Nhìn chung, công suất của động cơ
được xác định bởi lượng hỗn hợp không khínhiên
liệu đốt cháy trong một quãng thời gian
nhất định và lượng hỗn hợp không khí-nhiên
liệu càng tăng thì công suất động cơ càng
lớn.Điều đó có nghĩa là, để tăng công suất
động cơ thì phải tăng dung tích động cơ
hoặc tăng tốc độ của động cơ.Vấn đề là ở
chỗ, khi tăng dung tích động cơ thì trọng
lượng của động cơ cũng tăng lên, và các yếu
tố như là tổn thất do ma sát, rung động, và
tiếng ồn lại hạn chế khả năng tăng tốc độ của
động cơ.
10 trang |
Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 2225 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cấu tạo ô tô - Phần 3, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
61
62
Vßi phun c¬ khÝ
63
64
- Bugi sÊy
65
C. §éng c¬ Diesel t¨ng ¸p
Tuabin tăng áp và máy nén khí tăng áp là
những thiết bị để nén không khí vào xy-lanh,
với áp suất cao hơn áp suất khí quyển, để
tăng công suất của động cơ.
Nhìn chung, công suất của động cơ
được xác định bởi lượng hỗn hợp không khí-
nhiên liệu đốt cháy trong một quãng thời gian
nhất định và lượng hỗn hợp không khí-nhiên
liệu càng tăng thì công suất động cơ càng
lớn.Điều đó có nghĩa là, để tăng công suất
động cơ thì phải tăng dung tích động cơ
hoặc tăng tốc độ của động cơ.Vấn đề là ở
chỗ, khi tăng dung tích động cơ thì trọng
lượng của động cơ cũng tăng lên, và các yếu
tố như là tổn thất do ma sát, rung động, và
tiếng ồn lại hạn chế khả năng tăng tốc độ của
động cơ.
Tuabin tăng áp đáp ứng được cả hai yêu
cầu mâu thuẫn nhau này: tăng công suất
động cơ mà vẫn giữ cho động cơ gọn nhẹ,
bằng cách cung cấp khối lượng hỗn hợp
không khí-nhiên liệu lớn hơn mà không thay
đổi kích thước động cơ. Thiết bị tăng áp
được dẫn động bằng hai phương pháp:
Tuabin tăng áp được dẫn động bằng khí xả,
còn máy nén tăng áp thì được dẫn động từ động cơ.
Toyota đã sử dụng Tuabin nạp khí tăng áp từ năm 1980 và Máy nén tăng áp từ năm 1985
ở Nhật Bản.
-HiÖu suÊt n¹p khÝ: Khả năng nạp khí của động cơ được gọi là hiệu suất nạp khí.
Các động cơ thông thường có hiệu suất nạp khí khoảng 65-85%, do sức cản trong hệ
66
thống nạp và do khí xả chỉ qua hệ thống xả. Nhưng đối với động cơ có trang bị Tuabin nạp
khí hoặc máy nén tăng áp thì hiệu suất nạp có thể đạt trên 100%.
- Tuabin tăng áp:
Là thiết bị sử dụng
năng lượng của khí
xả để làm quay bánh
tuabin với tốc độ cao.
Bánh nén khí (rôto)
được lắp trên cùng
một trục với bánh
Tuabin, nó có tác
dụng nén không khí
vào xy-lanh. Nhờ thế,
công suất của động
cơ tăng lên.
Van cửa xả và bộ
điều khiển có tác
dụng ngăn ngừa áp
suất nạp tăng lên quá
cao. Một số kiểu
động cơ có trang bị
bộ làm mát trung gian
để làm giảm nhiệt độ
của không khí nạp và
tăng hiệu quả nạp.
67
- Bánh tuabin và bánh nén khí được lắp trên cùng một trục. Khi bánh tuabin quay với tốc
độ cao nhờ có áp suất của luồng khí xả thì bánh nén khí cũng quay theo và nén không khí
vào xy-lanh. Bánh tuabin phải chịu được nhiệt và có độ bền cao vì nó tiếp xúc trực tiếp với
khí xả, quay với tốc độ cao và trở nên rất nóng. Bởi vậy, nó được làm bằng hợp kim siêu
chịu nhiệt hoặc bằng gốm.
- Khoang trung tâm đỡ bánh tuabin và bánh nén khí thông qua trục của chúng.
Trong khoang trung tâm có đường dẫn dầu để bôi trơn và làm mát cho trục và các ổ trục.
Nước làm mát động cơ cũng được tuần hoàn qua kênh làm mát trong khoang trung tâm để
nhiệt độ dầu động cơ không bị tăng lên và tránh huỷ hoại dầu.
68
- C¸c cæ trôc tù lùa hoμn toμn:
Các bánh tuabin và nén khí chạy
với tốc độ đến 100,000 v/ph, vì thế
phải sử dụng các ổ trục tự lựa
hoàn toàn để đảm bảo hấp thụ các
rung động của trục và bôi trơn trục.
Những ổ trục này được bôi trơn
bằng dầu động cơ, và quay tự do
giữa trục và vỏ hộp, nhằm giảm
ma sát, cho phép trục quay với tốc
độ cao.
- Van cửa xả được lắp trong khoang tuabin. Khi van này mở thì một phần khí xả sẽ đi tắt
qua ống xả, nhờ thế mà giữ ổn định cho áp suất nạp, khi áp suất nạp đạt đến trị số đã định
(khoảng 0,7 kg/cm2). Việc đóng mở van được kiểm soát bởi bộ chấp hành.
69
- Tuabin kÐp hai chÕ ®é:
Tuabin kép
hai chế độ bao
gồm hai Tuabin
tăng áp lắp trên
cùng một động
cơ. Khi hai tuabin
cùng làm việc ở
điều kiện tải nhẹ
hoặc tốc độ thấp,
tính thích ứng của
động cơ được cải
thiện, ví dụ thích
ứng với tăng tốc.
Khi hai tuabin
cùng làm việc ở
điều kiện tải nặng
hoặc tốc độ cao,
động cơ có thể
sản ra công suất
cao. Khi chỉ có một tuabin thì động cơ khó đạt được hiệu quả cao ở cả hai chế độ làm việc
với tải trọng nặng và tải trọng nhẹ. Trong trường hợp này chỉ có thể đạt được hiệu quả cao
ở một trong hai chế độ.
Tuabin kép sử dụng van điều khiển khí xả và van phân dòng. Nó điều khiển cho một
tuabin làm việc ở chế độ tải nhẹ và hai tuabin làm việc ở chế độ tải nặng hoặc tốc độ cao,
để tăng tính thích ứng của động cơ ở mọi tốc độ và đạt được công suất cao.
* §iÒu khiÓn phun nhiªn liÖu:
Động cơ được trang bị Tuabin tăng áp hoặc máy nén tăng áp để đưa vào xy-lanh một
lượng không khí lớn hơn. Công suất của động cơ sẽ không tăng lên được khi lượng khí
nạp này không
được đốt cháy
hoàn toàn. Vì thế,
phải tăng lượng
nhiên liệu để đốt
cháy hoàn toàn khí
nạp. Như vậy, tiêu
hao nhiên liệu sẽ
tăng lên khi tăng
công suất động cơ.
- §iÒu khiÓn c¬ häc
Đối với động cơ
Diesel, bộ bù nạp
sẽ tăng lượng bơm
nhiên liệu cực đại
phù hợp với áp suất
nạp.
70
- §iÒu khiÓn b»ng m¸y tÝnh
Trong động cơ
điều khiển bằng
máy tính, lượng
không khí nạp
được theo dõi bằng
cảm biến lưu lượng
khí nạp, còn áp
suất nạp được theo
dõi bằng bộ cảm
biến áp suất của
tuabin nạp, và sự
tăng lượng phun
nhiên liệu cực đại
được điều khiển bằ
ng ECU của động
cơ.
-B«i tr¬n vµ lµm m¸t tuabin:
- Dầu động cơ
được cung cấp
từ ống dẫn dầu,
đưa vào để bôi
trơn và làm mát
các ổ trục tự lựa
lắp bên trong
khoang trung
tâm. Sau đó dầu
chảy ra theo
ống thoát và trở
về các te dầu.
- Tuabin nạp khí
được làm mát
bằng nước làm
mát động cơ.
Nước làm mát
động cơ được
đưa vào kênh
làm mát bên
trong khoang
trung tâm, thông
qua ống dẫn
nước làm mát.
Sau khi làm mát
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cấu tạo ô tô 3.pdf