Kết quả không cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê của các nồng độ của MBL
giữa huyết thanh bệnh nhân bệnh thận IgA và nhóm chứng. Khi phân tích theo nhóm tuổi
cũng không cho thấy bất kỳ xu hướng khác biệt nào của nồng độ MBL2 giữa nhóm
chứng và nhóm bệnh. Như vậy, nồng độ MBL2 trong huyết thanh không cho thấy là
yếu tố quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của bệnh thận IgA.
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của nồng độ Mannose - Binding lectin 2 (MBL2) trong cơ chế bệnh sinh của bệnh thận IgA, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
32 TCNCYH 86 (1) - 2014
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Địa chỉ liên hệ: Vương Tuyết Mai, bộ môn Nội tổng hợp,
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: vuongtuyetmai@gmail.com
Ngày nhận: 25/9/2013
Ngày được chấp thuận: 17/2/2014
ẢNH HƯỞNG CỦA NỒNG ĐỘ MANNOSE - BINDING LECTIN 2
(MBL2) TRONG CƠ CHẾ BỆNH SINH CỦA BỆNH THẬN IgA
Vương Tuyết Mai
Trường Đại học Y Hà Nội
Mục tiêu nghiên cứu nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của nồng độ mannose - binding lectin 2 (MBL2) trong cơ
chế bệnh sinh của bệnh thận IgA. Nghiên cứu tiến hành ở 39 mẫu huyết thanh của bệnh nhân bệnh thận IgA
và 39 người khoẻ mạnh. Chúng tôi không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở các nồng độ của
MBL2 trong huyết thanh của nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA và nhóm chứng. Thêm vào đó khi phân tích
theo nhóm tuổi cũng không cho thấy bất kỳ xu hướng khác biệt nào của nồng độ MBL2 giữa nhóm chứng và
nhóm bệnh. Như vậy, trong nghiên cứu này, nồng độ MBL2 trong huyết thanh không cho thấy là một yếu tố
quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của bệnh thận IgA.
Từ khoá: MBL2, bệnh thận IgA
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Mannose - binding lectin (MBL), cũng được
gọi là mannan - hoặc mannose - binding
protein (MBP) là một trong những protein
trong nhóm collectin family, hoạt hoá lectin
trong hệ thống hoạt hoá bổ thể cổ điển. Cấu
trúc và chức năng của MBL tương tự như
C1q, có vai trò quan trọng trong miễn dịch
bẩm sinh như là một thụ thể nhận dạng trong
hệ thống bổ thể [1]. Hệ thống bổ thể được
kích hoạt thông qua 3 cơ chế: cổ điển, thay
thế và lectin. Con đường bổ thể được kích
hoạt thông qua cơ chế lectin sau khi có sự
tương tác của plasma lectin mannose-binding
(MBL), L-ficolin, hoặc H-ficolin với
carbohydrate. Cho đến nay, cơ chế kích hoạt
bổ thể trong bệnh thận IgA chưa được báo
cáo thật đầy đủ nhưng nhiều nghiên cứu cho
thấy có sự lắng đọng bổ thể, đặc biệt là C3 và
C4 ở cầu thận bệnh nhân. Hơn nữa, sự lắng
đọng của MBL gắn với IgA tại cầu thận cho
thấy dấu hiệu MBL là để kích hoạt con đường
lectin [2]. Sự liên quan giữa sự lắng đọng
MBL tại cầu thận với các thông số đánh giá
mức độ tổn thương thận đã cho thêm bằng
chứng về sự kích hoạt bổ thể thông qua con
đường lectin ở bệnh thận IgA [1; 3].
Bệnh thận IgA được Berger và Hinglais
trình bày lần đầu tiên vào năm 1968 với hình
ảnh tổn thương đặc hiệu của sự lắng đọng
các phức hợp miễn dịch, đặc biệt là IgA ở
gian mạch cầu thận đã giúp các nhà thận học
có thể nhận diện được bệnh thận IgA khác
biệt so với các tổn thương cầu thận khác [4].
Chiếm xấp xỉ 1/3 trong tổng số bệnh cầu thận,
sau nhiều năm được coi là lành tính, những
nghiên cứu dọc với thời gian dài gần đây đã
cho thấy bệnh thận IgA là một trong những
nguyên nhân tương đối phổ biến dẫn đến
bệnh thận giai đoạn cuối. Tỷ lệ bệnh thận IgA
trong tổng số bệnh cầu thận (thống kê dựa
trên kết quả sinh thiết thận) cho thấy có sự
khác biệt trong các quần thể trên thế giới: cao
nhất là khu vực châu Á (Singapore, Nhật Bản
và Hồng Kông), Úc, Phần Lan và Nam Âu,
chiếm tỷ lệ 20 đến 40%, tuy nhiên ở Vương
TCNCYH 86 (1) - 2014 33
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2014
quốc Anh, Canada và Hoa Kỳ, tỷ lệ thấp hơn
nhiều, chỉ từ 2 đến 10%. Sự khác biệt về tỷ lệ
có thể do chỉ định sinh thiết thận ở các nước
khác nhau tuy có thể sự khác biệt này có đóng
góp của yếu tố di truyền và miễn dịch trong cơ
chế bệnh sinh của bệnh thận IgA [6].
Triệu chứng khởi đầu của bệnh nhân có
bệnh thận IgA thường là xuất hiện triệu
chứng đái máu trong vòng 48 giờ sau viêm
đường hô hấp trên hoặc nhiễm trùng khác.
Do có hiện tượng đáp ứng miễn dịch quá
mức và sự lưu hành của phức hợp miễn dịch
trong huyết thanh có thể dẫn đến sự lắng
đọng phức hợp miễn dịch tại cầu thận, đặc
biệt là gian mạch cầu thận. Bên cạnh đó,
MBL đã được chứng minh có liên quan đặc
biệt với nhiễm trùng đường hô hấp, ví dụ như
cúm A virus, Pneumococci, Haemophilus
influenzae Vì vậy chúng tôi đặt giả thuyết
rằng các mức độ MBL trong huyết thanh bệnh
nhân có thể có vai trò nhất định trong cơ chế
bệnh sinh của bệnh thận IgA. Do đó, nghiên
cứu được tiến hành nhằm mục tiêu: Xác định
ảnh hưởng của nồng độ mannose - binding
lectin (MBL2) trong cơ chế bệnh sinh của
bệnh thận IgA.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Nghiên cứu được thực hiện tại viện
Karolinska (Thụy Điển) tiến hành trên 39 mẫu
huyết thanh của các bệnh nhân bệnh thận IgA
và 39 người khoẻ mạnh. Tất cả các bệnh
nhân bệnh thận IgA trong nghiên cứu đều
được tiến hành sinh thiết thận và đủ tiêu
chuẩn chẩn đoán bệnh thận IgA. Nhóm chứng
là những người khỏe mạnh được lựa chọn có
tuổi và giới tương đồng với bệnh nhân ở
nhóm bệnh thận IgA.
Kỹ thuật ELISA (Antibodyshop, DK - 2820
Gentofte, Đan Mạch) được sử dụng trong
nghiên cứu để định lượng nồng độ MBL2
ở nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA và
nhóm chứng.
Xử lý số liệu
Các số liệu được mã hóa và xử lý bằng
chương trình SPSS 17.0. Test Mann - Whitney
hoặc Kruskal - Wallis được sử dụng để so
sánh các nồng độ MBL2 trong huyết thanh
nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA và nhóm chứng.
Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu cũng đã thông qua hội đồng
xét duyệt y đức của bệnh viện Karolinska,
Stockholm, Thụy Điển.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm chung của các đối tượng nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm của các đối tượng nghiên cứu
Nhóm Số lượng Tuổi
Giới
p
Nam Nữ
Nhóm chứng 39 (100%) 35,08 ± 1,62
30
(76,92%)
9
(23,08%)
> 0,05
Nhóm bệnh 39 (100%) 35,10 ± 1,61
30
(76,92%)
9
(23,08%)
34 TCNCYH 86 (1) - 2014
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bệnh nhân được lựa chọn cho nhóm bệnh và nhóm chứng tương đương nhau về số lượng
đối tượng nghiên cứu cũng như tương đồng về độ tuổi và giới tính.
2. Nồng độ MBL2 trong nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA và nhóm chứng
Nồng độ MBL2 ở nhóm chứng là 18,51 ± 2,51 ng/ml (0,12 - 48,96 ng/ml) không khác biệt so
với nhóm bệnh nhân là 20,38 ± 2,68 ng/ml (0,02 - 50 ng/ml).
Bảng 2. Sự phân bố tỷ lệ bệnh nhân bệnh thận IgA và nhóm chứng
ở các loại nồng độ của MBL2
Nồng độ
MBL2
Nhóm chứng Nhóm bệnh nhân Tổng số
c2 p
n1 % n2 % n %
< 5 ng/ml 8 10,3% 9 11,5% 17 21,8%
0,75
0,5
≥ 5 ng/ml 31 39,7% 30 38,5% 61 78,2%
Tổng 39 50% 39 50% 78 100%
< 10 ng/ml 17 21,8% 16 20,5% 33 42,3%
0,53
0,5
≥ 10 ng/ml 22 28,2% 23 29,5% 45 57,7%
Tổng 39 50% 39 50% 78 100%
< 15 ng/ml 19 24,4% 18 23,1% 37 47,4%
0,51
0,5
≥ 15 ng/ml 20 25,6% 21 26,9% 41 52,6%
Tổng 39 50% 39 50% 78 100%
< 20 ng/ml 21 26,9% 20 25,6% 41 52,6%
0,05
0,5
≥ 20 ng/ml 18 23,1% 19 24,4% 37 47,4%
Tổng 39 50% 39 50% 78 100%
Nồng độ MBL2 được chia thành các phân nhóm khác nhau. Tuy nhiên, khi so sánh tỷ lệ phân
bố của nhóm bệnh nhân và nhóm chứng ở các phân mức khác nhau không thấy sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê.
3. So sánh nồng độ MBL2 trong nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA và nhóm chứng phân
loại theo nhóm tuổi
So sánh nồng độ MBL2 của nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA và nhóm chứng ở các nhóm tuổi
khác nhau không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (bảng 3).
TCNCYH 86 (1) - 2014 35
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2014
Bảng 3. Sự phân bố tỷ lệ bệnh nhân bệnh thận IgA và nhóm chứng theo nhóm tuổi
Nồng độ
MBL2 (mg/ml)
50 tuổi
Chứng Bệnh Chứng Bệnh Chứng Bệnh Chứng Bệnh
Trung bình
23,16 ±
3,7
21,29 ±
3,51
12,25 ±
4,33
21,1 ±
6,0
13,34 ±
5,07
20,49 ±
5,68
32,57 ±
9,54
12,65 ±
11,6
Min-Max
5,02 -
48,96
0,51 -
43,87
0,01 -
42,35
0,1 - 50
2,97 -
45,65
0,37 -
44,59
14,61 -
32,54
002 -
35,82
p 0,89 0,11 0,54 0,2
Bảng 4. Sự phân bố tỷ lệ bệnh nhân bệnh thận IgA và nhóm chứng
theo 2 nhóm trên và dưới 30 tuổi
Nồng độ MBL2 (mg/ml)
≤ 30 tuổi > 30 tuổi
Chứng Bệnh Chứng Bệnh
Trung bình 23,16 ± 3,7 21,29 ± 3,5 15,27 ± 3,29 19,81 ± 3,82
Min-Max 5,02 - 48,96 0,51 - 43,87 0,01 - 47,15 0,02 - 50
p 0,86 0,33
Để tăng số lượng bệnh nhân trong mỗi nhóm tuổi chúng tôi phân tích ở hai nhóm trên và dưới
30 tuổi tuy nhiên khi so sánh nồng độ MBL2 của nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA và nhóm chứng
ở 2 nhóm tuổi này cũng không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
IV. BÀN LUẬN
Bệnh nhân bệnh thận IgA thường xuất hiện
triệu chứng đái máu và đau hông lưng trong
vòng 48 giờ sau viêm đường hô hấp trên hoặc
nhiễm trùng khác. Triệu chứng này xuất hiện
ở khoảng hơn 40% bệnh nhân bệnh thận IgA
[5]. MBL đã được chứng minh có vai trò quan
trọng trong quá trình đáp ứng miễn dịch khi cơ
thể nhiễm trùng, đặc biệt trong nhiễm trùng
đường hô hấp, ví dụ như cúm A virus,
Pneumococci, Haemophilus influenzae, and
Legionella pneumophila. Do vậy, sự thiếu hụt
của MBL có thể làm tăng khả năng nhiễm
trùng đường hô hấp trên [3]. Chúng tôi đặt giả
thuyết rằng các mức độ MBL trong huyết
thanh bệnh nhân có thể có vai trò quan trọng
trong cơ chế bệnh sinh của bệnh thận IgA.
Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi chỉ tiến
hành định lượng MBL2 trong huyết thanh
bệnh nhân bệnh thận IgA và chưa có điều
kiện để làm nghiên cứu về sự đào thải MBL
trong nước tiểu cũng như tình trạng cũng như
tình trạng lắng đọng của MBL ở cầu thận của
bệnh nhân bệnh thận IgA.
Nghiên cứu của Hisano S và cộng sự
tiến hành theo hướng tìm hiểu sự lắng đọng
của MBL2 tại cầu thận nhằm tìm hiểu vai trò
của MBL trong cơ chế bệnh sinh của bệnh
thận IgA. Kết quả nhuộm hóa mô miễn dịch
tiêu bản sinh thiết thận cho thấy có sự lắng
đọng MBL tại cầu thận và kích hoạt bổ thể
qua con đường lectin ở bệnh nhân bệnh cầu
36 TCNCYH 86 (1) - 2014
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
thận và chứng minh có sự lắng đọng MBL tại
cầu thận [6].
Có nhiều bằng chứng hỗ trợ cho giả thuyết
về sự kích hoạt bổ thể thông qua lectin trong
bệnh thận IgA nhờ những nghiên cứu tìm hiểu
sự lắng đọng MBL ở cầu thận. Nghiên cứu
của Liu LL và cộng sự tiến hành tìm hiểu sự
lắng đọng MBL tại cầu thận ở 131 bệnh nhân
bệnh thận IgA qua kết quả quan sát được khi
nhuộm miễn dịch huỳnh quang cho thấy sự
lắng đọng của MBL chủ yếu ở gian mạch cầu
thận (34,35%). Nhóm bệnh nhân bệnh thận
IgA có lắng đọng MBL tại gian mạch cầu thận
so với bệnh nhân không có lắng đọng MBL tại
cầu thận thì có protein niệu nghiêm trọng hơn,
suy giảm chức năng thận nhiều hơn và có
những thay đổi mô học nặng hơn theo phân
loại Oxford [7].
Nghiên cứu của Anja Roos và cộng sự về
con đường lectin có thể kích hoạt bổ thể bằng
cách nghiên cứu tình trạng lắng đọng của
lectin mannose - binding (MBL) và ficolins tại
cầu thận trong bệnh thận IgA. Kết quả nghiên
cứu cho thấy, lắng đọng MBL ở gian mạch
cầu thận chiếm 25%. Sự lắng đọng MBL và
L-ficolin ở cầu thận của bệnh nhân bệnh thận
IgA có liên quan với tổn thương mô học nặng
hơn biểu hiện bằng xơ cứng cầu thận và thâm
nhiễm kẽ, cũng như lượng protein niệu nhiều
hơn đáng kể [8].
Trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi,
nồng độ MBL2 ở nhóm chứng là 18,51 ±
2,51ng/ml (0,12 - 48,96ng/ml) không khác biệt
so với nhóm bệnh nhân là 20,38 ± 2,68ng/ml
(0,02 - 50/ml) với p > 0,05. Phân loại nồng độ
của MBL2 ở nhiều mức độ khác nhau cũng
không cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê giữa huyết thanh bệnh nhân và nhóm
chứng khi phân tích bằng Mann - Whitney
Test. Thêm vào đó, khi chúng tôi phân tích
chia theo nhóm tuổi cũng không cho thấy bất
kỳ xu hướng nào của sự khác biệt nào của
các mức nồng độ MBL2 huyết thanh giữa
nhóm chứng và nhóm bệnh thận IgA.
Kết quả nghiên cứu này cũng tương tự
như trong kết quả nghiên cứu của Anja Roos
và cộng sự. Trong nghiên cứu của Anja Roos
và cộng sự mặc dù cho thấy nếu bệnh nhân
lắng đọng MBL tại cầu thận kết hợp với L -
ficolin thì có biểu hiện tổn thương cầu thận
nặng hơn cũng như biểu hiện lâm sàng với
tình trạng protein niệu và chức năng thận suy
giảm nhiều hơn nhóm không có lắng đọng
MBL và L - ficotin nhưng không thấy sự khác
biệt đáng kể nồng độ MBL huyết thanh giữa
nhóm bệnh thận IgA và nhóm chứng [8].
Liu LL và cộng sự tiến hành nghiên cứu về
tình trạng bài tiết MBL trong nước tiểu ở 162
bệnh nhân IgA và 50 người khỏe mạnh. MBL
bài tiết ở nước tiểu được đo bằng sandwich
ELISA cho thấy nồng độ MBL trong nước tiểu
ở bệnh nhân bệnh thận IgA cao hơn đáng kể
so với nhóm khỏe mạnh. Có sự liên quan giữa
mức độ MBL bài tiết trong nước tiểu và chức
năng thận (so sánh dựa trên creatinine huyết
thanh và mức lọc cầu thận ước tính của bệnh
nhân), protein niệu và tăng huyết áp động
mạch. Đồng thời kết quả nghiên cứu cũng cho
thấy MBL có liên quan với các thông số mô
bệnh học theo phân loại Oxford [9].
Như vậy, những nghiên cứu mô bệnh học
về sự lắng đọng của MBL ở cầu thận và sự
bài tiết MBL ở nước tiểu cho thấy vai trò của
MBL trong cơ chế bệnh sinh của bệnh thận
IgA là quan trọng. Tuy nhiên, khi dựa trên
những bằng chứng nghiên cứu trên để tiến
hành định lượng nồng độ MBL trong huyết
thanh chúng tôi chưa thấy có bằng chứng về
vai trò của MBL huyết thanh trong cơ chế
bệnh sinh của bệnh thận IgA.
TCNCYH 86 (1) - 2014 37
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2014
V. KẾT LUẬN
Kết quả không cho thấy sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê của các nồng độ của MBL
giữa huyết thanh bệnh nhân bệnh thận IgA
và nhóm chứng. Khi phân tích theo nhóm tuổi
cũng không cho thấy bất kỳ xu hướng khác
biệt nào của nồng độ MBL2 giữa nhóm
chứng và nhóm bệnh. Như vậy, nồng độ
MBL2 trong huyết thanh không cho thấy là
yếu tố quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của
bệnh thận IgA.
Lời cảm ơn
Tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các
thầy cô đã tận tình chỉ dạy và tạo mọi điều
kiện cho nghiên cứu được tiến hành: Stefan
H. Jacobson, Leonid Padyukov, Iva Gunnarsson,
Đỗ Thị Liệu, Đinh Thị Kim Dung, Sigrid Lundberg,
Elisabet Svenungsson, Lars Wramner, Maria
Seddighzadeh, Mirjana Hahn - Zoric, Anders
Fernstrom, Lars A Hanson và Ann - Christine
Syvänen. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn
Eva Jemseby, Per - Anton Westerberg,
Susanne Schepull, Micael Gylling và Per
Eriksson đã tham gia tạo dựng bước đầu cho
quá trình nghiên cứu. Tôi chân thành cảm ơn
sự hỗ trợ của dự án các bệnh phổ biến Việt
Nam, Đại học Y Hà Nội, Sida/SAREC, Roche,
quỹ nghiên cứu thận Thụy Điển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tsutsumi A, Takahashi R, Sumida T
(2005). Mannose binding lectin: genetics and
autoimmune disease. Autoimmun Rev, 4(6),
364 - 372.
2. Lhotta K, Würzner R, König P (1999).
Glomerular deposition of mannose-binding
lectin in human glomerulonephritis. Nephrol
Dial Transplant, 14(4), 881.
3. Gomi K, Tokue Y, Kobayashi T et al
(2004). Mannose-binding lectin gene
polymorphism is a modulating factor in
repeated respiratory infections. Chest, 126(1),
95 - 99.
4. Berger J, Hinglais N (2000).
Intercapillary deposits of IgA-IgC.1968. J. Urol.
Nephrol. (Paris) 74: 694 - 695 (with comments
by Liliane Striker)]. Reprinted in J Am Soc
Nephrol, 11(10), 1957 - 1959.
5. Donadio JV, Grande JP (2002). IgA
nephropathy. N Engl J Med, 347(10), 738 - 748.
6. Hisano S, Matsushita M, Fujita T et al
(2007). Activation of the lectin complement
pathway in post-streptococcal acute
glomerulonephritis. Pathol Int, 57(6), 351 - 357.
7. Liu LL, Liu N, Chen Y, Wang LN et al
(2013). Glomerular mannose binding lectin
deposition is a useful prognostic predictor in
IgA nephropathy. Clin Exp Immunol. 2013 Jun
10. doi: 10.1111/cei.12154.
8. Anja Roos, Maria Pia Rastaldi,
Novella Calvaresi et al. Glomerular Activation
of the Lectin Pathway of Complement in IgA
Nephropathy Is Associated with More Severe
Renal Disease. J Am Soc Nephrol 17: 1724–
1734, 2006. doi: 10.1681/ASN.2005090923.
9. Liu LL, Jiang Y, Wang LN et al.
Urinary mannose-binding lectin is a biomarker
for predicting the progression of
immunoglobulin (Ig)A nephropathy. Clinical and
Experimental Immunology, 169, 148 - 155.
38 TCNCYH 86 (1) - 2014
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Summary
THE INFLUENCE OF MANNOSE-BINDING LECTIN 2 (MBL2)
CONCENTRATION ON SUSCEPTIBILITY TO IGA NEPHROPATHY
The purpose of this study was to investigate the influence of MBL2 concentration on suscepti-
bility to IgA nephropathy. 39 serum samples from patients with IgA nephropathy and 39 serum
samples of healthy controls were analysed by ELISA technique. We did not find any significant
difference in serum MBL levels between IgA nephropathy group and the control group. In
addition, we found no difference of serum MBL2 levels between IgA nephropathy patients and the
control group when stratified by age groups. Our results suggested that MBL2 is unlikely a
possible biomarker for prediction of susceptibility to IgA nephropathy.
Keywords: MBL2, IgA nephropathy
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 18_65_1_pb_7594.pdf