Chỉ định và kết quả phẫu thuật bệnh basedow

Nghiên cứu được thực hiện nhằm phân tích các chỉ định và kết quả điều trị Basedow bằng phẫu thuật trên 20 bệnh nhân. Kết quả cho thấy độ tuổi trung bình là 37, nữ giới chiếm 90%; thời gian điều trị nội khoa > 2 năm: 50%. Các chỉ định phẫu thuật bao gồm điều trị nội khoa thất bại: 50%; bướu giáp quá to: 35%; bướu nhân kèm theo: 20%; lồi mắt mắt: 20%; biến chứng do điều trị nội khoa: 20%; muốn có thai: 15%. Hầu hết được thực hiện cắt toàn bộ tuyến giáp (95%). Biến chứng sau mổ chủ yếu hạ canxi máu tạm thời (55%). Phẫu thuật là một trong những biện pháp đem lại kết quả tốt, lâu dài và ít biến chứng để điều trị bệnh Basedow.

pdf7 trang | Chia sẻ: Mịch Hương | Ngày: 29/03/2025 | Lượt xem: 318 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chỉ định và kết quả phẫu thuật bệnh basedow, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TCNCYH 82 (2) - 2013 77 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Summary THE EFFICACY OF SURGICAL TREATMENT FOR MIDDLE EAR ATELECTASIS AT ENT DEPARTMENT − BACHMAI HOSPITAL Middle ear atelectasis is a form of dangerous otitis media because it can develop into cholesteatoma. The objective of this study was to evaluate results of surgical treatment for middle ear atelectasis. Results 42.4% of the ears examined had ossicular damages; and damage of the incus was the most common lesion. After about 5.8 months post corrective tympanoplasty, 92.4% of the ears were free of recurrent retraction. Five out of 66 ears (7.6%) had re-collapsed resulting from generalized atelectasis of grade III or grade IV. The post-operative hearing results were excellent with 45.4% of the ears had PTA values of ≤ 30 dB and 51.5% of the ears had ABG val- ues of ≤ 20 dB. In conclusion, tympanoplasty is an effective surgical method to restore normal anatomy and function of the atelectatic ears. Key words: atelectasis, retraction pockets, tympanoplasty CHỈ ĐỊNH VÀ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT BỆNH BASEDOW Lê Công Định Bộ môn Tai Mũi Họng Trường đại học Y Hà Nội Nghiên cứu được thực hiện nhằm phân tích các chỉ định và kết quả điều trị Basedow bằng phẫu thuật trên 20 bệnh nhân. Kết quả cho thấy độ tuổi trung bình là 37, nữ giới chiếm 90%; thời gian điều trị nội khoa > 2 năm: 50%. Các chỉ định phẫu thuật bao gồm điều trị nội khoa thất bại: 50%; bướu giáp quá to: 35%; bướu nhân kèm theo: 20%; lồi mắt mắt: 20%; biến chứng do điều trị nội khoa: 20%; muốn có thai: 15%. Hầu hết được thực hiện cắt toàn bộ tuyến giáp (95%). Biến chứng sau mổ chủ yếu hạ canxi máu tạm thời (55%). Phẫu thuật là một trong những biện pháp đem lại kết quả tốt, lâu dài và ít biến chứng để điều trị bệnh Basedow. Từ khóa: cường giáp, cắt toàn bộ tuyến giáp Địa chỉ liên hệ: Lê Công Định, bộ môn Tai Mũi Họng, trường Đại học Y Hà Nội Email: lecongdinh67@yahoo.com Ngày nhận: 11/1/2013 Ngày được chấp thuận: 26/4/2013 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Basedow là bệnh được biết đến từ rất lâu. Graves. R (1835) lần đầu tiên mô tả bệnh biểu hiện có bướu cổ và lồi mắt. Năm 1840, K. Basedow mô tả bệnh bướu cổ, nhịp tim nhanh và lồi mắt. Ngày nay bệnh mang tên cả hai tác giả này. Phương pháp điều trị bằng phẫu thuật đã có lịch sử khá lâu, bắt đầu từ năm 1869 với kỹ thuật cắt bỏ một phần tuyến giáp bởi Valdenver. Sau đó các tác giả như Lister (1877), Tillaux (1880) thực hiện nhưng tỷ lệ tử vong và biến chứng cao. Với sự cải tiến về kĩ thuật cắt tuyến giáp của Kocher (1920), phẫu thuật đã mang lại kết quả đáng khích lệ. Đặc biệt việc sử dụng Lugol 1% trước mổ đã làm giảm đáng kể biến chứng. Năm 1950, với sự ra đời của thuốc kháng giáp tổng hợp và Iốt đồng vị phóng xạ, việc điều trị Basedow đã có 78 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC nhiều thay đổi quan trọng. Phẫu thuật không còn là biện pháp điều trị duy nhất. Tuy nhiên nó vẫn đóng vai trò quan trọng do có những ưu điểm như tỷ lệ khỏi bệnh cao, kết quả bền vững, thời gian điều trị được rút ngắn, và có thể áp dụng cho những trường hợp điều trị nội khoa thất bại hay không thể áp dụng các biện pháp điều trị khác. Trên thế giới; phẫu thuật Basedow thuộc lĩnh vực đầu mặt cổ, có xu thế do chuyên khoa Tai Mũi Họng thực hiện. Tại Việt Nam, từ trước đến nay phẫu thuật này do chuyên khoa Ngoại lồng ngực đảm nhận [1]. Lần đầu tiên trong chuyên ngành Tai Mũi Họng phẫu thuật cắt tuyến giáp để điều trị Basedow được thực hiện tại khoa Tai Mũi Họng bệnh viện Bạch Mai. Do vậy chúng tôi tiến hành đề tài này với mục tiêu: nhận xét các chỉ định và đánh giá kết quả phẫu thuật bệnh Basedow. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng 20 bệnh nhân được chẩn đoán xác định Basedow tại khoa nội tiết bệnh viện Bạch Mai có chỉ định can thiệp ngoại khoa và đã được phẫu thuật tại khoa Tai Mũi Họng Bệnh viện Bạch mai từ tháng 5 năm 2008 đến tháng 10 năm 2012. 2. Phương pháp Phương pháp mô tả từng ca có can thiệp. Các bước nghiên cứu bao gồm: - Đánh giá trước mổ: triệu chứng cơ năng, thực thể, xét nghiệm hormon tuyến giáp, siêu âm vùng cổ. - Tiến hành phẫu thuật cắt bỏ tuyến giáp, làm xét nghiệm giải phẫu bệnh. - Đánh giá các biến chứng sau mổ: tụ máu, hạ canxi máu, liệt thần kinh quặt ngược, cơn cường giáp cấp... - Các thông số nghiên cứu: tuổi, giới, thời gian điều trị nội khoa, lý do chỉ định phẫu thuật, phương pháp phẫu thuật và các biến chứng sau mổ. - Thống kê và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0 3. Đạo đức nghiên cứu Các bệnh nhân đã được giải thích và đồng ý tham gia nghiên cứu. Các số liệu được quản lý và giữ bí mật. III. KẾT QUẢ 1. Tuổi và giới Bảng 1. Phân bố theo tuổi Tuổi 60 tuổi Tổng số n 5 8 4 3 20 % 25 40 20 15 100 Nhóm tuổi hay gặp nhất là 20 - 40 tuổi chiếm tỷ lệ 40%. Tuổi trung bình là 37, nhỏ tuổi nhất là 15, lớn nhất là 74 tuổi. TCNCYH 82 (2) - 2013 79 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC - Về giới Bảng 2. Phân bố theo giới tính Giới n % Nam 2 10 Nữ 18 90 Tổng số 20 100 Nữ nhiều hơn nam giới theo tỷ lệ 9/1. 2. Thời gian điều trị nội khoa Bảng 3. Thời gian điều trị nội khoa Thời gian 4 năm Tổng số n 7 3 8 2 20 % 35 15 40 10 100 Thời gian điều trị > 2 năm chiếm tỷ lệ 50%, trung bình là 17 tháng. 3. Lý do chỉ định phẫu thuật Bảng 4. Lý do chỉ định phẫu thuật Lý do chỉ định n % Điều trị nội khoa thất bại 10 50 Bướu to 7 35 Bướu nhân 4 20 Nhiễm độc giáp có biểu hiện ở mắt 4 20 Biến chứng trong quá trình điều trị nội khoa 4 20 Biến chứng tim mạch 3 15 Chỉ định khác 3 15 Trên 1 bệnh nhân có thể có nhiều chỉ định phối hợp. Điều trị nội khoa thất bại là lý do chiếm tỷ lệ cao nhất (50%). Sau đó là bướu to (35%) và nhân giáp trên nền Basedow (20%). 4. Phương pháp phẫu thuật Bảng 5. Phương pháp phẫu thuật Phương pháp n % Cắt toàn bộ tuyến giáp 19 95 Cắt gần toàn bộ tuyến giáp 1 5 Tổng số 20 100 80 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Hầu hết (95%) các trường hợp được cắt toàn bộ tuyến giáp, chỉ có 1 bệnh nhân (5%) cắt gần toàn bộ tuyến giáp. 5. Các biến chứng sau mổ Trong tổng số 20 bệnh nhân được phẫu thuật, có 11 trường hợp hạ canxi máu tạm thời vài ngày sau mổ chiếm tỷ lệ 55%. Không gặp trường hợp nào hạ canxi máu vĩnh viễn, cũng như các biến chứng liệt dây thần kinh quặt ngược hoặc cơn cường giáp cấp. IV.BÀN LUẬN Đặc điểm chung: Về tuổi và giới: Ở bảng 1 lứa tuổi hay gặp nhất là 20 - 40 tuổi chiếm tỷ lệ 40%. Sau đó là nhóm < 20 tuổi chiếm tỷ lệ 25%. Như vậy, lứa tuổi < 40 tuổi chiếm tỷ lệ 65%. Bệnh nhân trẻ tuổi nhất là 15 tuổi. Kết quả về giới (bảng 2) cho thấy bệnh chủ yếu gặp ở nữ giới theo tỷ lệ nữ/nam là 9/1. Theo nghiên cứu của tác giả [2, 5] bệnh gặp ở nữ nhiều hơn nam giới, tỷ lệ nữ/nam là 8/1. Nhóm tuổi hay gặp nhất là từ 20 - 50 tuổi. Kết quả về tuổi và giới của nghiên cứu này cũng phù hợp với các nghiên cứu trên thế giới. Giải thích sự khác biệt về giới do liên quan đến hormone, di truyền gene nằm trên nhiễm sắc thể X, tế bào gốc còn sót lại lưu hành trong quá trình mang thai. Chỉ định điều trị bằng phẫu thuật: Điều trị nội khoa thất bại. Basedow đã được xác định là bệnh tự miễn. Bệnh do kháng thể kháng Receptor TSH (TRAb) lưu hành trong máu. Kháng thể này kích thích thụ cảm TSH trên tuyến giáp gây tăng hoạt động tiết hor- mone không ngừng . Có 3 phương pháp điều trị đó là nội khoa, iốt đồng vị phóng xạ và phẫu thuật, trong đó điều trị nội khoa là phương pháp chủ yếu. Mục đích điều trị nhằm làm giảm tình trạng cường giáp bằng các thuốc giảm triệu chứng và giảm tổng hợp hormone. Thời gian điều trị thường kéo dài ít nhất là 6 tháng. Khi thời gian điều trị quá 2 năm mà bệnh không ổn định thì được coi là thất bại, khi đó cần xem xét lựa chọn các biện pháp điều trị khác. Trong nghiên cứu này, có 50% số bệnh nhân có thời gian điều trị kéo dài trên 2 năm nhưng tình trạng cường giáp không giảm nên được chỉ định phẫu thuật. Do kích thước bướu giáp to và có nhân giáp phối hợp. Khi kích thước bướu to độ III trở lên sẽ ảnh hưởng về thẩm mỹ và có nguy cơ chèn ép cơ quan lân cận như thực quản, khí quản gây khó nuốt, khó thở. Điều trị nội khoa đối những trường hợp này thường thất bại. Do bướu quá to cũng không thể điều trị bằng Iốt -131. Điều trị bằng phẫu thuật được coi là giải pháp tốt nhất. Trong nghiên cứu này có 7 bệnh nhân (35%) được chỉ định phẫu thuật vì kích thước bướu giáp quá to. Theo các tác giả [2, 3] trên nền Basedow có thể có các bướu nhân giáp khác phối hợp (bướu đa nhân độc – theo một số tác giả) và có một tỷ lệ đáng kể là ác tính. Do vậy phẫu thuật cắt tuyến giáp là một sự lựa chọn tốt nhất nhằm mục đích vừa điều trị cường giáp, vừa điều trị bướu nhân. Trong nghiên cứu này có 4 trường hợp (20%) được chỉ định bởi lý do này. Biến chứng trong quá trình điều trị nội khoa. Có 4 trường hợp (20%) chỉ định phẫu thuật bởi có biến chứng trong quá trình điều trị nội khoa. Basedow được điều trị chủ yếu bằng các thuốc kháng giáp trạng tổng hợp. Trong quá trình sử dụng thuốc có một số biến chứng xảy ra như giảm bạch cầu hạt, men gan tăng cao... Các biến chứng này buộc phải dừng quá trình điều trị bằng thuốc. Do vậy phẫu TCNCYH 82 (2) - 2013 81 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC thuật cũng được chỉ định trong những trường hợp này. Biểu hiện mắt: Theo các tác giả [2, 3] có 30 - 50% Basedow có biểu hiện mắt. Các biểu hiện bao gồm lồi mắt, nhìn đôi, co rút cơ mi trên, đau nhức sau hốc mắt... Nguyên nhân trong hốc mắt hình thành phức hợp kháng nguyên - kháng thể gây kích hoạt phản ứng viêm. Điều trị các triệu chứng mắt chủ yếu bằng corticoid song song với điều trị cường giáp. Theo các tác giả [4; 5], nếu điều trị bằng Iốt - 131 sẽ làm nguy cơ các bệnh mắt nặng lên. Phẫu thuật có ưu điểm giải quyết nhanh chóng tình trạng cường giáp, giúp giảm kháng thể lưu hành, qua đó cải thiện triệu chứng mắt, đặc biệt lồi mắt mới xuất hiện. Có 4 bệnh nhân chỉ định phẫu thuật bởi lý do này. Do biến chứng tim mạch. Các biến chứng bao gồm suy tim, nhịp nhanh, rung nhĩ.... là một trong nguyên nhân hàng đầu gây tử vong. Ngày nay với sự ra đời các thuốc tim mạch mới cùng với việc điều trị và kiểm soát Basedow tốt hơn, do vậy các chứng về tim mạch đã ít nguy hiểm. Phẫu thuật cắt bỏ tuyến giáp làm giảm cường giáp một cách nhanh chóng, từ đó điều trị các bệnh tim mạch có kết quả tốt hơn. Trong nghiên cứu này có 3 bệnh nhân do bị biến chứng tim mạch nên được chỉ định phẫu thuật. Chỉ định khác: bệnh nhân muốn có thai cũng là một chỉ định phẫu thuật. Đa số bệnh nhân mắc bệnh Basedow là nữ giới và trong độ tuổi sinh đẻ. Việc điều trị thuốc kéo dài cùng với nguy cơ tái phát ngay trong thời gian mang thai buộc các nhà nội tiết học phải cân nhắc khi bệnh nhân muốn có con. Thuốc kháng giáp tổng hợp có thể qua nhau thai gây suy giáp từ trong bào thai dẫn tới những hệ quả trầm trọng như dị tật, giảm sút trí tuệ của trẻ sau này. Hơn nữa kháng thể kháng receptor TSH (TRAb) lưu hành trong máu mẹ cũng qua nhau thai cũng gây ảnh hưởng tới tuyến giáp của trẻ. Nếu điều trị bằng Iốt-131 cũng sẽ gây nguy cơ về dị tật gen cho trẻ và suy giáp tiến triển cho mẹ. Trong nghiên cứu này có 3 bệnh nhân do mong muốn có thai nên được chỉ định phẫu thuật. Về phương pháp phẫu thuật: Cắt toàn bộ hay cắt gần toàn bộ tuyến giáp ? Đây là vấn đề đang còn tranh luận. Xu hướng hiện nay là thực hiện cắt toàn bộ tuyến giáp [3, 4]. Trong nghiên cứu này 95% các trường hợp được cắt toàn bộ tuyến giáp. Chỉ có 1 trường hợp (5%) cắt gần toàn bộ do yêu cầu của bệnh nhân. Việc cắt toàn bộ tuyến đảm bảo giải quyết triệt để cường giáp, không tái phát, đồng thời làm giảm kháng thể lưu hành qua đó giảm các triệu chứng về mắt. Phẫu thuật cắt gần toàn bộ tuyến giáp có xu thế gây suy giáp sau mổ. Tuy nhiên về lâu dài cường giáp có thể xuất hiện trở lại khi đó nếu quyết định phẫu thuật thì sẽ rất khó khăn do chảy máu, xơ dính. Hơn nữa, lượng tuyến giáp để lại là bao nhiêu là đủ? Theo lý thuyết là 3 - 8g, điều này chỉ dựa vào ước lượng và phần nhu mô để lại sẽ không thể đảm bảo chắc chắn không gây cường giáp sau này. Các nghiên cứu trên thế giới cũng cho rằng biến chứng của phẫu thuật cắt toàn bộ và gần toàn bộ tuyến giáp là tương đương nhau. Do vậy chúng tôi lựa chọn phương pháp cắt toàn bộ tuyến giáp, đặc biệt cho bệnh nhân cần kết quả điều trị nhanh và ổn định. Kết quả điều trị: Về chức năng tuyến giáp: 19/20 bệnh nhân của chúng tôi là điều trị bằng phương pháp cắt toàn bộ. Tất cả đều có biểu hiện suy giáp sau mổ, đã được bổ xung hormone ngay sau mổ. Liều lượng thuốc được điều chỉnh tùy vào các xét nghiệm chức năng giáp sau mổ: FT3, FT4, TSH. Tất cả các 82 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC bệnh nhân này dung nạp thuốc hormone tuyến giáp tốt, trở về cuốc sống bình thường. Về các biến chứng do phẫu thuật: Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi thực hiện thu thấp đánh giá biến chứng theo các nhóm biến chứng: thần kinh, mạch máu, nhiễm trùng, gây mê, rối loạn canxi máu. Do được chuẩn bị kỹ trước mổ, cầm máu và phẫu tích cẩn thận trong mổ, chúng tôi không gặp trường hợp nào biến chứng liệt hồi qui, chảy máu, tụ máu, nhiễm trùng, gây mê sau mổ. Hay gặp nhất là hạ canxi máu tạm thời với tỷ lệ 55%, không có trường hợp nào hạ canxi máu vĩnh viễn. Những trường hợp này được bổ xung canxi uống sau 5 - 7 ngày thì ổn định. Kết quả này gợi ý việc bổ xung canxi ngay sau mổ cho tất cả bệnh nhân. Nghiên cứu của Le Clech [3] qua 378 trường hợp gặp 7,6% hạ canxi máu tạm thời, 2,3% vĩnh viễn, 1% liệt thần kinh hồi qui, 1,8% tụ máu sau mổ, 1% cơn bão giáp cấp. V. KẾT LUẬN Basedow là bệnh lý tự miễn và có liên quan đến nhiều chuyên khoa. Phẫu thuật được chỉ định trong những trường hợp điều trị nội khoa thất bại, bướu to, bướu nhân phối hợp, các biến chứng mắt, tim mạch, bệnh nhân muốn có thai và biến chứng do điều trị thuốc. Phẫu thuật là biện pháp mang lại kết quả điều trị tốt, lâu dài và hiệu quả. Cắt toàn bộ tuyến giáp là xu thế trong điều trị phẫu thuật hiện nay. Việc chuẩn bị bệnh nhân tốt cùng với sự thành thạo trong phẫu thuật vùng đầu cổ thì các biến chứng sau phẫu thuật sẽ giảm đi rất nhiều. Lời cảm ơn Xin trân trọng cảm ơn khoa Nội tiết và Đái tháo đường, trung tâm Ung bướu bệnh viện Bạch Mai đã hợp tác và giúp đỡ chúng tôi thực hiện nghiên cứu này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Hoài Nam (1997). Kết quả điều trị bệnh Basedow bằng phẫu thuật, Y học TP Hồ Chí Minh, 3, 124 - 129. 2. Candela G, Varriale S, (2007). Surgical treatment of Basedow's disease: our experi- ence with 424 operations, Chir Ital., 59(5), 707 - 711. 3. Le Clech. G, Caze. A et all (2005). Sur- gery for Graves’ disease: A review of 378 cases, France ORL, 86, 10 - 16. 4. Miccoli P, Vitti P et al. (1996). Surgical treatment of Graves' disease: subtotal or total thyroidectomy?, Surgery. 120(6), 1020 - 1025. 5. Tran Ba Huy. P, Houlbert. D (1984). Traitement chirurgical de la maladie de Base- dow: Bilan de 36 thyroidectomie subtotales, Ann.Oto-Laryngolog, 101, 512 - 522. Summary INDICATIONS AND RESUTLS OF SURGICAL TREATMENT FOR BASEDOW’S DISEASE The objective of this study was to analyze the indications of surgical treatment for Basedow’s disease. The mean age of the patients was 37 years old. Ninety percent (90%) of patients with Basedow’s disease were women, and 50% of the patients had medical treatment for Basedow’s disease for more than 2 years. Results: Indications for corrective surgery included failure of medical treatment (50%), big goiter (35%), exophthalmos (20%), nodular goiter (20%), complica- tions from medical treatment (20%), and pregnant willingness (15%). 95% of the cases underwent total thyroidectomy. Postoperatively, temporary hypocalcemia was seen in 55% of the patients. In TCNCYH 82 (2) - 2013 83 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC conlusion, Corrective surgical therapy is one of the options that provided good long-term results with few complications. Keyword: hyperthyroidism, total thyroidectomy KẾT QUẢ HÓA TRỊ TRÊN BỆNH NHÂN UNG THƯ TỤY TẠI BỆNH VIỆN K Nguyễn Tuyết Mai, Phạm Thị Vân Anh Bệnh viện K Hà Nội Đánh giá kết quả hóa trị trên bệnh nhân ung thư tụy giai đoạn lan tràn tại chỗ hoặc di căn tại bệnh viện K. Kết quả cho thấy không có đáp ứng hoàn toàn và đáp ứng một phần là18,3%; bệnh giữ nguyên là 42,9%, bệnh tiến triển là 38,8%. Sống thêm không tiến triển ước tính theo Kaplan - Meier tại thời điểm 6 tháng là 46,6% với thời gian sống thêm không tiến triển trung bình là 5,9 ± 0,7 tháng. Tỷ lệ sống thêm toàn bộ tại 1 năm là 30,3% với thời gian sống thêm toàn bộ trung bình là 11,6 ± 1,5 tháng. Sống thêm toàn bộ nhóm đa hóa trị cao hơn nhóm đơn hóa trị với gemcitabine. Hóa trị giúp cải thiện thời gian sống thêm cho ung thư tụy giai đoạn lan tràn tại chỗ hoặc di căn. Phác đồ đa hóa trị với gemcitabine cho tỉ lê đáp ứng và sống thêm cao nhất. Từ khóa: ung thư tụy, thời gian sống thêm không tiến triển, thời gian sống thêm toàn bộ, hóa trị liệu, gemcitabine I. ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư tụy là một loại u ác tính có nguồn gốc từ các tế bào của mô tụy. Trong đó hơn 95% là ung thư biểu mô tuyến của tụy xuất phát từ phần tụy ngoại tiết được gọi là ung thư tụy ngoại tiết, khoảng 5% ung thư phát triển từ tế bào đảo tụy thuộc phần tụy nội tiết và được xếp vào nhóm u thần kinh nội tiết [1]. Về dịch tễ học, ung thư tụy đứng thứ 13 trong số các bệnh ung thư hay gặp nhất trên toàn thế giới và đứng thứ 8 trong số các nguyên nhân gây tử vong do ung thư. Tỷ lệ mắc cao nhất ở Mỹ, thấp nhất ở Ấn Độ và Thái Lan. Ở Việt Nam, tỷ lệ mắc ung thư tụy chuẩn theo tuổi là 0,7/100.000 dân và có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây [1]. Ung thư tụy thường gặp ở tuổi từ 70 đến 80 và khá cân bằng giữa 2 giới, một số yếu tố nguy cơ gây ung thư tụy như các yếu tố về di truyền, hút thuốc lá, béo phì, đái tháo đường, uống rượu, viêm tụy, các yếu tố về môi trường làm việc và chế độ ăn . [1, 2]. Nhờ những tiến bộ của y học nên việc chẩn đoán ung thư tụy có nhiều cải thiện. Tuy nhiên do các triệu chứng bệnh thường xuất hiện muộn và không đặc hiệu mà 80% bệnh nhân ung thư tụy được chẩn đoán là ở giai đoạn không còn khả năng phẫu thuật cắt bỏ u [4]. Điều trị ung thư tụy, phẫu thuật vẫn là phương pháp điều trị cơ bản, được chỉ định cho bệnh nhân ở giai đoạn sớm còn khả năng cắt bỏ u. Với ung thư tụy giai đoạn III, IV hoặc ung thư tụy tái phát thì hóa trị toàn thân là phương pháp điều trị chính với mục đích là giảm nhẹ triệu chứng và cải thiện thời gian sống thêm. Có nhiều phác đồ hóa chất đã được áp dụng trong thực hành lâm sàng, trong đó phác đồ gemcitabine đơn Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Tuyết Mai, Bệnh viện K Hà Nội Email: bacsimaia@gmail.com Ngày nhận: 13/01/2013 Ngày được chấp thuận: 26/4/2013

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfchi_dinh_va_ket_qua_phau_thuat_benh_basedow.pdf