Vài nét về nguồn gốc người Tày ở Cao Bằng - Nguyễn Thị Hải

Ngoài lực lượng người Kinh, người Tày ở Cao Bằng hiện nay còn có một bộ phận có nguồn gốc từ người Nùng, Ngạn, Hoa Quá trình biến Thổ của các tộc người này diễn ra rải rác, không mạnh mẽ như tộc người Kinh. Trên thực tế, sau cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao (vào thế kỷ XI), nhiều người thuộc dòng họ Nùng đã chạy theo Nùng Trí Cao vào vùng Đặc Ma (Vân Nam, Trung Quốc) hoặc chạy trốn vào rừng hoặc đổi thành họ Nông để tránh sự truy sát của vương triều Tống. Có thể, từ tên gọi tộc họ đã chuyển hoá thành tộc danh để chỉ tộc người sinh sống trên địa bàn lãnh thổ họ Nùng trước kia (tức là Cao Bằng và một vài tỉnh Đông Bắc của nước ta). Sau sự biến Nùng Trí Cao, người Nùng đã hoà nhập vào cộng đồng Tày địa phương, trở thành những người Tày bản địa. Bởi hai tộc người Tày và Nùng có chung nguồn gốc lịch sử, chung hệ ngôn ngữ và có văn hoá về cơ bản giống nhau, nên rất dễ diễn ra quá trình cố kết tộc người. Tộc danh Nùng hiện nay là chỉ bộ phận người Choang ở các khu vực Tây và Tây Nam Quảng Tây, Trung Quốc như Bình Quả, Đô An, Mục Biên, Đức Bảo. và các vùng Đông Nam Vân Nam như Văn Sơn cùng một số vùng thuộc vùng biên giới Trung- Việt thuộc tỉnh Quảng Tây và Vân Nam. Tộc người này mới di cư vào nước ta khoảng 300 năm nay. Theo Cao Bằng tạp chí “ngoài người Nùng Mấn và Nùng Vảng là người bản địa vốn có, còn lại đều là loại hai ba trăm năm hoặc năm sáu mươi năm trước mới từ phương Bắc di cư xuống đây, ở lẫn lộn với người Thổ, người Nùng bản địa. Họ khai khẩn đất đai mà canh tác nộp thuế nên đều trở thành người Nùng bản địa”[5, 3]. Quá trình hòa hợp tộc người đó có thể diễn ra một cách tự nhiên, nhưng cũng có khi xuất phát từ những chính sách của nhà nước. Ví dụ, năm 1832, vua Minh Mệnh ra lệnh “đổi người Nùng Cao Bằng làm người Thổ. Trong dân 4 châu thuộc hạt Cao Bằng trước kia có chức được gọi là phụ đạo. Vua đã chuẩn cho các quan trong bộ bàn đổi gọi là người Nùng. Nhưng dân ấy cho rằng Nùng là người Trung Quốc xiêu giạt sang. Vậy xin cho tên khác để phân biệt. Quan tỉnh đem việc tâu lên. Vua bảo rằng: “Đấy cũng là một cơ hội biến người Di làm người Kinh, liền cho đổi gọi là người Thổ, vẫn phải nộp thuế bạc như cũ”[9, 448]. Tộc người Tày là cư dân bản địa, đã sinh sống lâu đời ở vùng đất Cao Bằng cũng như một số tỉnh miền núi phía Bắc. Song do điều kiện khách quan và chủ quan, ở Cao Bằng đã xuất hiện lớp cư dân Tày hóa từ các tộc người khác như Kinh, Nùng, Hoa bên cạnh bộ phận Tày gốc. Trên thực tế cũng phải thừa nhận rằng sức mạnh của nền văn hóa bản địa, của tộc người có dân số đông nhất ở Cao Bằng đã tạo ra sức đồng hóa mạnh mẽ các tộc người khác trong vùng. “Kinh già hóa Thổ” đã trở thành một hiện tượng độc đáo và diễn ra trong nhiều thế kỷ, mạnh mẽ nhất là thế kỷ XVII –XVIII. Quá trình này đã tác động không nhỏ tới đời sống kinh tế, văn hóa của tộc người cũng như của địa phương. Bên cạnh những nét văn hóa đặc trưng của tộc người đã xuất hiện những nét văn hóa mới. Đó là sản phẩm của quá trình giao thoa văn hóa Tày – Việt như sự xuất hiện của các ngôi chùa ở Cao Bằng, sự ra đời của chữ Nôm Tày, điệu hát Then. Cộng đồng Tày Cao Bằng ngày nay, không có sự phân chia thành người bản địa hay đồng hóa, cùng nhau xây dự

pdf6 trang | Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 269 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vài nét về nguồn gốc người Tày ở Cao Bằng - Nguyễn Thị Hải, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Thị Hải Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 17 - 22 17 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên VÀI NÉT VỀ NGUỒN GỐC NGƯỜI TÀY Ở CAO BẰNG Nguyễn Thị Hải* Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Dân tộc Tày còn có tên gọi là “Tày Đeng” hoặc Thổ. Họ là cư dân sinh sống lâu đời ở khu vực miền núi phía Bắc nước ta, trong đó có Cao Bằng. Trải qua quá trình lịch sử, với nhiều biến động chính trị, bên cạnh những dòng họ Tày bản địa, lớp cư dân Tày mới đã xuất hiện. Trong Cao Bằng tạp chí nhật tập, Bế Huỳnh đã chia người Thổ (người Tày) thành bốn loại là Thổ ty (con cháu công thần triều Lê được phân phong thế tập cai quản ở đây), Phụ Đạo (người Tày bản địa được triều đình phong làm phụ đạo), Thổ trước (dân Tày bản địa) và Biến Thổ (người ở dưới đồng bằng hoặc đi việc vua, đi dạy học mà tới, dân tứ xứ đến buôn bán cùng con cháu bề tôi nhà Mạc, những người phò giúp Tây Sơn an trí ở đây ) [5, 2]. Từ khoá: Dân tộc Tày, Cao Bằng, An Dương Vương, Văn hoá, Thổ ty NGƯỜI TÀY GỐC* Ngày nay, người Tày Cao Bằng còn lưu truyền câu chuyện truyền thuyết “Pú Luông Quân” - kể về cuộc sống nguyên thuỷ của người Tày cổ ở địa phương. Cao Bằng là nơi sinh sống của cặp trai gái đầu tiên Báo Luông (trai to) và Sao Cải (gái lớn), nói cách khác, đó là nơi phát tích của người Tày cổ. Họ gặp nhau, lấy nhau và chung sống trong Ngườm Ngả (tức Ngườm Bốc) – một hang cạn gần mỏ nước ở Bản Nưa, xã Hồng Việt, huyện Hòa An ngày nay. Trải qua quá trình lao động, họ đã tìm ra lửa, phát minh ra nghề nông trồng lúa nước, thuần dưỡng và chăn nuôi gia súc. Khi nông nghiệp phát triển, họ bắt đầu chuyển xuống ở gần những cánh đồng. Quá trình ấy gắn liền với những địa danh Tày cổ của Hòa An như Nà Đuốc, Nà Loòng, Nà Niền, Nà Mỏ, Vỏ Má, Lậu Pất, Khau Ma, Nà Vài, Nà Mò, Chông Mu [7]. Đặc biệt, qua nghiên cứu địa danh cho thấy, trừ tên huyện, xã là âm Hán - Việt được hình thành trong giai đoạn lịch sử sau, thì toàn bộ tên xóm, bản, sông, suối, núi, đồi đều là tiếng Tày. Điều đó chứng tỏ Cao Bằng là nơi cư trú lâu đời và liên tục của các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái. Cốt lõi lịch sử của truyền thuyết “Pú Luông Quân” phần nào được chứng minh qua những thành tựu khảo cổ học ở Cao Bằng. Các nhà * Tel: 0986938872; Email: nguyenthihai83@gmail.com khảo cổ đã tìm thấy ở Cao Bằng nhiều di tích thuộc thời đại đồ đá. Mặc dù chưa phát hiện được hiện vật của giai đoạn sơ kỳ đá cũ nhưng các nhà khảo cổ đã khẳng định ở Cao Bằng có trầm tích và hóa thạch thuộc giai đoạn trung kỳ Cánh tân ở Ngườm Phja Khóa (huyện Thạch An) và hang Phja Phủ (huyện Trùng Khánh). Tiếp đó là các di tích thuộc thời kỳ văn hóa Sơn Vi như Ngườm Xe, mái đá Bản Giã, mái đá Ngườm Càng, hang Ngườm Nhù (huyện Trùng Khánh), Ngườm Phà Kình, Pó Piúc (huyện Hòa An) ; rồi văn hóa Hòa Bình – Bắc Sơn như hang Ngườm Càng (Thông Nông), hang Ngườm Bốc (Hòa An). Tại Ngườm Bốc – tương truyền là nơi ở của hai vợ chồng Báo Luông và Sao Cải - các nhà khảo cổ học đào thám sát, thu được khối trầm tích Cácbonnat Canxi có chứa hóa thạch động vật, vỏ ốc suối khá lớn và 11 hiện vật bằng đá (4 công cụ chặt thô, 2 nạo cắt, 2 chày nghiền, 3 cuội nguyên liệu). Đây là một di tích cư trú của người nguyên thủy sống vào giai đoạn chuyển tiếp giữa thời đại đá cũ và đá mới, cách ngày nay khoảng 10.000 năm, tương đương với giai đoạn văn hóa Hòa Bình sớm [2, 79-80]. Ở hang Thần (Thông Nông), các nhà khảo cổ còn tìm thấy dấu vết của một di cốt không còn nguyên vẹn của người thời cổ. Sau khi phân tích lớp trầm tích, nội dung tầng văn hóa và nghi thức táng, nhà khảo cổ học Trình Năng Chung đã xếp hang Thần vào nền văn hóa Bắc Sơn có niên đại sơ kỳ đá mới [1, 83]. Những vết tích thời đại đá Nguyễn Thị Hải Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 17 - 22 18 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ở khu vực này tuy còn rải rác nhưng cũng cho ta thấy sự phát triển liên tục của các nền văn hoá khảo cổ tại Cao Bằng Mặc dù chưa tìm được tầng văn hóa nhưng rõ ràng, người nguyên thủy đã có mặt ở Cao Bằng và có thể xem giai đoạn “Pú Luông Quân” là giai đoạn xã hội thị tộc nguyên thủy của người Tày - Thái mà sử cũ gọi là bộ lạc Tây Âu. Vào giai đoạn hậu kỳ đá mới, sơ kỳ kim khí, công xã thị tộc dần tan rã, công xã nông thôn dần được hình thành. Truyền thuyết Cẩu chủa cheng vùa của đồng bào Tày Cao Bằng phản ánh một xã hội phụ hệ đang mạnh bước tới ngưỡng cửa văn minh, của sự hình thành nhà nước. “Nước Nam Cương” nằm ở phía Nam Trung Quốc và vùng đất Cao Bằng ngày nay, giáp với nước Văn Lang, do Thục Chế - cha của Thục Phán - làm vua, kinh đô đặt ở Nam Bình (tức Cao Bình thuộc xã Hưng Đạo, Hòa An hiện nay). Đó là một liên minh bộ lạc gồm mười mường, mỗi chúa cai quản một xứ nhưng lệ thuộc vào mường trung tâm của Thục Chế, cứ ba năm tiến cống một lần. Khi Thục Chế chết, Thục Phán còn nhỏ tuổi, các chúa mường kéo quân đến vây kinh thành đòi nhường ngôi. Thục Phán tổ chức cuộc thi tài giữa các chúa, ai thắng cuộc sẽ nhường ngôi cho. Bằng tài trí thông minh của mình, Thục Phán đã khéo tìm cách làm cho các chúa phải thua cuộc, giữ vững ngôi vị. “Nước Nam Cương” ngày càng cường thịnh, nhân lúc Văn Lang suy yếu đã đánh chiếm, lập lên nước Âu Lạc, đóng đô ở Cổ Loa [7]. Nhiều học giả còn hoài nghi về nguồn gốc của An Dương Vương Thục Phán nhưng đa số nghiêng về giả thuyết Thục Phán quê ở Cao Bằng và cho rằng ông là thủ lĩnh một liên minh bộ lạc người Tây Âu (người Tày cổ) ở vùng núi phía Bắc Việt Nam và Nam Quảng Tây (Trung Quốc), trong đó Cao Bằng là trung tâm. Nhân dân vùng Cổ Loa đến nay vẫn tương truyền rằng An Dương Vương là “một tù trưởng miền núi” và trong lễ hội đền Cổ Loa, lễ vật không thể thiếu ở Đền Thượng là bánh chưng tròn và dài, thường gọi là bánh chưng Tày [8, 508]. Tuy vậy, chứng tích vật chất, tư liệu khảo cổ học ở Cao Bằng chưa ủng hộ cho quan điểm này. Hiện nay, các nhà khảo cổ mới phát hiện một số hiện vật bằng đồng như mũi lao đồng tại Pò Tường (Hoàng Tung, Hòa An), trống đồng Bản Hóa (xã Dân Chủ, Hòa An) và những chiếc trống đồng Đông Sơn loại muộn phát hiện ngẫu nhiên ở khu vực Bảo Lạc, Trùng Khánh. Dù di vật đồng thau còn ít ỏi, song nó đã bước đầu khẳng định sự tồn tại của nền văn hóa này ở Cao Bằng. Sau khi nước Âu Lạc của An Dương Vương thất bại (năm 179 Trcn), nước ta rơi vào tay Triệu Đà, mở đầu thời kỳ Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam. Nhưng đối với miền đất trung tâm của “nước” Nam Cương cũ, phong kiến Trung Quốc không kiểm soát được trực tiếp, mà duy trì những châu “ki mi” (ràng buộc) do tù trưởng tự lập ở khu vực Cao Bằng. Từ thời Hán đến Lục triều, thư tịch Trung Quốc đều chép vùng này là của người Lý, Lão. Đến thời Đường (thế kỷ VI -IX), nhân dân vùng Tả Giang, Hữu Giang (tức là vùng Quảng Tây, Quảng Đông), vùng biên giới phía Bắc và Đông Bắc của Cao Bằng được gọi là Tây Nguyên Man, và cũng được gọi là người Lão. Các dòng họ có thế lực lớn cai quản vùng Cao Bằng lúc bấy giờ là họ Hoàng, Nùng, Chu, Vi ..., đều là họ của người Tày - Nùng. Theo Tân Đường thư, Tây Nguyên Man truyện, miền Hữu Giang thuộc phạm vi cai quản của họ Nùng. Theo đó, từ đầu thế kỷ IX, thế lực của họ Nùng ở Cao Bằng và miền Tả Giang rất mạnh, có các thủ lĩnh như Nùng Kim Ý, Nùng Kim Lặc, Nùng Kim Trừng, Nùng Trọng Vũ [11, 80]. Cao Bằng thực lục cho biết dòng họ Nùng là “người châu Quảng Uyên (nay là phủ Cao Bằng), nhà nối đời làm thủ lĩnh, có nhiều binh quyền, ở nước Việt từ đời Đường trở về đây, hùng cứ đất Quảng Nguyên, cùng với họ Hoàng, họ Chu thống lĩnh đến tám phần mười, mà họ Nùng lại hùng mạnh, cứ như tằm ăn rỗi, thôn tính dần dần hết”[3, 2]. Đến thế kỷ X, nhà Nam Hán phong Nùng Dân Phú làm thủ lĩnh mười châu ở Quảng Nguyên, sau đó nhà Tống phong chức Kiểm hiệu Tư không[10, 179]. Năm 1038, một nhà nước của tộc Nùng mang tên Trường Sinh đã ra đời do Nùng Tồn Phúc đứng đầu, đóng đô ở thành Nà Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An, Cao Bằng). Nhưng ngay sau đó, nhà nước này đã bị nhà Lý Nguyễn Thị Hải Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 17 - 22 19 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên tiêu diệt. Năm 1041, con của Tồn Phúc là Nùng Trí Cao lập lại nước Đại Lịch ở châu Thảng Do và sau đó lại liên kết với những người đồng tộc vùng Tả Giang (Quảng Tây) lập ra nhà nước Thiên Nam, lấy hiệu là Cảnh Thụy, cai quản vùng Cao Bằng và một bộ phận miền Tây của Quảng Tây. Nùng Trí Cao đã tiến hành một cuộc chiến tranh chống lại nhà Tống, làm chủ một khu vực rộng lớn từ Ung Châu (nay là vùng Nam Ninh, Quảng Tây) đến Quảng Châu (Quảng Đông). Nhưng cuối cùng, vì lực lượng chênh lệch, lại bị kẹp giữa hai vương triều phong kiến lớn Tống và Lý nên cuộc trỗi dậy của tộc Nùng bị thất bại. Song cho đến nay, các tộc Tày Nùng ở Việt Bắc và Choang (Quảng Tây – Trung Quốc) đều coi Nùng Trí Cao là anh hùng dân tộc. Người Tày vùng Cao Bằng vẫn còn lưu truyền rộng rãi những truyền thuyết về ông. Họ lập đền thờ ông ở Quảng Uyên, Hà Quảng và lớn nhất là đền Kỳ Sầm (Hòa An). Những sự kiện lịch sử nêu trên, xét về mặt cộng đồng tộc người, đã đánh dấu bước phát triển mới của các bộ tộc ngôn ngữ Tày Thái xưa, ý thức tộc người được củng cố ngày càng vững chắc. Sau cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao, triều đình Lý (Việt Nam) và Tống (Trung Quốc) đều tăng cường kiểm soát chặt chẽ vùng biên giới. Từ đây, biên giới chính trị đã từng bước chia cắt và phân hóa tộc người, hình thành bộ phận Choang ở Trung Quốc và bộ phận Tày ở Việt Nam. “BIẾN THỔ” - MỘT HÀNH TRÌNH LỊCH SỬ Hiện tượng “biến thổ” là một ví dụ điển hình cho quá trình hòa hợp tộc người. Hiện tượng này gắn liền với quá trình phát triển của tộc người Tày cũng như quá trình lịch sử dân tộc. Một số nhóm người của các tộc người khác như người Kinh, người Nùng, người Hoa vì một lý do nào đó đã tự nhận mình là tộc người Tày (tức Thổ). Họ ăn mặc và sinh hoạt văn hóa như người Tày nhưng vẫn giữ lại một số nét văn hóa của tộc người gốc. Người Tày Cao Bằng hiện nay có một lực lượng không nhỏ có nguồn gốc từ người Kinh. Quá trình “biến Thổ” diễn ra theo quá trình “Kinh già hoá Thổ”. Cao Bằng đã tiếp nhận dòng người Kinh từ dưới xuôi lên từ rất sớm, có thể bắt đầu từ thế kỷ XI, với sự kiện vua quan nhà Lý đem quân lên dẹp “loạn” Nùng Tồn Phúc và Nùng Trí Cao. Sau khi vua Lý Thái Tông lên đánh dẹp Nùng Tồn Phúc có lẽ đã để lại một vài người thân tín ở đây để “chiêu an vỗ về dân chúng”. Hiện nay, chưa có tài liệu thư tịch nào nói đến sự xuất hiện của người Kinh ở Cao Bằng thời Lý, nhưng theo tư liệu dân gian thì Nàng Cầm - vợ của Nùng Trí Cao là người Kinh, con một vị quan họ Trần trong triều Lý [10, 18-19]. Sau này, anh ruột của bà tham gia trong cuộc tiến công của Nùng Trí Cao sang đất Tống, ông đã hi sinh trong trận đánh ở Tổng Quỷ, nay vẫn còn đền thờ ở xã Cách Linh, huyện Phục Hoà. Sau đó là sự xuất hiện của ngôi chùa Viên Minh (chùa Đà Quận) gắn liền với sự kiện vua Lý gả công chúa cho Hộ quốc tướng quân Dương Tự Minh đã chứng tỏ dấu vết của người Việt ở vùng đất này. Tuy nhiên, dấu ấn của người Việt ghi lại ở Cao Bằng thời Lý không nhiều, nhưng sự giao thoa văn hoá Tày - Việt đã bắt đầu diễn ra. Phải từ thế kỷ XV- XVI, dòng người Kinh từ dưới xuôi lên, ở lại sinh sống ngày càng đông. Một môtip chung là chàng trai người Việt, lấy cô gái Tày, con cháu lớn dần chịu ảnh hưởng của văn hóa, phong tục tập quán người Tày do mẹ truyền dạy. Lâu dần, họ tự nhận mình là người Tày. Hiện nay, gia phả của các dòng họ đều phản ánh hiện tượng này, nhất là 10 họ phiên thần (vốn là con cháu các công thần triều Lê, được điều lên trấn ải biên cương sau đó được phân phong thế tập cai quản địa phương và nối đời giữ đất Cao Bằng, vốn từ miền xuôi lên về sau đó Tày hóa). Đó là họ: Bế Nguyễn (tức dòng dõi công tộc của bản triều), Bế Kim, Hoàng Ích, Nông Công, Nông Trí, Nông Hữu, Nguyễn, Tống Đình, Lương Đình, Đàm Vũ. Sau này, nhà Nguyễn đã đổi làm thổ ty, bãi bỏ lệ thế tập cai quản, nhưng cho hưởng chế độ miễn trừ lao dịch. Con cháu đến tuổi có đơn xin làm việc thì chuẩn cho, cấp học bổng cho họ học tập nghề văn võ rồi tuỳ tài mà bổ dụng. Lệ này được áp dụng từ thời Lê Sơ đến nhà Nguyễn. Trong số các dòng họ Tày kể trên, có "ba họ phiên thần": Bế Nguyễn, Bế Kim, Hoàng Ích gốc tích là người tỉnh Thanh Hoá, từ đời Lê di cư đến đó Nguyễn Thị Hải Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 17 - 22 20 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên [5, 2-4]. Ngoài những dòng họ phiên thần trên, còn nhiều người có nguồn gốc ở miền xuôi được vua cử lên Cao Bằng làm việc, hoặc đi dạy học, hoặc tìm đất sinh nhai, sau ở lại địa phương làm ăn với người Tày. Đặc biệt là con cháu của bề tôi nhà Mạc và những người phò giúp Tây Sơn hoặc dân tứ xứ tới buôn bán... Qua nhiều năm sinh sống tại địa phương trải mấy đời đều gọi là người biến thổ. Một ví dụ điển hình cho hiện tượng “Kinh già hóa thổ” là khu vực thành Nà Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, huyện Hòa An, Cao Bằng), vốn là trung tâm kinh tế, văn hóa và chính trị của Cao Bằng trong thời gian dài (trước thế kỷ XVII). Sau 85 năm đóng đô ở Cao Bình - Nà Lữ, năm 1677, nhà Mạc bị quân Lê - Trịnh đánh bại. Con cháu nhà Mạc phải đổi họ và phần lớn chạy đi nơi khác sinh sống như dòng họ Ma, Mạc ở Minh Tâm (Nguyên Bình), họ Mông ở Đức Hồng, Phong Châu (huyện Trùng Khánh), họ Ma ở Chí Thảo (Quảng Uyên) ... Một bộ phận nhỏ con cháu nhà Mạc lấy họ mẹ là họ Phạm ở lại sinh sống tại Nà Lữ. Lớp cư dân mới được hình thành chủ yếu quan quân nhà Lê - Trịnh. Gia phả dòng họ Hoàng ở Lam Sơn (Hồng Việt) và Nà Lữ (Hoàng Tung) ghi rõ: “Nguồn gốc ông tổ nguyên là trí thức ở Gia Miêu trang, thuộc huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hoa. Vào thời Lê triều, ông tổ đầu tiên của ta nhậm chức Quan trấn Vũ Định, được truyền đời thế tập mà cai quản. Về sau, nhân vì nhà Mạc, nhà Trịnh tranh giành nhau gây loạn, tổ tiên ta cụ Hoàng Triều Hoa, Hoàng Triều Ninh, phụng mệnh vua Lê lên Cao Bằng đánh dẹp nhà Mạc; đánh thắng được vua Lê phong đất ở Phúc Tăng làm Thái ấp, cho lấy dân 7 xã xung quanh vùng thái ấp làm binh đinh canh điền và phục dịch, vinh thăng tước Phúc Quận Công, chức Tổng trấn Cao Bằng. Cụ Hoa sáng nghiệp ở Phúc Tăng, cụ Ninh sáng nghiệp ở Nà Lữ”[4]. Cụ Hoàng Triều Ninh đã quản lĩnh đội quân ở lại Nà Lữ. Là những người lính, từng chiến đấu vào sinh ra tử nên tính cách của người dân Nà Lữ mạnh mẽ. Trong vùng Hòa An vẫn lưu truyền câu: “Anh hùng Na Lữ, hay chữ Phúc Tăng”. Những người lính ấy đã dựng nhà, lấy vợ người Tày và sinh con đẻ cái. Từ đó hình thành những dòng họ Tày gốc Kinh như họ Nguyễn Trọng gốc ở Thanh Hóa; họ Bùi, Đàm, Nguyễn Khánh ở Nam Định Vì “Kinh già hoá Thổ” nên họ thường dùng song ngữ Tày – Việt và dân quanh vùng vẫn gọi là “Keo pha Nà Lữ”. Ngày nay, khi nghiên cứu về hiện tượng, chúng tôi nhận thấy ba con đường chính hay gọi là ba nhóm người Việt đến Cao Bằng và trở thành người Tày (Thổ) là: Một là những quan chức người Việt được cử lên cai trị miền núi hoặc quân lính lên chinh chiến, đánh dẹp các cuộc nổi dậy ở miền núi sau phải lưu lại lâu dài. Họ mang theo vợ con, thân thuộc đi theo, chiêu dân lập ấp sau đã Tày hóa. Một bộ phận có chức có quyền, được phong là Phiên thần (Thổ ty), cha truyền con nối cai trị địa phương. Hai là do nguyên nhân tranh chấp giữa các thế lực phong kiến, một số thế lực người Việt đã dựa vào miền núi để xây dựng lực lượng cát cứ, về sau suy vi, dư đảng phải đổi tên họ, sống hòa hợp với cư dân địa phương, tiêu biểu là thế lực nhà Mạc thế kỷ XVII. Đây là giai đoạn mà hiện tượng “Kinh già hóa Thổ” diễn ra mạnh mẽ nhất. Ba là lực lượng nhân dân miền xuôi do loạn lạc, tránh sự áp bức bóc lột nặng nề của phong kiến, hoặc đi sơ tán lên miền núi kiếm ăn, buôn bán, dạy học lâu dần đã trở thành một bộ phận cũng địa phương hóa. Đây là lực lượng không lớn nhưng diễn ra thường xuyên. Hiện nay, nhiều vùng ở Cao Bằng hiện tượng “Kinh Tày hóa Thổ” diễn ra khá đậm nét, tiêu biểu nhất là vùng thung lũng Hòa An. Theo Tài liệu điều tra thành lập Khu tự trị Việt Bắc của Ủy ban Dân tộc Trung ương năm 1955 thì thôn Phương Tiên, xã Dân Chủ (huyện Hòa An) có 40 gia đình trong số 149 gia đình đã Tày hóa 8- 9 đời. Ngoài lực lượng người Kinh, người Tày ở Cao Bằng hiện nay còn có một bộ phận có nguồn gốc từ người Nùng, Ngạn, Hoa Quá trình biến Thổ của các tộc người này diễn ra rải rác, Nguyễn Thị Hải Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 17 - 22 21 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên không mạnh mẽ như tộc người Kinh. Trên thực tế, sau cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao (vào thế kỷ XI), nhiều người thuộc dòng họ Nùng đã chạy theo Nùng Trí Cao vào vùng Đặc Ma (Vân Nam, Trung Quốc) hoặc chạy trốn vào rừng hoặc đổi thành họ Nông để tránh sự truy sát của vương triều Tống. Có thể, từ tên gọi tộc họ đã chuyển hoá thành tộc danh để chỉ tộc người sinh sống trên địa bàn lãnh thổ họ Nùng trước kia (tức là Cao Bằng và một vài tỉnh Đông Bắc của nước ta). Sau sự biến Nùng Trí Cao, người Nùng đã hoà nhập vào cộng đồng Tày địa phương, trở thành những người Tày bản địa. Bởi hai tộc người Tày và Nùng có chung nguồn gốc lịch sử, chung hệ ngôn ngữ và có văn hoá về cơ bản giống nhau, nên rất dễ diễn ra quá trình cố kết tộc người. Tộc danh Nùng hiện nay là chỉ bộ phận người Choang ở các khu vực Tây và Tây Nam Quảng Tây, Trung Quốc như Bình Quả, Đô An, Mục Biên, Đức Bảo... và các vùng Đông Nam Vân Nam như Văn Sơn cùng một số vùng thuộc vùng biên giới Trung- Việt thuộc tỉnh Quảng Tây và Vân Nam. Tộc người này mới di cư vào nước ta khoảng 300 năm nay. Theo Cao Bằng tạp chí “ngoài người Nùng Mấn và Nùng Vảng là người bản địa vốn có, còn lại đều là loại hai ba trăm năm hoặc năm sáu mươi năm trước mới từ phương Bắc di cư xuống đây, ở lẫn lộn với người Thổ, người Nùng bản địa. Họ khai khẩn đất đai mà canh tác nộp thuế nên đều trở thành người Nùng bản địa”[5, 3]. Quá trình hòa hợp tộc người đó có thể diễn ra một cách tự nhiên, nhưng cũng có khi xuất phát từ những chính sách của nhà nước. Ví dụ, năm 1832, vua Minh Mệnh ra lệnh “đổi người Nùng Cao Bằng làm người Thổ. Trong dân 4 châu thuộc hạt Cao Bằng trước kia có chức được gọi là phụ đạo. Vua đã chuẩn cho các quan trong bộ bàn đổi gọi là người Nùng. Nhưng dân ấy cho rằng Nùng là người Trung Quốc xiêu giạt sang. Vậy xin cho tên khác để phân biệt. Quan tỉnh đem việc tâu lên. Vua bảo rằng: “Đấy cũng là một cơ hội biến người Di làm người Kinh, liền cho đổi gọi là người Thổ, vẫn phải nộp thuế bạc như cũ”[9, 448]. Tộc người Tày là cư dân bản địa, đã sinh sống lâu đời ở vùng đất Cao Bằng cũng như một số tỉnh miền núi phía Bắc. Song do điều kiện khách quan và chủ quan, ở Cao Bằng đã xuất hiện lớp cư dân Tày hóa từ các tộc người khác như Kinh, Nùng, Hoa bên cạnh bộ phận Tày gốc. Trên thực tế cũng phải thừa nhận rằng sức mạnh của nền văn hóa bản địa, của tộc người có dân số đông nhất ở Cao Bằng đã tạo ra sức đồng hóa mạnh mẽ các tộc người khác trong vùng. “Kinh già hóa Thổ” đã trở thành một hiện tượng độc đáo và diễn ra trong nhiều thế kỷ, mạnh mẽ nhất là thế kỷ XVII –XVIII. Quá trình này đã tác động không nhỏ tới đời sống kinh tế, văn hóa của tộc người cũng như của địa phương. Bên cạnh những nét văn hóa đặc trưng của tộc người đã xuất hiện những nét văn hóa mới. Đó là sản phẩm của quá trình giao thoa văn hóa Tày – Việt như sự xuất hiện của các ngôi chùa ở Cao Bằng, sự ra đời của chữ Nôm Tày, điệu hát Then.... Cộng đồng Tày Cao Bằng ngày nay, không có sự phân chia thành người bản địa hay đồng hóa, cùng nhau xây dựng văn hóa bản địa của tộc người và quê hương. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Trình Năng Chung, Hà Thị Quyết, Lý Thị Tiêu (2001), Phát hiện di tích thời đại đá ở Cao Bằng, trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2000, Viện Khảo cổ học, HN. [2]. Trình Năng Chung, Đào Quý Cảnh, Đàm Thị Ninh,(2004) Hang Ngườm Bốc (Cao Bằng), trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2003, Viện Khảo cổ học, HN. [3]. Nguyễn Hữu Cung (1810), Cao Bằng thực lục, bản dịch tại Thư viện tỉnh Cao Bằng, tr.2 [4]. Hoàng đường tộc phả, do ông Hoàng Triều Ân ở Lam Sơn, xã Hồng Việt, huyện Hòa An cung cấp [5]. Bế Huỳnh, Cao Bằng tạp chí nhất tập, Tư liệu Viện dân tộc học, KH: TLD.271. [6]. Lã Văn Lô (1963), “Xung quanh vấn đề Thục Phán An Dương Vương hay là truyền thuyết "Cẩu chúa cheng vùa" của đồng bào Tày”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 50. [7]. Lã Văn Lô, Lê Bình Sự, Lịch sử xã hội nguyên thủy của người Tày qua truyền thuyết “Pú Luông quân”, Tạp chí NCLS, số 65, năm 1964. [8]. Nguyễn Quang Ngọc, Vũ Văn Quân (Cb-2007), Địa chí Cổ Loa, Nxb Hà Nội. [9]. Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, tập III, Nxb GD, HN. [10]. Tỉnh uỷ Cao Bằng,Viện Sử học (1995), Nùng Trí Cao, Hội thảo khoa học, Nxb Hà Nội, HN. [11]. Trần Quốc Vượng, Đặng Nghiêm (1966), Vấn đề An Dương Vương và lịch sử dân tộc Tày ở Việt Nam, Thông báo khoa học Sử học, trường Đại học Tổng hợp, tập II. Nguyễn Thị Hải Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 84(08): 17 - 22 22 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên SUMMARY SEVERAL ASPECTS OF THE TAY ETHNIC ORIGIN IN CAO BANG PROVINCE Nguyen Thi Hai* College of Education - TNU The Tay ethnic people are indigenous inhabitants, who have lived for long-standing generations in Cao Bang, as well as in a few other provinces in the mountainous northern areas of Vietnam. For the objective and subjective reasons, however, there appeared new ethnical groups in Cao Bang, such as the Kinh, Nung, and Hoa. These new inhabitants were gradually converted to the Tay and coexisted with the Tay origin. “The old Kinh changes to the Tho” became an unique phenomenon, which remained for a long time and grew rapidly in the seventeenth and eighteenth centuries. The phenomenon had a great effect to the socio- economic life and culture of the minorities as well as the local areas, leading to the formation of new factors. Cao Bang became a typical centre of cultural interference between the Tay and Viet in the Viet Bac region. Key words: ethnic Tay, Cao Bang, An Duong Vuong, Culture, Tho ty * Tel: 0986938872; Email: nguyenthihai83@gmail.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbrief_32410_35864_382012153218vainetvenguongocnguoitay_438_2052778.pdf
Tài liệu liên quan