phương pháp hoạt động của doanh nghiệp, là mối quan hệ giữa các thành phần của cơ cấu trong doanh nghiệp và chính sách thụ hưởng, chính sách phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp. Cơ chế trong doanh nghiệp của nền kinh tế thị trường phải thể hiện được: + Sự thống nhất giữa quan điểm và chủ trương của doanh nghiệp với định hướng kinh tế – chính trị của đất nước. + Phải lấy khách hàng là đối tượng định ra cơ chế sản xuất cho phù hợp. + Phải đạt được mục đích của sản xuất là hiệu quả và tiết kiệm + Phải đáp ứng được các chức năng cơ bản của doanh nghiệp một cách thuận lợi, không được cứng nhắc để gây cản trở cho việc thực hiện các chức năng của doanh nghiệp. Cơ cấu là các tổ chức bộ phận được thiết lập trong doanh nghiệp và mối liên hệ giữa những bộ phận ấy. Những cơ cấu chính được thực hiện là: + Cơ cấu tổ chức trực tuyến là cơ cấu mà người lãnh đạo doanh nghiệp thực hiện hết các chức năng của quản lý. Trong cơ cấu này, mọi liên hệ giữa các thành viên trong tổ chức là liên hệ trực tiếp. + Cơ cấu tổ chức theo chức năng là cơ cấu mà nhiệm vuh quản lý được phân chia cho các đơn vị riêng biệt theo các chức năng của quản lý. + Cơ cấu tổ chức kiểu trực tuyến có tham mưu , bên cạnh người lãnh đạo có hệ thống tham mưu, cố vấn. + Cơ cấu tổ chức kiểu trực tuyến-chức năng là cơ cấu hiện nay đang được các tổ chức ở nước ta áp dụng phổ biến. Theo cơ cấu này, người lãnh đạo doanh nghiệp được sự trợ giúp của các cấp chức năng để chuẩn bị các quyết định, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện các quyết định. Hai phạm trù cơ chế và cơ cấu phản ánh chính sách chung của doanh nghiệp trong sản xuất, kinh doanh. Cần luôn ý thức rõ ràng rằng thị trường luôn luôn biến động nên cơ chế và cơ cấu phải phản ánh được tính chất “ động ” của thị trường mà doanh nghiệp là một thành viên của thị trường, tồn tại và phục vụ thị trường. Từng giai đoạn, cơ chế và cơ cấu cần được xem xét và kiểm tra tính phù hợp với thị trường vào từng thời điểm. Không nên coi cơ chế, cơ cấu của tổ chức là điều không thay đổi được dẫn đến sự cứng đờ của cơ chế hoặc cơ cấu của doanh nghiệp, làm cho doanh nghiệp không thích ứng với thị trường. 2.2 Sự gắn liền tổ chức và quản lý Tổ chức là sự gắn kết nhiều người với nhau để thực hiện những mục tiêu mà với tư cách cá nhân riêng lẻ thì họ không thể đạt được. Quản lý là yếu tố cần thiết để bảo đảm sự phối hợp những nỗ lực cá nhân. Quản lý là sự tạo dựng nên môi trường mà trong đó mỗi người tham gia trong tổ chức có thể hoàn thành các mục tiêu đề ra cho mình theo nhóm với thời gian, tiền bạc, chi phí vật chất và sự không thoả mãn cá nhân ít nhất. Quản lý là sự tiến hành những phương thức nhằm đạt được mục tiêu đề ra với mức sử dụng nguồn lực có thể có được. Quản lý là một khoa học nhưng quản lý đôi khi còn là nghệ thuật. Là khoa học, có nghĩa là quản lý tuân theo những nguyên tắc đã rõ ràng, đã được chứng minh là đúng. Thí dụ như thống kê và ghi chép có hệ thống mọi hoạt động của doanh nghiệp nhằm theo rõi mọi chi phí bỏ ra và thu lại. Cần thực hiện chế độ kế toán thích hợp để có thể nắm chắc mọi hoạt động tài chính của doanh nghiệp là những yêu cầu sinh tử của doanh nghiệp. Trong điều hành quản lý, có những kỹ thuật phải tuân thủ nhằm đưa công tác phối hợp những thành viên trong tổ chức được có hiệu quả. Chẳng hạn như những quy định về chế độ báo cáo định kỳ hoặc báo cáo đột xuất nhằm làm cho người quản lý luôn có đầy đủ những thông tin của quá trình sản xuất. Hiện nay, trong điều kiện cụ thể của nước ta, quản lý đôi khi thể hiện còn là nghệ thuật. Có nghĩa là một số khâu trong công tác quản lý chưa chứng minh được hết là vì sao thực hiện nó lại tốt nhưng thực tế đem thực hiện những khâu ấy lại có hiệu quả là đạt được mục tiêu đề ra với chi phí chấp nhận được. Một số nguyên tắc trong quản lý có tính chất mô tả hoặc tiên đoán chứ chưa mang tính chất tất yếu. Vì những nguyên tắc này còn đôi khi có tính chất nghệ thuật. Điều này phản ánh rằng có những nguyên tắc trong quản lý phản ánh sự liên hệ của một biến số với các biến số khác sẽ diễn ra thế nào khi các biến số này tác động qua lại. Phải tiên đoán được sự việc thông qua những thông tin thu thập được , hoạt động quản lý mới có hiệu quả. Trong quản lý có những kỹ thuật quản lý. Kỹ thuật quản lý là phương pháp thực hiện các công việc sao cho công việc đạt được mục tiêu định trước. Kỹ thuật quản lý là những hoạt động tác nghiệp phải tuân theo nhằm đạt được mục tiêu chi tiết hoặc mục tiêu tổng thể có hiệu quả nhất. Thí dụ trong quản lý phải thực hiện các kỹ thuật lập ngân sách, hạch toán giá thành, lập kế hoạch và kiểm tra sự thực hiện các điều đã nêu lên trong kế hoạch ( phương pháp PERT) hoặc phương pháp đường găng ( CPM ) , lên kế hoạch nhờ sử dụng chương trình Microsoft Project, kiểm tra tỷ lệ thu hồi vốn đầu tư, các biện pháp phát triển tổ chức, cách quản lý theo mục tiêu . . . Kỹ thuật quản lý là những nguyên tắc và phương pháp cần tuân thủ nhằm làm cho các hoạt động sản xuất có hiệu quả nhất. Mọi hoạt động của tổ chức gắn chặt chẽ với các hoạt động quản lý, vì thế ta thấy xuất hiện khái niệm tổ chức quản lý sản xuất gắn liền với nhau, khó tách rời nhau, cũng như không được phép tách rời nhau. Tổ chức quản lý đòi hỏi phải được trang bị cho các nhà tổ chức quản lý những kiến thức có hệ thống. Hệ thống có nghĩa là một tập hợp các sự vật có liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau để hình thành nên một tổng thể hoàn chỉnh. Hệ thống tổ chức quản lý của doanh nghiệp là hệ thống mở ( opening system ) điều đó có nghĩa là để tạo dựng nên hệ thống tổ chức quản lý một doanh nghiệp phải xét đến rất nhiều hệ thống khác tác động tới. Tự tạo ra sự tách biệt giữa các hệ thống làm cho mọi hoạt động của doanh nghiệp nhiều khi thất bại. Hệ thống tổ chức quản lý doanh nghiệp cho đến nay là hệ thống phức tạp trong điều kiện nước ta. Các nhà quản lý doanh nghiệp cần thiết phải được trang bị kiến thức để điều hành tốt doanh nghiệp của mình, sinh lợi chính đáng và phục vụ được thị trường theo đúng đường lối phát triển kinh tế của đất nước. 3. Tác động của tổ chức quản lý là con người Hoạt động quản lý nhằm làm cho tổ chức thực hiện được các mục tiêu đã thiết lập. Quản lý đề ra các nguyên tắc phải tuân thủ nhằm tiến hành phân tích các hoạt động của sản xuất, thúc đẩy , kiểm tra, hiệu chỉnh sản xuất để đạt được mục tiêu có chất lượng nhất, đúng thời hạn, chi phí tiết kiệm nhất. Tổ chức quản lý doanh nghiệp thực chất là điều khiển doanh nghiệp hoàn thành mục tiêu đề ra. Khi phải tiến hành điều khiển, tổ chức sản xuất phải tuân theo các quy luật của điều khiển nói chung và điều khiển cụ thể trong môi trường doanh nghiệp. Nguyên tắc chung của điều khiển một hệ thống là : hệ điều khiển phải có năng lực cao hơn, có độ phức tạp nhiều hơn hệ bị điều khiển. Nếu hệ bị điều khiển phức tạp hơn hệ điều khiển thì hệ thống sẽ có những trục trặc xảy ra. Thí dụ như một máy tính điện tử chẳng hạn. Mỗi máy có một tính năng và cấu hình xác định. Hệ điều hành chỉ giới hạn trong cấu hình của máy. Nếu ta đồng thời ra nhiều lệnh mà máy chưa kịp sử lý dẫn đến tình trạng treo máy vì sử lý không kịp. Sự cải thiện thường xuyên , nâng cao chất lượng thường xuyên hệ điều khiển cho thích ứng với nhiệm vụ của từng giai đoạn phát triển doanh nghiệp là yêu cầu tất yếu. Điều này là yêu cầu nghiêm khắc của thời kỳ mới của sự phát triển kinh tế ngày nay. Mỗi con người với tư cách là một thành viên trong hệ bị điều khiển lại là một hệ thống phức tạp. Từng người có những nhu cầu , năng lực, trình độ, tâm tư, nguyện vọng cũng như tình cảm, sức khoẻ, hoàn cảnh giống nhau và cũng rất khác nhau. Cho nên điều khiển một hệ thống có con người tham gia được coi là điều khiển một hệ thống lớn. Điều khiển một hệ thống có con người tham gia phải bảo đảm hiểu biết hết được những đặc điểm sau đây: + Phải nắm vững mục tiêu của sản xuất và con đường dẫn đến mục tiêu. Điều này có nghĩa là, người lãnh đạo sản xuất phải hiểu được mặt hàng sẽ xuất xưởng là mặt hàng nào , phương thức để chế tạo, sản xuất ra mặt hàng ấy. Người đứng ra tổ chức sản xuất trong quy mô của mình phải biết được mình muốn gì, và bằng cách nào để đạt được ý muốn ấy. Người tổ chức sản xuất cần có đủ trình độ để hiểu biết về sản xuất trong phạm vi mình phụ trách. Trong điều kiện cần nâng cao chất lượng sản phẩm thường xuyên, cần đáp ứng những nhu cầu mới của thị trường, bắt buộc người tổ chức sản xuất phải thường xuyên học tập, cập nhật tri thức thì mới hoàn thành được nhiệm vụ. Trước đây, do đặc thù của xã hội nước ta là một nước đi lên từ nghèo nàn và lạc hậu, chúng ta lại phải trải qua hai cuộc chiến tranh chống ngoại xâm nên điều kiện sản xuất theo công nghiệp hoá gặp nhiều khó khăn. Tiêu chí lựa chọn cán bộ lại không dựa chính vào kỹ năng nghề nghiệp nên sản phẩm tạo ra có chất lượng thấp. Phần lớn người lao động trong ngành xây dựng không được đào tạo có hệ thống nên chất lượng công trình không đạt . Cũng do nền kinh tế đi lên từ mức khởi điểm rất thấp nên yêu cầu chính là hãy có sản phẩm còn khâu chất lượng được xếp sau khâu số lượng nên thời gian tới đây, những người tham gia trong tổ chức sản xuất xây dựng phải nỗ lực phấn đấu nhiều, phải học tập nhiều. + Trong hệ thống có con người tham gia, cần lưu ý đến các đặc điểm sinh vật của con người . Sinh vật có đặc tính là thường xuyên tạo ra các kháng thể chống lại những kích thích tác động vào nó như là một bản năng tự vệ. Cho nên muốn người lao động tham gia có hiệu quả trong tổ chức sản xuất thì phải làm cho con người muốn lao động. Để cho con người muốn lao động phải cho họ thấy rõ rằng lao động mang lại lợi ích chính cho bản thân mình . Phải đi làm và làm tốt nhiệm vụ của mình mới có lương, có thu nhập để nuôi sống và phát triển bản thân mình. Khi người lao động không ham muốn lao động thì kết quả lao động rất thấp. Khi đó, lao động chỉ là chiếu lệ, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm lao động kém. Cần tạo ra những kích thích để người lao động ham công việc của mình. Những kích thích này là yếu tố thúc đẩy sản xuất như là trả lương theo số lượng và chất lượng sản phẩm đạt được chẳng hạn, thi đua và khen thưởng theo kết quả thi đua là yếu tố kích thích sản xuất. Nguyên tắc để người lao động ham làm tốt nhiệm vụ của mình là phải để người lao động thấy được nếu họ hoàn thành có hiệu quả cao công việc của mình, họ sẽ được điều gì đó. Hãy tạo cho người lao động lòng ham muốn lao động. Tuy nhiên, là sinh vật nên con người thường bị những phản ứng tự thân làm cho mọi kích thích bị nhàm chán. Đặc điểm này được gọi là tính trơ nhờn sinh học. Cần thường xuyên nâng cao mức độ của các giải pháp kích thích, chống lại hiệu ứng trơ nhờn. Không những thực hiện các biện pháp kích thích sản xuất tích cực là nếu sản xuất tốt, người lao động sẽ được thêm lợi ích mà còn phải thực hiện biện pháp kích thích tiêu cực là nếu sản xuất kém, người lao động sẽ bị thiệt thòi điều gì đó. Thu lợi nếu sản xuất tốt. Giảm lợi nếu sản xuất kém. Hai kiểu kích thích phải đan xen và tác động vào người lao động, tạo nên nguồn kích thích đồng bộ , chống hiệu ứng trơ nhờn trong con người là nguyên tắc điều khiển hệ thống có con người tham gia. Những biện pháp kích thích sản xuất cụ thể rất đa dạng. Có thể những kích thích thuộc về loại tinh thần, như nếu sản xuất tốt, được cấp giấy khen, được đưa vào bảng danh dự, được kết nạp công đoàn, đoàn thanh niên. Cũng có thể là những kích thích vật chất như tăng mức lương, thưởng tiền hay hiện vật . Lúc nào cũng cần lưu tâm đến đặc tính sinh vật là tính trơ nhờn nên phải thường xuyên đổi mới kiểu hay mức độ kích thích, tạo cho người lao động có lòng ham muốn sản xuất. 3. 1 Tổ chức sản xuất Khái niệm : Tổ chức sản xuất là tập hợp những hoạt động nhằm tạo ra của cải hàng hoá hay dịch vụ để cung ứng các nhu cầu của cộng đồng. Là một tổ chức nên tổ chức sản xuất , kinh doanh phải tuân thủ các nguyên tắc hình thành nên một tổ chức. Tổ chức sản xuất phải định rõ cơ chế và cơ cấu như mọi loại tổ chức khác. Ngoài ra do sự biến động của thị trường nên tổ chức sản xuất phải mềm dẻo và có tính linh hoạt theo các điều kiện cụ thể của thị trường . Tổ chức sản xuất có chức năng cung ứng hàng hoá hay dịch vụ cho thị trường nên loại tổ chức này phải tuân theo những quy luật của sản xuất hàng hoá hay dịch vụ của thị trường. Tổ chức sản xuất nằm trong cơ cấu chung của nền kinh tế quốc dân nên tổ chức sản xuất phải tuân theo những định chế của một đơn vị trong hệ thống kinh tế xã hội của quốc gia. Tổ chức sản xuất phải thi hành các nghĩa vụ với Nhà Nước, phải hoạt động theo pháp luật và theo những định hướng chung của đường lối phát triển kinh tế của Nhà Nước. Quá trình sản xuất của doanh nghiệp phải đảm bảo sự phát triển bền vững của địa phương, bảo đảm sự an toàn cho người lao động , cho môi trường sinh thái của nơi sản xuất. - Mục tiêu của tổ chức sản xuất Tổ chức sản xuất hay dịch vụ được hình thành nhằm cung ứng hàng hoá hay dịch vụ cho xã hội. Xã hội trong nền kinh tế thị trường và phát triển có những nhu cầu thường xuyên nâng cao và biến động nên mục tiêu của tổ chức sản xuất phải đáp ứng sự phát triển này. Kinh tế thị trường tồn tại sự cạnh tranh nhằm tạo được lợi ích cho người tiêu dùng. Nhờ cạnh tranh mà xã hội phát triển, sản xuất hàng hoá ngày càng hoàn thiện hơn. Mục tiêu của doanh nghiệp được xây dựng phải phù hợp với vốn đăng ký và vốn hoạt động của doanh nghiệp. Phải xác định rõ phạm vi sản xuất và quy mô sản xuất. Mặt hàng sản xuất phải phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của Nhà Nước và địa phương , nơi quản lý doanh nghiệp. Mục tiêu sản xuất của doanh nghiệp phải đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, của địa phương. Mục tiêu sản xuất phải tạo ra mặt hàng tiên tiến, tham gia chung trong nền kinh tế của quốc gia và địa phương, không trái với pháp luật và không được tạo ra ô nhiễm môi trường sinh thái của khu vực sản xuất. - Yêu cầu của tổ chức sản xuất Tổ chức sản xuất phải phù hợp với mục tiêu đã xây dựng. Sự phù hợp của tổ chức sản xuất với mục tiêu cần bảo đảm được trên các mặt quy mô, cơ chế và cơ cấu. Nhiều doanh nghiệp đã bành trướng cơ sở vật chất, trang bị, nhà xưởng lớn hơn mục tiêu sản xuất đã được các đoàn khảo sát kinh tế nhận xét là con voi đẻ ra sản phẩm là các hạt phân chuột. Cơ cấu cồng kềnh, chỉ riêng chi phí cho công tác chăm nom cơ sở vật chất và nuôi bộ máy quản lý, điều hành đã hết mức thu, không còn đủ chi phí tái sản xuất, chưa nói đến tái sản xuất mở rộng. Tổ chức sản xuất cần thoả mãn yêu cầu tiên tiến. Tính tiên tiến được thể hiện ở phương thức sản xuất tiên tiến, công cụ lao động tiên tiến, tổ chức sản xuất tiên tiến, có kế hoạch mục tiêu, có kế hoạch chi tiết và kế hoạch tác nghiệp hoàn chỉnh. Tổ chức sản xuất có yêu cầu tiết kiệm. Cần thiết đầu tư hoặc chi phí bao nhiêu cần dự liệu trước và bảo đảm sản xuất trong phạm vi định liệu trước. Cần thiết chi thì phải chi. Không cần thiết thì phải tiết kiệm. Tiền bạc, tài sản, của cải là do lao động cực nhọc mang lại. Yêu cầu của công tác tổ chức sản xuất là đáp ứng tính linh hoạt của các nhu cầu của thị trường. Tổ chức sản xuất cần đủ độ mềm dẻo để mở rộng nhất thời hoặc ngược lại co hẹp nhất thời phạm vi sản xuất, cũng như quá trình sản xuất.Tuy nhiên không vì phải bảo đảm tính linh hoạt mà làm mất tính ổn định. Chỉ sản xuất tốt khi tổ chức ổn định. Điều này có nghĩa là phải tạo ra thế ổn định trong sự linh hoạt và phải dễ thay đổi , dễ thích ứng với các yêu cầu thay đổi của thị trường nhưng tổ chức sản xuất phải đủ mức ổn định để giải toả tâm lý bất định cho người sản xuất. Yêu cầu quan trọng của tổ chức sản xuất là tính dễ kiểm soát. Cơ cấu sản xuất phải tường minh. Chức năng và nhiệm vụ của thành phần trong cơ cấu phải rõ ràng, mạch lạc. Không để cho có chồng chéo nhiệm vụ hoặc phân nhiệm không rõ ràng. Mối quan hệ qua lại giữa các thành phần của cơ cấu sản xuất cần được định đoạt và tổ chức phối hợp nhịp nhàng. Không để xảy ra lộn xộn, nhiều khi nhìn nhau mà không hoạt động, hoặc hoạt động bừa bãi, gây lãng phí khắc phục sai do sự thiếu minh bạch về phân công, phân nhiệm. Từng bộ phận phải lấy nhiệm vụ chung của sản xuất làm tiêu chí hành động. Không vì lợi ích cục bộ mà ảnh hưởng lợi ích toàn cục. Quá trình sản xuất phải bảo đảm tính tin cậy: Người chỉ đạo sản xuất từng cấp phải có đầy đủ thông tin của các hệ thống con trong hệ thống mà mình quản lý. Mọi hoạt động đều có ghi chép , thống kê chi tiết và đầy đủ thông tin. Sổ sách kế toán là hệ thống ghi chép biến động tài chính trong quá trình sản xuất phải được ghi chép đúng nghiệp vụ, đẩy đủ và kịp thời. Tài liệu kế toán phải bảo đảm tính trung thực và độ tin cậy cần thiết. Hệ thống ghi chép kế toán phải tuân thủ đúng và đủ các quy định theo luật pháp. - Phương châm, phương pháp tổ chức sản xuất - Tổ chức sản xuất phải được nghiên cứu tốt để giúp tập thể cán bộ và công nhân trong đơn vị đạt được các mục tiêu đề ra một cách thuận lợi nhất, có hiệu quả nhất. - Các biện pháp tổ chức sản xuất phải bền vững , tạo cho sản xuất ổn định, phát huy hết nỗ lực của cá nhân và tập thể tham gia trong tổ chức sản xuất. - Cần tạo ra tâm lý tin cậy trong công nhân bằng quy trình sản xuất được bàn bạc kỹ lưỡng, công nhân được hiểu biết rõ ràng về mọi thao tác sẽ thực hiện, điều kiện sản xuất ổn định, đòi hỏi trình độ cao trong quá trình sản xuất. Người công nhân sản xuất phải yên tâm với công việc, không bị những khó khăn của cuộc sống hay tình trạng bấp bênh của công ăn, việc làm gây ra sự bất ổn tâm lý. - Đơn vị sản xuất phải đoàn kết, nhất trí, không có mâu thuẫn nội bộ. Không khí sản xuất luôn luôn khích bác lẫn nhau giữa công nhân với nhau là nguồn gốc giảm năng suất lao động. Tình trạng bè phái trong công nhân làm cho không khí của sản xuất thiếu ổn định. Đây chính là nguồn gốc của sự tạo ra sản phẩm chất lượng xấu. - Phải huấn luyện và có biện pháp giáo dục đề cao tính kỷ luật trong sản xuất đồng thời với phát huy hết sáng tạo, nỗ lực cá nhân. Người công nhân không chấp hành lệnh sản xuất của phân xưởng, không tuân thủ nghiêm ngặt quy trình sản xuất là đầu mối của sự giảm thấp chất lượng. Cần huấn luyện tính tự giác trong sản xuất, giáo dục đạo đức nghề nghiệp, lương tâm và trách nhiệm với sản phẩm, với khách hàng. - Tổ chức sản xuất phải được thường xuyên xem xét và chỉnh lý để đảm bảo tính gọn nhẹ . Sự cồng kềnh của tổ chức làm giảm tính hiệu quả của sản xuất, là đầu mối kéo theo sự chậm trễ, quan liêu, làm giảm năng suất và hiệu quả của sản xuất. Sản xuất trong môi trường kinh tế thị trường cần nhanh. Giữ gìn bí mật của bí quyết sản xuất, tạo bất ngờ cho thị trường để chống cạnh tranh không lành mạnh là đặc điểm tự bảo vệ sản xuất, bảo vệ cơ sở sản xuất của mình. Thị trường và thị hiếu tiêu dùng thường xuyên nâng cao nên tổ chức sản xuất phải nhạy với những biến động của thị trường. Thông tin kinh tế là nguồn để phản ánh tính nhạy với thị trường của doanh nghiệp. Phân tích thông tin một cách khoa học, đủ luận cứ , đúng theo các quy định của pháp luật và đường lối của Đảng và Nhà Nước là sự bảo đảm cho tổ chức sản xuất được gọn nhẹ. Đầy đủ thông tin, nắm vững chính sách của Đảng và Nhà Nước cũng như đường lối phát triển của doanh nghiệp tạo cho sản xuất sự ổn định, sự yên tâm thực hiện kế hoạch sản xuất. - Sự ổn định trong sản xuất là sự không bị bất ngờ trước những biến động của thị trường. Mọi biến động đều được dự liệu trước thì sản xuất sẽ không bị những biến động gây trở ngại cho sản xuất. Tổ chức sản xuất thích ứng với biến động, chủ động với biến động tạo ra thế ổn định trong tổ chức sản xuất. Trong tổ chức sản xuất phải có bộ phận chuyên thu thập và phân tích thông tin nhằm không bị bất ngờ trước sự biến động của thị trường, đồng thời luôn có giải pháp đối phó với biến động ấy. Bản chất của tự nhiên là biến đổi và ngẫu nhiên. Cần dự báo thị trường qua việc thu thập và sử lý thông tin chính xác để thiết lập kế hoạch sản xuất sẽ đưa doanh nghiệp vào thế ổn định, tạo năng suất và hiệu quả trong sản xuất. 3.2 Tổ chức sản xuất xây dựng cơ bản - Sản phẩm xây dựng cơ bản Tổ chức sản xuất xây dựng là các hoạt động tạo ra sản phẩm xây dựng. Sản phẩm xây dựng là cơ sở vật chất phục vụ cho các hoạt động của đời sống con người, phục vụ cho các hoạt động sinh hoạt vật chất hoặc tinh thần và các hoạt động sản xuất , tạo ra của cải cho xã hội của con người. Vì lý do an toàn và phát triển, con người cần có nhà ở. Nhà ở là sản phẩm xây dựng cơ bản. Để đi lại, giao thông, cần có đường xá, cầu cống. Đường xá, cầu cống là sản phẩm xây dựng cơ bản. Để sản xuất, cần có nhà máy. Nhà máy là sản phẩm xây dựng. Sản phẩm xây dựng là phương tiện cho các hoạt động khác của xã hội. Sản phẩm xây dựng mang tính chất dịch vụ, phục vụ cho một hoặc nhiều mục đích của con người. Nhưng sản phẩm xây dựng nhiều khi là mục đích của lao động xã hội. Nhà ở, nếu chỉ xét ý nghĩa dịch vụ thì là nơi để tái sản xuất sức lao động. Nhưng đã quá lâu rồi, con người mong muốn có chỗ ở ổn định và lâu dài nên nhà ở cũng là mục tiêu phấn đấu của nhiều người. Khi đó nhà ở biến thành mục đích của sản xuất xã hội. - Sản phẩm xây dựng là kết quả đầu tư của các hình thức : + Xây dựng mới + Cải tạo + Mở rộng + Đầu tư chiều sâu. Công trình xây dựng mới là những dự án có công trình được tạo nên trên khu đất mới nhận. Trên khu đất này có thể đã có sản phẩm do con người tạo ra như hoa màu, cây cối. Có thể trên khu đất này có nhà cửa đã xây dựng. Cũng có thể khu đất này còn hoang hoá, chỉ có cây cối mọc sẵn, không do người trồng. Với những khu đất đang có hoa màu hoặc có công trình từ trước, người chủ đầu tư mới phải tiến hành đền bù cho chủ đang sử dụng nay bị thu hồi mới được sử dụng theo mục đích đầu tư được duyệt. Sản phẩm xây dựng là sản phẩm cải tạo khi đã có sẵn công trình đang hoạt động . Công trình đang hoạt động này không còn phù hợp với nhiệm vụ mới nên được phép cải tạo. Công trình được cải tạo là công trình được phép sửa chữa , nâng cấp, điều chỉnh dây chuyền công năng nhằm đáp ứng nhiệm vụ mới. Cải tạo một công trình sẵn có nhằm giảm chi phí đầu tư so với xây dựng mới. Rất không có ý nghĩa khi chi phí đầu tư cho công trình cải tạo lại lớn hơn chi phí cho công trình xây dựng mới. Sản phẩm xây dựng được tạo nên theo hình thức đầu tư mở rộng là sản phẩm được tạo ra trên cơ sở đã có công trình được xây dựng trước đây nhưng nay công trình ấy không phù hợp với nhiệm vụ mới về quy mô sản xuất. Làm cho công trình tăng quy mô nhờ việc xây dựng thêm diện tích sử dụng, mua sắm thêm không nhiều trang bị mới để công trình đáp ứng nhiệm vụ mới là việc làm nhằm giảm chi phí đầu tư so với hình thức xây dựng mới mà vẫn đáp ứng yêu cầu. Thường mức đầu tư cho công trình mở rộng không nhiều lắm so với đầu tư mới để tạo ra công trình có tính năng sử dụng tương tự. Sản phẩm xây dựng do hình thức đầu tư là đầu tư chiều sâu gồm sản phẩm có trang bị sản xuất được thay đổi, điều chỉnh mà việc làm thêm diện tích mới là không đáng kể so với tổng số tiền đầu tư. Sự thay đổi hoặc mua sắm thêm trang bị mà không cần làm thêm nhiều diện tích mới mà công trình vẫn đáp ứng được công năng là sự tiết kiệm trong đầu tư. Cần lưu ý rằng sản phẩm xây dựng là để phục vụ cho một hoạt động sản xuất hoặc sử dụng khác nên tiết kiệm được đầu tư cho vỏ nhà là điều có ý nghĩa. Quá trình tạo ra sản phẩm xây dựng được khái quát hoá qua sơ đồ: 1. Lao động 2. Phương tiện Công cụ 3.Vật liệu xây dựng 4. Thông qua các tác động công nghệ sản xuất 5. Sản phẩm Xây dựng Trước đây, để tạo ra sản phẩm xây dựng cụ thể và trực tiếp, người ta dừng thuật ngữ kỹ thuật thi công. Quá trình nghiên cứu và thể nghiệm nhiều năm, người nghiên cứu đã cố gắng tìm tòi những mối quan hệ, những nguyên tắc của các khâu trong kỹ thuật thi công để thấy mối giàng buộc giữa chúng với nhau. Khi phát hiện được cái luận lý của các khâu trong kỹ thuật thi công, kỹ thuật đã được nâng lên một mức: đó là công nghệ. techniques + logiques = technology (Kỹ thuật nâng lên thành luận lý đó là công nghệ ) - Các đặc điểm của sản phẩm xây dựng cơ bản Sản phẩm xây dựng cơ bản tuy là sản phẩm công nghiệp nhưng lại rất không giống các sản phẩm công nghiệp khác. Những đặc điểm của sản phẩm xây dựng đã ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình chế tạo ra nó. +Sản phẩm xây dựng cơ bản chiếm diện rộng, chiếm không gian lớn và gắn liền với mặt đất ( hoặc mặt nước trên đất). Từ đặc điểm này, chúng ta thấy không thể che phủ hoặc khó che phủ cho sản phẩm xây dựng trong quá trình chế tạo sản phẩm. Các tác nhân thời tiết, khí hậu, thiên nhiên mặc sức ảnh hưởng đến quá trình sản xuất. Việc các tác nhân thiên nhiên tác động khiến cho khi lập kế hoạch sản xuất xây dựng cần dự liệu mọi khả năng để tránh những tác động tiêu cực. Chúng ta biết đặc điểm khí hậu của nước ta là có hai mùa mưa và nắng rõ rệt. Cần sắp xếp sao để khi không mưa, tiến hành những việc ngoài trời để khi mưa làm những việc trong mái che. Các tác nhân thiên nhiên bình thường không được xem như khó khăn đột xuất để kéo dài thời hạn thi công. Người lập kế hoạch thi công phải lường trước điều kiện thiên nhiên tác động mà dự báo và điều này được phản ánh trong thời hạn thực hiện dự án khi dự thầu xây lắp. Do chiếm diện rộng, chiếm không gian lớn và gắn liền với mặt đất nên khi chế tạo sản phẩm xây dựng, vật liệu để chế tạo phải vận chuyển từ nơi khai thác đưa về đến vị trí xây dựng công trình. Từ điều này, khâu vận chuyển quyết định quá trình sản xuất xây dựng. Công tác vận chuyển chiếm tỷ lệ lớn trong công sức và giá thành xây dựng. Các yếu tố địa chất công trình, địa chất thuỷ văn khu vực xây dựng ảnh hưởng nhiều đến sản xuất xây dựng do sản phẩm xây dựng gắn liền với mặt đất, mặt nước. Việc sử lý nền móng, chống các sự cố lún. sụt, nước ngầm, cát chảy là những khó khăn cần được dự liệu trước trong quá trình thi công và có biện pháp để ngăn ngừa. Ngoài ra còn những yếu tố con người và xã hội gây ra các tác động tiêu cực do đặc điểm sản phẩm xây dựng chiếm không gian lớn, chiếm diện rộng gây ra: sự bảo vệ chống phá hoại, chống mất cắp tài sản, chống vi phạm địa giới xây dựng, chống phá hoại vô hình do sản phẩm, bán thành phẩm xây dựng bị phơi lộ dưới bầu trời có những tác động của mưa, nắng và các điều kiện thay đổi của khí hậu, thời tiết.... + Thời gian chế tạo sản phẩm xây dựng dài: So với sản xuất nhiều sản phẩm công nghiệp khác, thời gian chế tạo sản phẩm xây dựng dài nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm. Thời gian chế tạo dài qua nhiều mùa khí hậu nên những yếu tố thiên nhiên tác động mạnh mẽ đến quá trình sản xuất xây dựng. Do đặc điểm của mỗi mùa khí hậu, khi sản xuất xây dựng cần tính toán, dự liệu để tránh những bị động khi có tình huống bất thường do khí hậu sinh ra. Khi thời gian chế tạo dài còn những ảnh hưởng của con người, của xã hội tác động như những biến động do thay đổi tổ chức, thay đổi chủ trương sản xuất, đầu tư, xây dựng công trình. Thời gian chế tạo dài làm tăng chi phí bảo quản vật tư, bảo quản công trình. Ngoài ra, vật tư, bán thành phẩm còn bị giảm thấp chất lượng do phải bảo quản lâu . + Đặc điểm về tính đa dạng và phức hợp của sản phẩm xây dựng: Sản phẩm xây dựng có rất nhiều hình thái khác nhau ( phản ánh tính đa dạng): về qui mô, về loại dạng, về kích cỡ, về sử dụng vốn đầu tư... Sản phẩm xây dựng lại do rất nhiều chủng loại nghề nghiệp, loại nhân lực khác nhau tham gia chế tạo, rất nhiều chủng loại vật liệu tạo thành ( phản ánh tính phức hợp). Do nhiều đơn vị có những nghiệp vụ khác nhau cùng tham gia sản xuất trên công trình vào những thời điểm klhông nhất thiết là trùng nhau nên việc tổ chức phối hợp cho đồng bộ, không bị đợi chờ nhau, tạo nên sự nhịp nhàng, ăn ý, điều hoà là sự khó khăn của điều khiển sản xuất xây dựng. Từ đặc điểm đa dạng và phức hợp của sản phẩm xây dựng nên điều khiển sản xuất xây dựng đòi hỏi các tiêu chuẩn về quản lý và điều hành sản xuất phức tạp hơn các sản xuất khác. + Những đặc điểm khác: Nhiều tác giả phương Tây đưa ra những đặc điểm của sản phẩm xây dựng rất khác nhau nhưng tựu trung có các ý mà người tổ chức sản xuất xây dựng cần lưu tâm là : Các doanh nghiệp xây dựng thường là nhỏ hoặc doanh nghiệp nhỏ chiếm đại đa số. Chi phí nhân công trong sản phẩm khá cao do phần lớn sản phẩm được sản xuất đơn chiếc. Giá cả trong ngành xây dựng tăng nhanh, năng suất lao động tăng chậm, mức trang bị cho công cụ lao động thấp hơn so với các ngành công nghiệp khác và vai trò của Nhà Nước nhúng vào quá trình sản xuất xây dựng thường là lớn so với các ngành công nghiệp khác. - Về lao động trong xây dựng cơ bản : *Lao động trong xây dựng là lao động có nghề nghiệp. Trước đây, người nông dân tự xây nhà cho mình. Do tự thân cuộc sống đòi hỏi mà con người tự phải xây dựng những công trình . Ngày nay, những công trình xây dựng đã phức tạp, vượt ra ngoài khuôn khổ tự cung tự cấp nên con người muốn làm được các công trình phải được đào tạo. Xã hội phát triển ngày nay phần vì phân công xã hội, phần vì lao động trong xây dựng đòi hỏi có kiến thức và tay nghề cao, nên bắt buộc lao động trong xây dựng phải là lao động có nghề nghiệp . Hiện nay số người tham gia lao động trong ngành xây dựng ở nước ta tới trên 1,3 triệu người. Tuy nhiên số người đã qua trường học các cấp từ công nhân đến sau đại học mới chiếm không quá 20% nên chất lượng công trình xây dựng là mối lo khá bao trùm. Cần phải giáo dục nghề nghiệp cho công nhân tham gia trong ngành xây dựng để tiến tới, người lao động làm công tác gì thì phải được đào tạo về nghiệp vụ ấy và phải có chứng chỉ đã được đào tạo. * Lao động trong xây dựng cần được tổ chức theo khoa học. Do sự phát triển của nghề nghiệp, do quy mô công trình xây dựng ngày càng lớn và mức độ phức tạp ngày càng cao, số người cần tập trung để thực hiện xây dựng công trình ngày càng lớn nên tổ chức lao động trong xây dựng đòi hỏi phải được tổ chức theo khoa học. Phương hướng để tổ chức lao động theo khoa học có những nét chủ yếu sau đây: (i) Cải tiến việc tổ chức và phục vụ nơi làm việc. (ii) áp dụng phương pháp và thao tác lao động tiên tiến. (iii) Cải tiến phân công và hợp tác trong lao động. (iv) Hoàn thiện định mức lao động (v) Đào tạo và nâng cao trình độ người lao động. (vi) Cải thiện điều kiện lao động. (vii) Kết hợp lao động và nghỉ ngơi. (viii) Tăng cường ý thức tổ chức, kỷ luật. (ix) Hợp lý tổ chức lao động của người lao động. (x) Cải tiến công tác tổ chức của cán bộ. * Lao động trong xây dựng là lao động có định mức: Định mức là lượng thời gian , vật tư, giờ công, giờ máy được phép sử dụng để thực hiện một đơn vị sản phẩm. Thực hiện định mức nhằm làm cho người lao động phải quan tâm đến kết quả công việc của mình thực hiện. Làm việc theo định mức và thụ hưởng kết quả lao động theo định mức là một biện pháp kích thích sản xuất. Định mức lao động phụ thuộc sự hiểu biết về nghề nghiệp, phụ thuộc tay nghề của công nhân, phụ thuộc trình độ sử dụng máy móc, công cụ. Trong từng công việc đều có định mức nhân công và định mức vật liệu sử dụng. Nhiệm vụ cơ bản của định mức kỹ thuật lao động là mang lại hiệu quả kinh tế, góp phần giáo dục lương tâm nghề nghiệp, đạo đức lao động. Những nhiệm vụ chủ yếu và cụ thể của định mức lao động là: # Hợp lý hoá lao động làm tiền đề định ra hao phí lao động, hao phí thời gian sử dụng máy. # Xác định được hao phí lao động và thời gian sử dụng máy. # Thúc đẩy tăng năng suất lao động 4. Những yêu cầu về nghiệp vụ , phương pháp công tác của chỉ huy trưởng Người chỉ huy trưởng công trường phải nhận thức được rằng mình là người lãnh đạo trong việc điều hành thực hiện sản xuất xây dựng phục vụ một dự án do mình được nhận thầu. Lãnh đạo ở đây, nếu hiểu theo " điều khiển học" thì đó là máy điều khiển. Cơ sở đào tạo có nhiệm vụ chế tạo ra máy điều khiển có đủ tính năng để điều khiển một hệ thống lớn. Điều khiển một hệ thống lớn không đơn giản chút nào. Hệ thống lớn có thể hình dung là một đơn vị sản xuất, là sự thực hiện một dự án, một cơ quan, một tổ chức có con người tham gia như những thành viên. Mỗi người là một hệ thống phức tạp thì nhiều người hình thành một hệ thống lớn. Cái khó của quản lý một hệ thống lớn có con người tham gia là phải tuân theo các yêu cầu của hệ điều hành một hệ thống lớn. Hệ thống lớn có những quy tắc riêng của nó. Hệ thống lớn có con người tham gia , cần hiểu rõ các quy tắc của hệ thống lớn và hệ thống lớn có con người tham gia. Một trong những yêu cầu của điều kiển học là máy điều hành phải phức tạp hơn hệ thống máy bị điều khiển. Hay nói cách khác, người quản lý cao hơn phải biết cách thực hiện các công việc của cấp dưới. Thí dụ cái máy tính ta đang dùng. Nếu ra nhiều lệnh đồng thời, máy không xử lý kịp là máy treo luôn . Gõ thế nào máy cũng ỳ ra. Có lẽ là bộ xử lý không đủ mạnh về tốc độ xử lý, có thể là không có chương trình tương thích để chạy, điều này có nghĩa là máy không đủ độ phức tạp để chấp hành các lệnh. Hay như khi điều khiển hệ thống lớn có con người tham gia thì hãy nắm được các điều kiện tâm sinh lý của con người với tư cách là sinh vật. Sinh vật có quy luật là thường xuyên sinh ra những yếu tố chống lại các kích thích ngoại lai nhằm duy trì khả năng tồn tại của mình. Cho nên một trong những quy tắc điều khiển hệ thống có con người tham gia là phải tạo ra các yếu tố kích thích nhằm làm cho con người muốn lao động. Con người không muốn lao động thì sao lao động có kết quả được. Phải cho người lao động thấy rằng họ cần làm việc. Làm việc thì có lương và có lương thì đỡ thiếu thốn hoặc dễ chịu trong cuộc sống. Làm việc tốt thì được khen thưởng, được kính trọng. Nếu chỉ kích thích kiểu " làm tốt được thưởng gì" nghĩa là chỉ kích thích một chiểu thuận thì , do con người là sinh vật nên tự sinh ra các yếu tố chống lại sự kích thích ngoại lai , nên điều này sẽ làm cho con người trơ nhờn với kích thích chiều thuận, dần dà, con người lại kém ham muốn lao động. Phải tồn tại kích thích chiều nghịch, nghĩa là nếu không ham muốn lao động sẽ bị giảm thu nhập , giảm uy tín trong cộng đồng, nói chính xác là sẽ bị trừng phạt, sẽ bị tác động kiểu kích thích ngược chiều. Người lãnh đạo , qua thực tế công tác và qua rèn luyện phải xây dựng được quyền lực của lãnh đạo. Trong khoa học về quản lý, quyền lực của lãnh đạo được hình thành từ 4 nguồn tiềm năng: * Do chức vụ, địa vị tự thân nó tạo ra quyền lực của người lãnh đạo * Do chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ tốt mà tạo được quyền lực vì điều phát biểu ra thường phù hợp với quy luật phát triển của tự nhiên. * Do rèn luyện, đạo đức và tác phong cũng như quan điểm giải quyết công việc của cá nhân người lãnh đạo hình thành quyền uy lãnh đạo. Cuộc sống thực ngoài đời, người lãnh đạo phải là tấm gương về đạo đức. Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Xã hội Việt nam với nền văn hóa phương Đông, không cho phép người lãnh đạo buông thả cuộc sống thực của mình. * Do tố chất, quyền uy bẩm sinh , do lịch sử, do kinh nghiệm lâu năm ở các nơi hoạt động trước đó của người lãnh đạo, do con dòng cháu giống. Loại quyền uy này tiềm ẩn dưới dạng phi vật chất, dạng uy tín quá khứ. * Do hệ thống của tổ chức đem lại . Xã hội ngày càng văn minh, quyền lực do chức vụ, địa vị, tố chất, bẩm sinh, ngày càng giảm ý nghĩa. Vấn đề là thực lực, là người lãnh đạo phải qua công tác của mình tại vị trí điều khiển của mình mà tự xây dựng cho mình uy tín. Phải xây dựng quyền lực dựa vào quá trình vận động tự thân . Phải qua cách xử lý thực tế vì dân, vì quyền lợi của cộng đồng mà xây dựng uy tín cho mình. Cần tránh những thủ đoạn mỵ dân, ve vuốt dư luận để xây dựng cho mình uy tín giả tạo. Cách này không bền và thường thất bại trong điều hành thực tế. Trong thời đại văn minh, sự rèn luyện hay nói cách khác là sự đào tạo một người quản lý, không những bằng cách lựa chọn các tiêu chí xã hội mà cần xem xét và đào tạo để cho người lãnh đạo biết xây dựng cho mình các tố chất: * Tố chất nhạy cảm : Để làm tốt được vai trò lãnh đạo, yếu tố tố chất của người lãnh đạo rất cần thiết và có thể nói là cần nhất. Người lãnh đạo cần có cảm nhận về thái độ, tình cảm, mong muốn, buồn vui ... của những người chung quanh mình mặc dù khả năng tiếp xúc của người lãnh đạo cũng bị hạn chế như mọi người khác. * Sự chính trực : Là điều mà thuộc cấp của người lãnh đạo chờ đợi . Sự chính trực mang đến niềm tin của quần chúng trong đơn vị. Đó là nhân tố để quần chúng quyết định có nên đi theo người lãnh đạo này hay không. Ít nhất thì người lãnh đạo, qua sự hình thành chiến lược sản xuất, qua sách lược thực hiện cũng như qua phương thức tác chiến phải để cho quần chúng thấy được rằng đã tồn tại ý niệm về sự chính trực của người lãnh đạo. * Người lãnh đạo phải có nghị lực. Nghị lực để vượt qua các khó khăn từ ngoại cảnh. Nhiều khi sự tín nhiệm của quần chúng chỉ là ở đây. * Sự tự tin : rất cần thiết để thực hiện các công việc, mà đôi khi lại chỉ đơn giản như làm sao diễn tả mạch lạc, rõ ràng trước quần chúng cái mà tổ chức mong muốn, điều cần làm của mọi người. * Động lực làm lãnh đạo: điều này thể hiện sự khát khao hoàn thành nhiệm vụ. Nếu nhìn vào các nhu cầu của một con người theo thang phân định của A. Maslow, một triết gia lớn của thế kỷ 20, thì hai nhu cầu sau là esteem needs ( nhu cầu được tôn trọng ) và self-actualization needs ( mong muốn được tự thực hiện). Không đề cập đến tham vọng theo mọi nghĩa nhưng người lãnh đạo cần thiết phải có động lực làm lãnh đạo. * Trí thông minh : không đòi hỏi người lãnh đạo phải thông minh nhất, có chỉ số IQ cao nhất, chuyên môn giỏi nhất nhưng phải có khả năng phân tích các vấn đề xuất hiện và nhạy cảm với cơ hội. * Hiểu biết về nghiệp vụ mà mình thực hiện lãnh đạo. Mức độ hiểu biết về chuyên môn chỉ yêu cầu đủ để ra quyết định đúng lúc, đúng mức cần thiết. Không ai có đủ thời gian để làm chuyên môn thật giỏi mà lãnh đạo lại tuyệt vời cả. Mười tính cách và khả năng của cán bộ lãnh đạo cần được đào tạo để hình thành chắc chắn là: 1. Tầm nhìn 2. Sự đam mê và đức hy sinh 3. Sự tin tưởng, sự quyết tâm và tính bền bỉ 4. Biết xây dựng hình ảnh tốt 5. Sự gương mẫu 6. Vai trò bên ngoài 7. Tạo sự tin tưởng cho những người thuộc cấp 8. Có khả năng phát động khi cần thiết 9. Khả năng cấu trúc tốt 10. Có khả năng truyền cảm tốt. Phải cho người lãnh đạo biết rằng họ có 7 điều cần làm chi phối trong suốt quá trình công tác của họ. Đó là : 1. Thiết lập tầm nhìn cho tổ chức mà người lãnh đạo phải quản lý. Nhiều người cho rằng điều này khá mông lung nhưng thực tiễn cho thấy, tầm nhìn là ngọn đèn soi sáng cho chiến lược phát triển của đơn vị. Không tổ chức nào lại thành công khi không thiết lập được tầm nhìn. Có nhiều cách thể hiện ý niệm này như chiến lược phát triển, mục tiêu dài hạn ... Đó là mục tiêu của đơn vị mà người lãnh đạo phải thiết lập trong nhiệm kỳ của mình , hướng mọi nỗ lực của đơn vị cho việc thực hiện đạt mục tiêu đó. 2. Tập hợp quần chúng nhằm thực hiện mục tiêu của đơn vị. Mục tiêu dài hạn cũng như các mục tiêu của từng giai đoạn, từng thời kỳ. Cần làm cho người lao động trong đơn vị thích thú với công việc mà họ được giao, đam mê thực hiện công việc ấy và tin tưởng sẽ thành công khi thực hiện tốt. Không thể nói chung chung rằng sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp quần chúng mà phải làm cho người lao động trong đơn vị ham muốn lao động thực sự. Sự ham muốn này được hiểu cả vì lợi ích vật chất cũng như lợi ích về tinh thần, cả yếu tố nâng cao mức sống lẫn những yếu tố tâm linh nữa. 3. Động viên, cổ vũ toàn bộ đội ngũ thuộc cấp. Công tác quản lý làm cho thuộc cấp bị ức chế và đôi khi cảm thấy mất động lực hành động. Sự cổ vũ đúng lúc, đúng đối tượng, đúng phương pháp của người lãnh đạo hết sức cần thiết , điều này cũng đồng nhất với việc phê bình, kỷ luật đúng lúc và nghiêm minh. 4. Xây dựng chiến lược cho tổ chức. Đây là sự thể hiện cụ thể của tầm nhìn qua nhiều giai đoạn. Chiến lược phải là một chuỗi có hệ thống, xuyên xuốt tầm nhìn. Chiến lược là sự mềm dẻo nhằm thực hiện tầm nhìn phù hợp với thực tiễn, với các điều kiện cụ thể của bên trong và bên ngoài tổ chức, của thị trường, của xã hội và với bản thân tổ chức mình. 5. Ra quyết định. Ra quyết định đúng lúc, kịp thời trong môi trường đầy rẫy rủi ro là kết quả của quá trình nghiên cứu nghiêm túc về sự phát triển của đơn vị. 6. Tạo ra sự thay đổi cần thiết cho đơn vị khi xã hội có nhiều biến chuyển, nền kinh tế có nhiều biến chuyển, thị trường có nhiều biến chuyển. Phải tạo ra sự thích ứng của đơn vị mình với các biến động và đầy rẫy rủi ro. Sự thay đổi này là cần thiết nhằm tránh những tổn thất của mọi biến động từ các nhân tố bệ ngoài. Sự thay đổi này phải phù hợp với những điều kiện cụ thể của đơn vị mà mình đang lãnh đạo nhằm tránh trì trệ và những tổn thất không đáng có, Quản lý đơn vị cần được quan niệm là một thực thể động. Ngại khó, ưa tĩnh là dấu hiệu của thất bại. 7. Cần tạo dựng một môi trường lao động lành mạnh cho tổ chức của mình. Do hệ bị điều khiển là một hệ thống lớn có con người tham gia như đã trình bày ở trên, cần luôn đổi mới phương thức kích thích lòng ham muốn lao động của người lao động. Sự hài hòa giữa cống hiến và hưởng thụ, sự công bằng trong cống hiến và hưởng thụ là yếu tố thành công trong sự phát triển doanh nghiệp. Người lãnh đạo phải học tập, nghiền ngẫm về bản thân mình, tìm cho mình một phương pháp tiếp cận với các vấn đề thực tế, xây dựng cho mình được phương pháp công tác hiệu quả nhất. Người này hay người kia bảo là có tiềm năng hơn nhau, chủ yếu là họ có phương pháp tốt hơn nhau. Phương pháp tư duy, phương pháp biến tư duy thành hành động. Phương pháp nghiên cứu, phương pháp triển khai kết quả của nghiên cứu. Thông tin hay kiến thức thì vô cùng vô tận, nhưng phương pháp là hữu hạn. Hãy xây dựng cho mình phương pháp của mình. Để minh họa cho phương pháp nghiên cứu ý tưởng, xin nêu trường hợp nghiên cứu khi kiểm tra các yếu tố tham gia thực hiện dự án. Nếu chỉ suy nghĩ và hình dung trong đầu thì thường sót tình huống hoặc thấy cảm giác chung là quá phức tạp. Hãy lấy giấy và vạch các sơ đồ khối liên hệ và mở rộng vấn đề, ta có sơ đồ: 1. Hệ thống con về tiến độ thực hiện sản xuất : 2. Thành tố kiểm soát tiến độ 3. Thành tố nhân lực thi công : Lấy một thí dụ về công tác thực hiện đổ bê tông: Đây là phương pháp suy nghĩ trên sơ đồ. Bằng phương pháp này, ý tưởng được mổ xẻ chi tiết và được nêu hết các tình huống. Các thành phần con được đặt trong mối quan hệ hữu cơ lẫn nhau và cách suy nghĩ thế này là tốt hơn hẳn cách lo lắng chung chung. Người lãnh đạo thực hiện dự án cần được đào tạo kỹ hơn so với những hiểu biết nghiệp vụ ban đầu trong thông tư 25/2009/TT- BXD. Đào tạo có hệ thống, chắc chắn chúng ta sẽ có những giám đốc dự án đảm nhiệm tốt được nhiệm vụ : người giám đốc dự án cần có hiểu biết về nghề nghiệp, phải xây dựng cho mình một uy tín với cộng đồng và phải có phương pháp tốt trong tư duy và triển khai. Phải qua đào tạo mà có cán bộ. Là cơ sở đào tạo, cần nhìn thấu đáo vấn đề mà đặt mục tiêu và phương pháp đào tạo ./. _____________________________________________________________________ Bài tập sau bài học để nhận thức rõ khái niệm: Bài tập 1 : Nêu sự khác nhau và giống nhau giưa một tổ chức xã hội với tổ chức sản xuất. Bài tập 2 : Tổ chức sản xuất xây dựng khác với tổ chức sản xuất sản phẩm cơ khí hàng loạt ở những điểm nào ?

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbai1_chihuytruongnhiemvu_8944.doc
Tài liệu liên quan