Tiểu luận Khái niệm bảo hiểm. bản chất và hình thức của bảo hiểm. tại sao nói bảo hiểm là trung gian tài chính

9. Quyết định 153/2003/QĐ - BTC của Bộ Tài chính về việc ban hành hệ thống chỉ tiêu giám sát doanh nghiệp bảo hiểm 10. Quyết định 175/2003/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003 đến năm 2010”

doc30 trang | Chia sẻ: hao_hao | Lượt xem: 6477 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Khái niệm bảo hiểm. bản chất và hình thức của bảo hiểm. tại sao nói bảo hiểm là trung gian tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP.HỒ CHÍ MINH KHOA ĐẠI HỌC VÀ SAU ĐẠI HỌC ************* TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ P2 ĐỀ TÀI: KHÁI NIỆM BẢO HIỂM? BẢN CHẤT VÀ HÌNH THỨC CỦA BẢO HIỂM? TẠI SAO NÓI BẢO HIỂM LÀ TRUNG GIAN TÀI CHÍNH? Giáo viên hướng dẫn: Võ Thị Thu Hằng Nhóm sinh viên thực hiện: 11 1. Nguyễn Thị Hương 11030073 2. Lê Thị Hà 3. Lê Thị Hằng 4. Nguyễn Thị Trang 5. Lê Thị Hà Thanh Hóa, tháng 5 năm 2012. LỜI MỞ ĐẦU Kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Việt Nam bước sang một thời kỳ phát triển mới. Sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đã đem lại nhiều thành tựu kinh tế - xã hội to lớn cho đất nước. Nhiều lĩnh vực kinh tế được đẩy mạnh, đời sống nhân dân cũng ngày càng được nâng cao. Trong quá trình phát triển đó, bảo hiểm đã và đang chứng minh được vai trò tích cực của mình đối với hoạt động sản xuất - kinh doanh nói riêng cũng như với cuộc sống nói chung. Đồng thời, bảo hiểm cũng đã trở thành một ngành kinh doanh giàu tiềm năng phát triển, thu hút rất nhiều lao động. Ngành bảo hiểm nước ta mới thực sự bắt đầu phát triển từ cách đây khoảng 10 năm khi thế độc quyền kinh doanh bảo hiểm được xoá bỏ theo nghị định 100 CP được Chính phủ ban hành ngày 18/12/1993. Kể từ đó đến nay, ngành bảo hiểm đã có những bước tiến đáng kể và nếu được phát triển đúng hướng, ngành sẽ góp phần rất tích cực vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong thế kỷ mới. Việc tìm hiểu thực trạng tình hình kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam để từ đó, đưa ra được những giải pháp nhằm phát triển ngành bảo hiểm trong giai đoạn tới là rất cần thiết. Nhận thức rõ tầm quan trọng đó, em xin chọn đề tài: “Khái niệm bảo hiểm? bản chất và hình thức của bảo hiểm? Tại sao nói bảo hiểm là trung gian tài chính” làm bài tiểu luận của mình, với nội dung: Chương I: Cơ sở lý luận về bảo hiểm . Chương II: Bảo hiểm là một trung gian tài chính. Chương III: Kết luận. CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN. 1.KHÁI NIỆM BẢO HIỂM. Mặc dù bảo hiểm đã có nguồn gốc và lịch sử phát triển khá lâu đời, nhưng do tính đặc thù của loại hình dịch vụ này, cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về bảo hiểm. Theo các chuyên gia bảo hiểm, một định nghĩa đầy đủ và thích hợp cho bảo hiểm phải bao gồm việc hình thành một quĩ tiền tệ (quĩ bảo hiểm), sự hoán chuyển rủi ro và phải bao gồm cả sự kết hợp số đông các đơn vị đối tượng riêng lẻ, độc lập chịu cùng một rủi ro như nhau tạo thành một nhóm tương tác. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về bảo hiểm. Theo Dennis Kessler: Bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít. Theo Monique Gaullier: Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là người được bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện mong muốn để cho mình hoặc để cho người thứ ba trong trường hợp xảy ra rủi ro sẽ nhận được một khoản đền bù các tổn thất được trả bởi một bên khác: đó là người bảo hiểm. Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê. Tập đoàn bảo hiểm AIG của Mỹ định nghĩa: Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế này, một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho công ty bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo hiểm. Các định nghĩa trên hoặc quá thiên về góc độ xã hội, hoặc quá thiên về góc độ kinh tế, kĩ thuật, ít nhiều cũng còn thiếu sót, chưa phải là một khái niệm bao quát, hoàn chỉnh. Nói một cách chính xác, bảo hiểm là một dịch vụ tài chính, dựa trên cơ sở tính toán khoa học, áp dụng biện pháp huy động nhiều người, nhiều đơn vị cùng tham gia xây dựng quỹ bảo hiểm bằng tiền để bồi thường thiệt hại về tài chính do tài sản hoặc tính mạng của người được bảo hiểm gặp phải tai nạn rủi ro bất ngờ. Tập đoàn bảo hiểm AIG (Mỹ) định nghĩa: “Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế này, một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho công ty bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo hiểm”. Theo Luật kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam (ban hành ngày 09/12/2000) thì “kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm." Như vậy, để có một khái niệm chung nhất về bảo hiểm, chúng ta có thể đưa ra định nghĩa: “Bảo hiểm là một sự cam kết bồi thường của người bảo hiểm với người được bảo hiểm về những thiệt hại, mất mát của đối tượng bảo hiểm do một rủi ro đã thoả thuận gây ra, với điều kiện người được bảo hiểm đã thuê bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm đó và nộp một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm”. 2. BẢN CHẤT CỦA BẢO HIỂM. Bằng sự đóng góp của số đông người vào một quĩ chung, khi có rủi ro, quĩ sẽ có đủ khả năng trang trải và bù đắp cho những tổn thất của số ít. Mỗi cá nhân hay đơn vị chỉ cần đóng góp một khoản tiền trích từ thu nhập cho các công ty bảo hiểm. Khi tham gia một nghiệp vụ bảo hiểm nào đó, nếu gặp tổn thất do rủi ro được bảo hiểm gây ra, người được bảo hiểm sẽ được bồi thường. Khoản tiền bồi thường này được lấy từ số phí mà tất cả những người tham gia bảo hiểm đã nộp. Tất nhiên, chỉ có một số người tham gia bảo hiểm gặp tổn thất, còn những người không gặp tổn thất sẽ mất không số phí bảo hiểm. Như vậy, có thể thấy, thực chất của bảo hiểm là việc phân chia tổn thất của một hoặc một số người cho tất cả những người tham gia bảo hiểm cùng chịu. Do đó, một nghiệp vụ bảo hiểm muốn tiến hành được phải có nhiều người tham gia, tức là, bảo hiểm chỉ hoạt động được trên cơ sở luật số đông (the law of large numbers), càng nhiều người tham gia thì xác suất xảy ra rủi ro đối với mỗi người càng nhỏ và bảo hiểm càng có lãi. Với hình thức số đông bù cho số ít người bị thiệt hại, tổ chức bảo hiểm sẽ giúp giảm thiểu thiệt hại kinh tế của từng cá nhân hay đơn vị khi gặp rủi ro, tiết kiệm được nguồn chi cho ngân sách nhà nước. Như vậy, thực chất mối quan hệ trong hoạt động bảo hiểm không chỉ là mối quan hệ giữa người bảo hiểm và người được bảo hiểm, mà suy rộng ra, nó là tổng thể các mối quan hệ giữa những người được bảo hiểm trong cộng đồng xoay quanh việc hình thành và sử dụng quĩ bảo hiểm. Quĩ bảo hiểm được tạo lập thông qua việc huy động phí bảo hiểm, số người tham gia càng đông thì quĩ càng lớn. Quĩ được sử dụng trước hết và chủ yếu là để bù đắp những tổn thất cho người được bảo hiểm, không làm ảnh hưởng đến sự liên tục của đời sống xã hội và hoạt động sản xuất - kinh doanh trong nền kinh tế. Ngoài ra, quĩ còn được dùng để trang trải chi phí, tạo nên nguồn vốn đầu tư cho xã hội. Bảo hiểm thực chất là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội dưới hình thái giá trị, nhằm hình thành và sử dụng quĩ bảo hiểm cho mục đích bù đắp tổn thất do rủi ro bất ngờ xảy ra với người được bảo hiểm, đảm bảo quá trình tái sản xuất được thường xuyên, liên tục. 3. CHỨC NĂNG CỦA BẢO HIỂM. Xét ở góc độ chủ thể tham gia bảo hiểm Cung cấp sự bảo vệ chống lại những tổn thất tài chính: Bằng việc nhận chi trả thiệt hại khi xảy ra biến cố rủi ro, nhà bảo hiểm đã cung cấp sự đảm bảo chắc chắn về mặt tài chính, giúp người được bảo hiểm và gia đình họ bù đắp được những tổn thất to lớn do hậu quả của rủi ro mang lại. Chia sẻ rủi ro: Bằng việc đóng phí bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm đã đặt mình vào hoàn cảnh rủi ro và sẵn sàng chia sẻ tổn thất mất mát mà người khác đang gánh chịu. Xét ở góc độ toàn xã hội - Cải thiện năng lực và hiệu quả làm việc của toàn xã hội - Góp phần phát triển kinh tế. 4. ĐẶC ĐIỂM CỦA BẢO HIỂM. Bảo hiểm là một loại dịch vụ tài chính đặc biệt - Doanh thu trước, chi phí sau, do đó luôn tồn tại một lượng tiền nhàn rỗi để đầu tư - Sản phẩm vô hình: là sự đảm bảo về mặt tài chính trước rủi ro, chỉ có cam kết giữa nhà bảo hiểm với người tham gia bảo hiểm, trong đó người tham gia bảo hiểm cam kết nộp phí, còn nhà bảo hiểm cam kết bồi thường khi có sự cố bảo hiểm xảy ra Bảo hiểm vừa mang tính bồi hoàn và không bồi hoàn Trong thời gian được bảo hiểm nếu không có rủi ro ảnh hưởng đến người mua bảo hiểm thì người tham gia bảo hiểm không được bồi thường. Ngược lại bên bảo hiểm sẽ bồi thường trong phạm vi bảo hiểm. Như vậy quan hệ giữa người bảo hiểm, người được bảo hiểm và người mua bảo hiểm vừa mang tính bồi hoàn vừa mang tính không bồi hoàn - Số đông bù số ít + chỉ bồi thường cho người gặp rủi ro + Thể hiện tính chất: xã hội, nhân đạo và cộng đồng 5. VAI TRÒ CỦA BẢO HIỂM. Đảm bảo bảo toàn vốn kinh doanh và ổn định đời sống xã hội - Khi gặp rủi ro ảnh hưởng rõ nhất là ảnh hưởng về tài chính, sản xuất kinh doanh bị ngừng trệ, bảo hiểm góp phần bảo toàn vốn để tiếp tục kinh doanh - Ổn định đời sống xã hội: đảm bảo về mặt tài chính, khắc phục khó khăn, nhất là trong trường hợp bảo hiểm cho người là lao động chính trong gia đình Góp phần phòng tránh, hạn chế tổn thất - Bảo hiểm sẽ tuyên truyền, lắp đặt thiết bị phòng tránh rủi ro, tổ chức, theo dõi - Xây dựng bệnh viện, tham gia nghiên cứu đề tài để hạn chế rủi ro, tổn thất Góp phần cung ứng vốn cho nền kinh tế Bảo hiểm luôn tồn tại một lượng tiền nhàn rỗi, đầu tư trở lại nền kinh tế Thúc đẩy sự phát triển kinh tế - Do lượng vốn nhàn rỗi đầu tư, đồng thời khoản bồi thường của bảo hiểm giúp các doanh nghiệp nhanh chóng phục hồi sản xuất - Kìm hãm sự phát triển kinh tế trong trường hợp: + Sự đổ vỡ của Doanh nghiệp bảo hiểm sẽ làm giảm GDP, đồng thời ảnh hưởng đến nhiều đối tượng trong nền kinh tế 6. CÁC HÌNH THỨC CỦA BẢO HIỂM. 1.6.1.Bảo hiểm kinh doanh 1.6.1.1.Khái niệm bảo hiểm kinh doanh Trên góc độ tài chính, bảo hiểm kinh doanh là một hoạt động dịch vụ tài chính nhằm phân phối lại những tổn thất khi rủi ro xảy ra. Trên góc độ pháp lý, bảo hiểm kinh doanh thực chất là một bản cam kết mà một bên đồng ý bồi thường cho bên kia khi gặp rủi ro nếu bên kia đóng phí bảo hiểm. Do đó, bảo hiểm kinh doanh là các quan hệ kinh tế gắn liền với việc huy động các nguồn tài chính thông qua sự đóng góp của các tổ chức và cá nhân tham gia bảo hiểm. 1.6.1.2.Đặc điểm của bảo hiểm thương mại - Người tham gia bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm; - Là một biện pháp hiệu quả nhất cho nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và an toàn với đời sống cộng đồng. 1.6.1.3. Nguyên tắc của bảo hiểm thương mại Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia bảo hiểm cũng như doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm; Doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh; Doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động tuân theo luật pháp quy định cho doanh nghiệp nói chung, và cho doanh nghiệp bảo hiểm nói riêng; Doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động theo nguyên tắc lấy số đông bù số ít; Doanh nghiệp bảo hiểm phải tuân thủ nguyên tắc an toàn tài chính. 1.6.1.4.Hình thức của bảo hiểm thương mại Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm Bảo hiểm tài sản: Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu; Bảo hiểm thân tàu, thuyền, ô tô,...; Bảo hiểm hỏa hoạn. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự; Bảo hiểm con người: Bảo hiểm nhân thọ; Bảo hiểm phi nhân thọ. Căn cứ vào tính chất hoạt động Bảo hiểm tự nguyện; Bảo hiểm bắt buộc. 1.6.1.5. Cơ chế, phân phối và sử dụng quỹ bảo hiểm thương mại Cơ chế hình thành quỹ bảo hiểm thương mại Vốn kinh doanh; Doanh thu và thu nhập. Phân phối và sử dụng quỹ bảo hiểm thương mại Ký quỹ; Quỹ dự trữ bắt buộc; Bồi thường tổn thất và trả tiền bảo hiểm; Dự phòng nghiệp vụ; Nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước; Chế độ phân phối lợi nhuận. 1.6.2.Bảo hiểm xã hội 1.6.2.1 Khái niệm bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm xã hội là loại hình bảo hiểm do nhà nước tổ chức và quản lý nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật chất ổn định cuộc sống của người lao động và gia đình họ khi gặp những rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động. 1.6.2.2. Hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội Theo khuyến nghị của Tổ chức Lao động Quốc tế ILO tại Công ước Giơnevơ năm 1952 Chăm sóc y tế; Trợ cấp ốm đau; Trợ cấp thất nghiệp; Trợ cấp tuổi già; Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; Trợ cấp gia đình; Trợ cấp sinh sản; Trợ cấp tàn phế; Trợ cấp cho người bị mất người nuôi dưỡng. Ở Việt Nam, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam thực hiện 6 chế độ Bảo hiểm thất nghiệp; Trợ cấp ốm đau; Trợ cấp thai sản; Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; Trợ cấp hưu trí; Trợ cấp tử tuất. 1.6.2.3.Cơ chế hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội Người sử dụng lao động đóng góp; Người lao động đóng góp một phần tiền lương của mình;thu từ các đối tượng tham gia BHXH tự nguyện Nhà nước đóng góp và hỗ trợ. Sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội Chi các khoản trợ cấp và chi phí cho người tham gia bảo hiểm xã hội trong các trường hợp: Gặp phải các biến cố đã quy định trong chế độ bảo hiểm xã hội; Người được bảo hiểm là thành viên của bảo hiểm xã hội; Đóng bảo hiểm xã hội đều đặn; Chi khác: chi quản lý, nộp bảo hiểm y tế theo quy định, chi hoa hồng đại lý, v.v... 1.6.3. Bảo hiểm y tế 1.6.3.1 .Khái niệm bảo hiểm y tế Bảo hiểm y tế là các quan hệ kinh tế gắn liền với việc huy động các nguồn tài lực từ sự đóng góp của những người tham gia bảo hiểm để hình thành quỹ bảo hiểm, và sử dụng quỹ để thanh toán các chi phí khám chữa bệnh cho người được bảo hiểm khi ốm đau. 1.6.3.2. Đặc điểm của bảo hiểm y tế Vừa mang tính chất bồi hoàn, vừa mang tính chất không bồi hoàn; Quá trình phân phối quỹ bảo hiểm y tế gắn chặt với chức năng giám đốc bằng đồng tiền đối với mục đích tạo lập và sử dụng quỹ. 1.6.3.3 Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm y tế Vì quyền lợi của người tham gia bảo hiểm và bảo đảm an toàn sức khỏe cho cộng đồng; Chỉ bảo hiểm cho những rủi ro không lường trước được, không bảo hiểm những rủi ro chắc chắn sẽ xảy ra hoặc đã xảy ra; Hoạt động dựa trên nguyên tắc số đông bù số ít. 1.6.3.4. Đối tượng của bảo hiểm y tế Đối tượng của bảo hiểm y tế là sức khỏe của người được bảo hiểm (rủi ro ốm đau, bệnh tật,...). 1.6.3.5. Hình thức của bảo hiểm y tế Bảo hiểm y tế bắt buộc; Bảo hiểm y tế tự nguyện. 1.6.3.6. Phạm vi của bảo hiểm y tế Bảo hiểm y tế là một chính sách xã hội của mọi quốc gia trên thế giới do chính phủ tổ chức thực hiện, nhằm huy động sự đóng góp của mọi tầng lớp trong xã hội để thanh toán chi phí y tế cho người tham gia bảo hiểm; Người tham gia bảo hiểm y tế khi gặp rủi ro về sức khỏe được thanh toán chi phí khám chữa bệnh với nhiều mức khác nhau tại các cơ sở y tế; Một số loại bệnh mà người đến khám bệnh được ngân sách nhà nước đài thọ theo quy định; cơ quan bảo hiểm y tế không phải chi trả trong trường hợp này. 1.6.3.7. Cơ chế hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm y tế Hình thành quỹ bảo hiểm y tế Ngân sách nhà nước cấp; Tài trợ của các tổ chức xã hội, từ thiện; Phí bảo hiểm y tế của người tham gia bảo hiểm, đối với người nghỉ hưu, mất sức: do bảo hiểm xã hội đóng góp; Phí bảo hiểm của tổ chức sử dụng người lao động. Sử dụng quỹ bảo hiểm y tế Thanh toán chi phí y tế cho người tham gia bảo hiểm theo định mức; Chi dự trữ, dự phòng; Chi cho đề phòng hạn chế tổn thất; Chi phí quản lý; Chi trợ giúp cho hoạt động nâng cấp các cơ sở y tế. CHƯƠNG II: BẢO HIỂM LÀ MỘT TRUNG GIAN TÀI CHÍNH 2.1 BẢO HIỂM LÀ MỘT TÀI CHÍNH TRUNG GIAN. 2.1.1. TÀI CHÍNH TRUNG GIAN. Khái niệm tài chính trung gian. Các tổ chức tài chính trung gian là các tổ chức tài chính thực hiện chức năng dẫn vốn từ người có vốn tới người cần vốn. Tuy nhiên không như dạng tài chính trực tiếp người cần vốn và người có vốn trao đổi trực tiếp với nhau ở thị trường tài chính, các trung gian tài chính thực hiện sự dẫn vốn thông qua một cầu nối nghĩa là người người cần vốn muốn có được vốn phải thông qua người thứ ba, đó chính là các tổ chức tài gián tiếp hay các tổ chức tài chính trung gian. Các tổ chức tài chính trung gian có thể là các ngân hàng, các hiệp hội cho vay, các liên hiệp tín dụng, cáccông ty bảo hiểm, các công ty tài chính. 1.2. Vai trò của các trung gian tài chính Các trung gian tài chính ngày càng quan trọng trong hệ thống tài chính. Các tổ chức này đã thực sự đem lại lợi ích trọn vẹn và đầy đủ cho người có vốn, cần vốn, cho cả nền kinh tế xã hội và bản thân nó. Vai trò của nó thể hiện thông qua việc nó góp phần giảm bớt các chi phí phát sinh khi thực hiện đầu tư vốn hoặc huy động vốn cho mỗi cá nhân và toàn bộ nền kinh tế; đáp ứng đủ và kịp thời yêu cầu giữa người cần vốn và người có vốn cần đầu tư sinh lãi; thực hiện hiệu quả các dịch vụ tư vấn, môi giới, tài trợ, trợ cấp và phòng ngừa rủi ro;… Để có thể thấy được vai trò của các trung gian tài chính, cần tìm hiểu những hạn chế của các thị trường tài chính trong việc lưu chuyển vốn, qua đó thấy được các trung gian tài chính đã làm như thế nào để khắc phục những hạn chế đó để trở thành kênh tài chính quan trọng của nền kinh tế. Người được bảo hiểm. Người được bảo hiểm bao gồm mọi công dân Việt Nam từ 16 đến 70 tuổi và những người trên 70 tuổi đã được bảo hiểm theo nghiệp vụ này ít nhất từ năm 69 tuổi. DNBH không nhận bảo hiểm các đối tượng sau: - Người bị bệnh thần kinh. - Người bị tàn phế hoặc thương tật vĩnh viễn từ 50% trở lên. - Người đang trong thời gian điều trị bệnh tật, tai nạn. Tuy nhiên việc loại trừ này không áp dụng đối với những người được bảo hiểm nghiệp vụ này liên tục từ năm thứ hai trở đi. Người được bảo hiểm ở nghiệp vụ bảo hiểm này vẫn được tham gia và hưởng quyền lợi của các nghiệp vụ bảo hiểm khác. DNBH nhận bảo hiểm trường hợp tử vong của người được bảo hiểm trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.  Người được bảo hiểm sẽ được bồi thường cho khoản chi phí cần thiết để sửa chữa các thiệt hại đối với tài sản được bảo hiểm. Với phần lớn các trường hợp, chi phí phát sinh là khoản chi phí cho việc thay thế, cho việc sửa chữa hoặc tổn thất từng phần. Giá trị của từng phần còn sử dụng được và giá trị còn lại của nguyên vật liệu được bán thanh lý sẽ được đối trừ vào phần thanh toán bồi thường. Thêm vào đó, chi phí của việc tháo dỡ, vận chuyển và lắp đặt lại cũng được bảo hiểm. Công ty bảo hiểm cũng có thể bồi thường cho cả chi phí làm thêm cần thiết, chi phí chuyển phát nhanh, chi phí vận chuyển hàng không, chi phí dọn dẹp hiện trường và các loại chi phí bổ sung khác được nêu trong hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên, chi phí sửa lỗi có thể phát sinh mà không có sự kiện tổn thất xảy ra thì sẽ không được bảo hiểm.  Theo nguyên lý chung về bảo hiểm, Người được bảo hiểm cũng phải chịu một phần tổn thất. Trong bất kì vụ tổn thất nào, việc chi trả bồi thường cũng tính đến mức miễn thường. Việc này nhằm mục đích nâng cao trách nhiệm của Người được bảo hiểm trong việc phòng ngừa tổn thất hoặc thiệt hại và chia sẻ với Công ty bảo hiểm một phần nhỏ chi phí bồi thường khi mà chi phí quản lý dường như không nằm trong bất kỳ khoản mục nào của chi bồi thường. Theo nguyên tắc, có thể thỏa thuận để thay đổi mức miễn thường cho thời gian xây dựng và lắp đặt, cho thời gian kiểm tra, thời gian bảo hiểm trách nhiệm với lỗi, cho thời gian bảo hiểm hàng hóa trách nhiệm với bên thứ ba. Trong mọi trường hợp, giới hạn bồi thường là số tiền bảo hiểm, trừ khi giới hạn bồi thường cho từng vụ tổn thất và/hoặc giới hạn bồi thường tổng cộng cho tất cả các vụ trong suốt thời hạn bảo hiểm đã được thống nhất.  Người được bảo hiểm là người mà tính mạng và sức khỏe của người đó là đối tượng của Hợp đồng bảo hiểm. Tên Người được bảo hiểm được thể hiện trong Trang hợp đồng. Người được bảo hiểm có thể nhưng không nhất thiết là Bên mua bảo hiểm của Hợp đồng bảo hiểm. Vào lúc được cấp Hợp đồng bảo hiểm hoặc vào Ngày hiệu lực hợp đồng, Người được bảo hiểm phải đang cư trú tại nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và trong độ tuổi từ 18 Tuổi đến 65 Tuổi. Người được bảo hiểm và Bên mua bảo hiểm phải có quan hệ có thể được bảo hiểm tuân theo yêu cầu của Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm hiện hành. Ngoài trách nhiệm nộp phí bảo hiểm đầy đủ và đúng hạn theo thỏa thuận của HĐBH, khi rủi ro được bảo hiểm xảy ra, để được doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) đồng ý thực hiện nghĩa vụ, người được bảo hiểm hoặc đại diện người được bảo hiểm cần phải: - Đối với các trường hợp nằm viện, di chuyển y tế cấp cứu, hồi hương y tế cấp cứu và hồi hương thi hài. Người được bảo hiểm phải liên hệ với điểm thường trực của công ty cứu trợ khẩn cấp (do DNBH chỉ định, đã được in trên thẻ bảo hiểm) để thông báo các chủ tiết về đơn bảo hiểm của mình trước khi phải nằm viện, di chuyển y tế cấp cứu, hồi hương thi hài. Điểm thường trực này sẽ thông báo cho người được bảo hiểm biết liệu nơi cung cấp các dịch vụ trên có chấp nhận và có thể thu xếp giải quyết được hay không. Đây là điều kiện tiên quyết để ràng buộc trách nhiệm của DNBH trong đơn bảo hiểm này, trừ khi người được bảo hiểm ở nơi xa xôi hẻo lánh không thể liên hệ trước với điểm thường trực được và nếu trì hoãn có thể sẽ dẫn đến kết quả người được bảo hiểm bị thiệt mạng hay bị ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe sau này. Trong trường hợp đó, người được bảo hiểm sẽ trực tiếp trả toàn bộ những chi phí phát sinh, và sẽ yêu cầu DNBH hoàn trả sau; - Khi DNBH yêu cầu, người được bảo hiểm phải cung cấp cho DNBH mọi thông tin cần thiết để xác định sự cố xảy ra đối với người được bảo hiểm cũng như phạm vi trách nhiệm bồi thường của người bảo hiểm. - Khi DNBH yêu cầu, người được bảo hiểm sẽ ủy quyền cho DNBH thu thập các thông tin được coi là cần thiết từ người thứ ba (bác sỹ, nha sỹ, các cơ sở y tế,...) và giải phóng họ khỏi trách nhiệm phải giữ kín các thông tin; - Khi DNBH yêu cầu, người được bảo hiểm sẽ bắt buộc phải để bác sỹ do người bảo hiểm chỉ định tiến hành kiểm tra sức khỏe; - DNBH sẽ không có trách nhiệm giải quyết bồi thường nếu những điều kiện nói trên bị vi phạm. Thông báo ngay cho người bảo hiểm hoặc đại lý của họ đến giám định Nếu người bảo hiểm không có đại lý địa phương, người được bảo hiểm có thể yêu cầu một giám định viên có đăng ký tại địa phương giám định. Trừ khi đã có một thỏa thuận khác, người bảo hiểm có quyền từ chối giải quyết một vụ khiếu nại không được chứng minh bằng Biên bản giám định (survey report). Tiến hành mọi biện pháp có thể nhằm phòng tránh hoặc giảm nhẹ tổn thất. Nếu không tiến hành các biện pháp phòng tránh này, người bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường cho các mất mát, hư hỏng. Tự mình hoặc hướng dẫn người bảo hiểm tham gia cứu hộ và bảo vệ hàng. Bất kỳ biện pháp nào do người bảo hiểm hay người được bảo hiểm tiến hành đều không được coi là dấu hiệu khước từ hay chấp nhận việc từ bỏ hàng. Bảo lưu đầy đủ quyền khiếu nại cho người bảo hiểm đối với người vận chuyển hay người thứ ba: -         Khiếu nại người vận chuyển, chính quyền cảng về bất kỳ kiện hàng nào bị mất. -         Yêu cầu đại diện người vận chuyển tham gia chứng kiến giám định ngay khi phát hiện hàng có hiện tượng mất mát hoặc hư hỏng. Qua giám định nếu thấy có tổn thất phải lập hồ sơ khiếu nại. -         Nếu tổn thất thuộc loại khó phát hiện vào thời gian nhận hàng, gửi Thư dự kháng(Letter of reservation) cho đại diện người vận chuyển trong vòng 03 ngày kể từ ngày nhận hàng. Nếu người được bảo hiểm không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ trên, người bảo hiểm có quyền từ chối các khiếu nại thuộc trách nhiệm người vận chuyển hay người thứ ba. Nộp đủ giấy tờ chứng minh Để đòi người bảo hiểm bồi thường, tùy trường hợp giấy tờ thường có: -         Bản chính đơn hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm. -         Bản chính hoặc bản sao hóa đơn thương mại, kèm tờ kê chi tiết hàng và/hoặc phiếu ghi trọng lượng. -         Bản chính vận đơn và/hoặc hợp đồng vận chuyển các loại -         Biên bản giám định và chứng từ khác chỉ rõ mức độ tổn thất. -         Giấy biên nhận hoặc giấy chứng nhận tàu giao hàng và phiếu ghi trọng lượng tại nơi nhận cuối cùng. -         Bản sao báo cáo hải sự và/hoặc trích sao nhật ký hàng hải. -         Công văn, thư từ trao đổi đối với người vận chuyển và các bên khác về trách nhiệm của họ đối với tổn thất. -         Thư đòi bồi thường. Người bị rủi ro. Theo nhiều nhà phân tích, rủi ro chỉ phát sinh khi có một sự không chắc chắn về mất mát sẽ xảy ra (uncertainty about the occurrence of a loss). Với khái niệm về rủi ro này, nếu xác suất mất mát là 0 hoặc 1, thì không có rủi ro. Ví dụ, nếu một người nhảy từ tòa nhà cao 30 tầng xuống mặt đất thì cầm chắc cái chết. Mặc dù có chuyện mất mát về nhân mạng nhưng đây không phải là rủi ro vì hậu quả đã thấy trước. Tuy nhiên, nếu một cascadeur nhảy từ lầu cao xuống đất bằng dù thì người này có thể chết hay không chết. Trong trường hợp này có sự không chắc chắn về hậu quả, tức là có rủi ro trong hành động của người diễn viên đóng thế này. Nói đến rủi ro không thể bỏ qua khái niệm về xác suất (probability) hay là khả năng xảy ra mất mát. Xác suất khách quan (objective probability) - còn gọi là xác suất tiên nghiệm (a priori probability) được xác định bằng phương pháp diễn dịch (deduction). Ví dụ như đồng tiền sấp hay ngửa thì xác suất của nó là 50%. Tuy nhiên , xác suất khách quan có lúc không thể xác định bằng tư duy logic. Chẳng hạn như không thể suy diễn rằng xác suất của một người đàn ông lái xe hơi có gây tai nạn hay không trong năm tới là 50% bởi còn nhiều yếu tố liên quan khác như độ tuổi, xe cũ hay mới... Tuy nhiên, bằng cách phân tích kỹ lưỡng những trường hợp tai nạn xe hơi trước đây, người ta có thể ước tính xác suất tai nạn theo lối suy luận quy nạp (inductive reasoning). Ngoài xác suất khách quan, có thể kể thêm xác suất chủ quan (subjective probability) là ước tính của từng cá nhân đối với khả năng xảy ra mất mát. Ví dụ như nếu có 1 triệu vé số bán ra chỉ có 1 người trúng thì xác suất khách quan là 1 phần triệu. Mặc dù vậy vẫn có nhiều người mua nhiều vé số vì xác suất chủ quan của họ cao hơn. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến xác suất chủ quan như tuổi, giới tính, trình độ học vấn và cả óc mê tín dị đoan... Để hiểu thêm về rủi ro cần phân biệt sự khác nhau giữa hiểm họa (peril) và mối nguy (hazard). Hiểm họa được hiểu như là nguyên nhân dẫn đến mất mát. Ví dụ một ngôi nhà bị cháy thì hỏa hoạn là hiểm họa đã gây ra thiệt hại đối với ngôi nhà; hai xe hơi đụng nhau thì việc đụng xe là hiểm họa làm cho xe bị hư hỏng. Trong khi đó, mối nguy được xem là tác nhân làm tăng khả năng xảy ra mất mát. Nếu như hỏa hoạn được xem là hiểm họa thì dầu lửa trong khu vực hỏa hoạn được xem là mối nguy. Để tiện phân tích, người ta chia mối nguy thành ba loại: mối nguy vật chất (physical hazard), mối nguy đạo đức (moral hazard) và mối nguy tinh thần (morale hazard). Mối nguy vật chất là tình trạng vật chất yếu kém làm tăng khả năng xảy ra mất mát. Tình trạng đường sá ở Việt Nam ta là ví dụ sống động về mối nguy vật chất. Một số nơi đèn đường không đủ sáng, có ổ gà, việc phân luồng phân tuyến cho xe chạy không hợp lý là những mối nguy làm cho tai nạn xảy ra thường xuyên hơn. Mối  nguy đạo đức là sự không trung thực của một cá nhân nào đó làm tăng khả năng xảy ra mất mát. Ví dụ có người mua bảo hiểm cho căn nhà của mình rồi gây hỏa hoạn để lấy tiền bồi thường, hay một người biết mình bị ung thư nhưng vẫn khai là sức khỏe của mình tốt để mua bảo hiểm và được bồi thường. Mối nguy tinh thần là sự bất cẩn hay thờ ơ của một cá nhân dẫn đến mất mát vì người này chủ quan cho rằng mình đã mua bảo hiểm. Ví dụ một người cứ nghĩ mình đã có bảo hiểm nên cứ phóng xe ào ào giữa phố xá đông người mặc dù thỉnh thoảng trong người có hơi men. Việc xác định mối nguy đạo đức và mối nguy tinh thần có ý nghĩa quan trọng, nhất là đối với các hãng bảo hiểm khi ký hợp đồng với khách hàng. Để tránh mối nguy đạo đức, họ phải thiết lập một hệ thống phân loại và đánh giá rủi ro trước khi bảo hiểm (underwriting) một cách hiệu quả. Mối nguy tinh thần thì khó xác định hơn nên có khi công ty bảo hiểm không chịu bồi thường toàn bộ mà người mua bảo hiểm cũng phải chịu trách nhiệm chi trả trong một hạn mức quy định (deductible) hoặc cùng công ty bảo hiểm thanh toán một phần chi phí (co-insurance). Đến đây thì độc giả có thể thông cảm với công ty bảo hiểm vì họ phải đối đầu với rủi ro ngay trước khi ký hợp đồng với khách hàng. Tuy nhiên, các công ty bảo hiểm nắm rõ rủi ro hơn khách hàng nên “phần thắng” bao giờ cũng thuộc về họ. Từ đó chúng ta rút ra được bài học: trong cuộc sống hay trên thương trường, ai hiểu biết về rủi ro nhiều hơn sẽ trở thành người chiến thắng. Trung gian thông qua hoạt động cho vay bảo hiểm là một là một trong những tổ chức tài chính có nhiệm vụ cung cấp các hợp đồng bảo hiểm cho các hộ gia đình và doanh nghiệp nhằm giảm bớt rủi ro ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất và cuộc sống của họ. + Tài sản nợ: hợp đồng bảo hiểm + Tài sản có: tiền được ký quỹ tại ngân hàng, tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, bất động sản, trái phiếu, cổ phiếu, khoản cho vay. 2.2. BẢO HIỂM LÀ MỘT TÀI CHÍNH TÀI CHỦ QUÁ TRÌNH TẠO LẬP QUỸ BẢO HIỂM. PHÍ BẢO HIỂM. Phí bảo hiểm là khoản tiền bên mua bảo hiểm nộp định kỳ cho doanh nghiệp bảo hiểm để được bảo hiểm theo thời hạn và phương thức do các bên thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Nghĩa là, phải có một sự cân đối giữa nguồn vào và nguồn ra của quỹ BHXH. Chức năng của bảo hiểm xã hội là đảm bảo an toàn về thu nhập cho người lao động và để thực hiện chức năng này, đến lượt nó, BHXH phải tự bảo vệ mình trước nguy cơ mất an toàn về tài chính. Để tạo sự an toàn này, về nguyên tắc tổng số tiền hình thành nên quỹ phải bằng tổng số tiền chi ra từ quỹ. Tuy nhiên, không phải cứ đồng tiền nào vào quỹ là được dùng để chi trả ngay ( nếu vậy đã không tồn tại cái gọi là quỹ BHXH ) mà phải sau một khoảng thời gian nhất định, đôi khi tương đối dài ( như đối với chế độ hưu trí ) số tiền ấy mới được chi ra, cùng thời gian ấy đồng tiền luôn biến động và có thể bị giảm giá trị do lạm phát, điều này đặt ra yêu cầu quỹ BHXH không chỉ phải bảo đảm về mặt số lượng mà còn phải bảo toàn về mặt giá trị. Điều đó lý giải tại sao trong điều 40 Điều lệ BHXH nước ta quy định “ Quỹ bảo hiểm xã hội được thực hiện các biện pháp để bảo tồn giá trị và tăng trưởng theo quy định của chính phủ ”. Tính tích luỹ. Quỹ BHXH là “ của để dành ” của người lao động phòng khi ốm đau, tuổi già... và đó là công sức đóng góp của cả quá trình lao động của người lao động. Trong quỹ BHXH luôn tồn tại một lượng tiền tạm thời nhàn rỗi ở một thời điểm hiện tại để chi trả trong tương lai, khi người lao động có đủ các điều kiện cần thiết để được hưởng trợ cấp ( chẳng hạn như về thời gian và mức độ đóng góp BHXH ). Số lượng tiền trong quỹ có thể được tăng lên bởi sự đóng góp đều đặn của các bên tham gia và bởi thực hiện các biện pháp tăng trưởng quỹ. Quỹ BHXH vừa mang tính hoàn trả vừa mang tính không hoàn trả. Tính hoàn trả thể hiện ở chỗ, mục đích của việc thiết lập quỹ BHXH là để chi trả trợ cấp cho người lao động khi họ không may gặp các rủi ro dẫn đến mất hay giảm thhu nhập. Do đó, người lao động là đối tượng đóng góp đồng thời cũng là đối tượng nhận trợ cấp. Tuy nhiên, thời gian, chế độ và mức trợ cấp của mỗi người sẽ khác nhau, điều đó phụ thuộc vào những rủi ro mà họ gặp phải cũng như mức độ đóng góp và thời gian tham gia BHXH. Tính không hoàn trả thể hiện ở chỗ, mặc dù nguyên tắc của BHXH là có đóng- có hưởng, đóng ít- hưởng ít, đóng nhiều- hưởng nhiều nhưng như vậy không có nghĩa là những người có mức đóng góp như nhau sẽ chắc chắn đưọc hưởng một khoản trợ cấp như nhau. Trong thực tế, cùng tham gia BHXH nhưng có người được hưởng nhiều lần, có người được hưởng ít lần ( với chế độ ốm đau), thậm trí không được hưởng (chế độ thai sản). Những câu hỏi cơ bản nhất liên quan đến tài chính BHXH là: Ai đóng góp, đóng góp bao nhiêu và dựa trên cơ sở nào. Nói chung, các nguồn kinh phí của một hệ thống BHXH có thể liệt kê như sau: Sự tham gia của Nhà nước, sự tham gia của chính quyền các cấp ( chính quyền tỉnh và địa phương ); những khoản thuế đã được nhắm trước hoặc phân bổ cho BHXH; Đóng góp của người tham gia bảo hiểm xã hội, của chủ sử dụng lao động; Thu nhập từ đầu tư và các khoản thu nhập khác. Trong đó nguồn thu nhập chủ yếu của quỹ BHXH là từ sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và nhà nước. Thông thường, để đảm bảo nguyên tắc có đóng có hưởng, tất cả những người lao động tham gia BHXH đều có nghĩa vụ đóng góp bảo hiểm xã hội, tuy nhiên việc xác định đối tượng tham gia ở mỗi quốc gia có khác nhau. Ban đầu, chương trình BHXH không có xu hướng bảo hiểm cho những người tự tạo việc làm, lao động nông nghiệp, người thất nghiệp và người chưa có việc làm. BHXH cũng không bảo hiểm cho những người làm việc bán thời gian và lao động trong các doanh nghiệp nhỏ. Ở khu vực Châu Á- Thái bình dương, các quốc gia công nghiệp (Ôxtraylia, Hồng Kông, Nhật bản và Niu Di Lân) và các nước cộng hoà thuộc Liên xô (cũ) đang mở rộng sự bao phủ hệ thống an toàn xã hội đến toàn bộ dân chúng một cách toàn diện hơn. Trong khi đó, các nước còn lại chủ yếu tập trung các hệ thống của họ vào khu vực sử dụng lao động một cách chính quy tại các trung tâm đô thị trong khi làm ngơ một bộ phận đáng kể dân chúng đang nằm ngoài sự bảo trợ. Nguyên nhân của sự bỏ qua này là do sự khó khăn về mặt hành chính trong việc thúc đẩy sự mở rộng bắt buộc của họ cũng như không có khả năng về tài chính của các doanh nghiệp nhỏ để đóng góp vào hệ thống này. Ở Giooc Đan Ni, thậm chí những trường hợp ban đầu được tham gia hệ thống an toàn xã hội nhưng sau đó lại bị bỏ qua như trường hợp của các nông dân, ngư dân, người tự lao động ( làm tư). Ở các nước khác, một số nằm ngoài đã được cho phép tham gia vào chương trình trên cơ sở tự nguyện. b, Phương thức đóng góp Đóng góp theo mức cố định: Đối tượng tham gia đóng một mức cố định không phụ thuộc vào mức thu nhập của họ, mặc dù vậy vẫn có có thể có những tỷ lệ đóng góp khác nhau ( ví dụ tỷ lệ đóng góp của người trẻ khác với của người già, của nam khác với nữ...) nhưng trong phạm vi một nhóm người thì mức đóng góp sẽ như nhau và không gắn với thu nhập của họ và khi đó mức hưởng cũng sẽ là một khoản được ấn định trước. Đóng góp gắn với thu nhập: Theo phương thức này, mức đóng góp sẽ gắn với thu nhập của từng cá nhân và được ấn định bằng cách sử dụng cách tính phần trăm đơn giản so với thu nhập, khi hưởng trợ cấp thì mức trợ cấp cũng được căn cứ vào mức thu nhập khi còn làm việc của người lao động. Phương thức này được áp dụng phổ biến nhất trên thế giới. Đóng góp theo nhóm tiền công: Trong từng nhóm tiền công có các mức tiền công và đối với mỗi mức tiền công sẽ có một mức đóng góp tương ứng theo mức độ luỹ tiến. Nhóm tiền công cũng có thể được sử dụng như là một công cụ thúc đẩy việc phân phối lại nguồn quỹ giữa các thành viên. Đóng góp theo tỷ lệ đặc biệt: Một số nước dựa vào mức đóng góp theo một tỷ lệ đặc biệt dựa vào sự khác biệt giữa các công việc của người lao động. Chẳng hạn trong chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, tỷ lệ đóng góp thay đổi tuỳ theo ngành công nghiệp và mức độ rủi ro của mỗi ngành nghề. c, Xác định mức đóng góp. Nói chung, xác định mức đóng góp BHXH dựa trên một cơ chế tài chính là cân đối giữa thu và chi. Có thể xác định mức đóng góp và, trên cơ sở đó xác định mức hưởng hoặc cũng có thể xác định mức hưởng trước rồi xác định mức đóng góp. Cho dù thực hiện theo cách nào thì vẫn phải đảm bảo sự cân đối giữa tổng số tiền hình thành quỹvà tổng số tiền được chi ra từ quỹ. Hệ thống “ trợ cấp xác định ” và hệ thống “ đóng góp xác định ”: - Hệ thống “ đóng góp xác định ”: Hệ thống này xác định người lao động nên giành bao nhiêu tiền cho tuổi già của mình chứ không phải là họ sẽ xứng đáng được nhận trợ cấp là bao nhiêu. Ưu điểm của hệ thống này là nó không phải chịu bất cứ sự mất cân bằng nào về tài chính và không bao giờ phải tăng mức đóng góp lên cả. Nhưng nhược điểm của nó là do có rất nhiều rủi ro nên một số hoặc tất cả mọi người lao động có thể bị chấm dứt được nhận trợ cấp tuổi già, mức trợ cấp này thấp hơn rất nhiều so với mục tiêu đã đặt ra. - Hệ thống “ trợ cấp xác định ”: Ưu điểm chính của hệ thống này là nó cho phép người lao động được bảo đảm về tài chính ở mức độ cao hơn ở tuổi già, tuy nhiên nhược điểm của hệ thống này là đôi lúc gặp phải rắc rối về tài chính mà vấn đề này cần thiết phải tăng mức đóng góp và hoặc giảm mức trợ cấp. Quốc gia nào áp dụng ?. Hệ thống bảo hiểm xã hội mà có chế độ tuổi già ở hầu hết các nước (trong đó có Việt Nam) là hệ thống bảo hiểm chế độ trợ cấp xác định. Trong khi đó hệ thống tiết kiệm hưu trí bắt buộc ở Chile và Quỹ dự trữ quốc gia ở các nước Malayxia và Singapore lại là những ví dụ điển hình về hệ thống bảo hiểm có mức đóng góp xác định. Nhiệm vụ của những người chịu trách nhiệm thực hiện là phải xác định được chính xác những khoản chi phí chính đáng trong tương lai sẽ chi ra từ quỹ nhưng điều đó dường như không thể bởi những thay đổi không tiên đoán trước được sẽ xảy ra. Do những ước tính là không thể thực hiện được nên khi xác định mức đóng góp người ta phải xác định thêm một lượng đủ để dự trữ cho các sự cố phát sinh làm tăng thêm các chi phí trong tương lai. Hơn nữa, việc xác định mức trợ cấp lại không hoàn toàn mang tính kỹ thuật mà còn liên quan đến nhiều vấn đề kinh tế xã hội ( nghĩa là việc xác định mối quan hệ giữa đóng và hưởng chỉ mang tính chất tương đối ). Khi xác định mức đóng góp BHXH phải đảm bảo nguyên tắc: Phải cân bằng Thu - Chi. Lấy số đông bù số ít. Có dự phòng. Khoản tiền đóng góp của những người tham gia BHXH cho quỹ BHXH được gọi là phí BHXH : Ptp = Ptt + Phc + Pdp Trong đó: Ptp: phí toàn phần. Ptt: phí thuần tuý. Phc: chi phí hành chính. Pdp: phần an toàn. Phí thuần tuý được dùng để chi trả trợ cấp các chế độ BHXH và đó là phần mà những người lao động tham gia BHXH sẽ được nhận khi họ có đủ các điều kiện hưởng trợ cấp. Đây là phần chiếm tỷ trọng lớn nhất trong quỹ BHXH việc xác định phí thuần tuý liên quan trực tiếp đến mức trợ cấp BHXH. Thông thường, mức trợ cấp càng cao thì phí thuần tuý cũng được tăng lên và ngược lại, tuy nhiên điều này cũng không phải luôn đúng khi số lượng những đóng góp vào quỹ là lớn và chỉ có số ít những người hưởng trợ cấp. Chi phí hành chính được dùng để trang trải cho các hoạt động sự nghiệp. Những người thực hiện BHXH suy cho cùng họ không thể uống nước lã mà sống ( thậm chí nước lã cũng mất tiền ) và thêm vào đó là các khoản chi phí để xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng... Nguồn tài chính tài trợ cho các chi phí này là từ quỹ BHXH. Chi phí hành chính bị ảnh hưởng bởi cả thời gian thành lập và độ lớn của tổ chức BHXH. Các tổ chức BHXH mới thành lập thường có chi phí hành chính cao hơn bởi những hệ thống này còn đang trong giai đoạn học hỏi để hoạt động có hiệu quả. Những hệ thống BHXH nhỏ có chi phí hành chính cao hơn gắn với mức đóng góp bởi vì những hệ thống này không thể thực hiện lợi thế của tiết kiệm do mở rộng quy mô do những chức năng hành chính được chuyên môn hoá cao hơn và khả năng dàn trải chi phí cố định đối với chi phí hành chính ra cho nhiều người tham gia. Phần an toàn được thiết lập để đối phó với những biến cố xảy ra trong tương lai và được dùng tới khi mức trợ cấp vượt quá so với dự tính. QUÁ TRÌNH SỬ DỤNG VÀ PHÂN PHỐI QUỸ BẢO HIỂM RỦI RO TRẢ NGƯỜI RỦI RO TRẢ LÃI ĐỊNH KỲ THAM GIA BẢO HIỂM C¸c c«ng ty b¶o hiÓm huy ®éng vèn b»ng c¸c b¸n c¸c hîp ®ång b¶o hiÓm vµ ph¶i thùc hiÖn thanh to¸n cho nh÷ng ng­êi ®­îc b¶o hiÓm khi nh÷ng ®iÒu quy ®Þnh trong hîp ®ång x¶y ra. V× vËy viÖc sö dông vèn cña c¸c c«ng ty b¶o hiÓm t­¬ng ®èi ®a d¹ng vµ phøc t¹p: *) NghiÖp vô chi tr¶ b¶o hiÓm: ®Ó t¹o ®­îc ch÷ tÝn trong kinh doanh b¶o hiÓm viÖc chi tr¶ b¶o hiÓm ®óng chÕ ®é, ®óng thêi h¹n lu«n lµ yÕu tè hµng ®Çu. §èi víi c¸c c«ng ty BHNT viÖc chi tr¶ cã tÝnh chÊt dµi h¹n vµ t­¬ng ®èi æn ®Þnh, ngo¹i trõ 1 sè rñi ro ph¸t sinh. Trong n¨m 2002 ®· cã nhiÒu hîp ®ång BHNT ®¸o h¹n céng víi nh÷ng rñi ro ®èi víi kh¸ch hµng, tæng sè tiÒn chi tr¶ cña c¸c c«ng ty BHNT B¶o ViÖt lµ 150 tû ®ång. §èi víi lÜnh vùc BHPNT, viÖc chi tr¶ diÔn ra kh¸ th­êng xuyªn vµ kh«ng æn ®Þnh. T×nh h×nh tæn thÊt x¶y ra trong n¨m 2002 kh«ng cã biÕn ®éng lín so víi n¨m 2001, tæng sè tiÒn båi th­êng c¶ n¨m 2002 kho¶ng 1.200 tû ®ång, chiÕm 37% tæng doanh thu phÝ b¶o hiÓm. *) NghiÖp vô ®Çu t­: C¸c c«ng ty b¶o hiÓm lµ 1 kªnh huy ®éng vèn kh«ng thÓ thiÕu cña nÒn kinh tÕ vµ hiÖn ®ang ®­îc khai th¸c mét c¸ch hiÖu qu¶ ë nhiÒu n­íc. Tæng kÕt n¨m 2002 cho thÊy c¬ cÊu ®Çu t­ cña c¸c c«ng ty b¶o hiÓm kh¸ ®a d¹ng vµ ®¶m b¶o c¸c nguyªn t¾c ®Çu t­ lµ: ®¶m b¶o an toµn cho quü dù phßng, danh môc ®Çu t­ cã kh¶ n¨ng sinh lêi, c«ng cô ®Çu t­ ph¶i cã kh¶ n¨ng thanh kho¶n cao. Danh môc ®Çu t­ cho thÊy t¹i ViÖt Nam mèi quan hÖ gi÷a ng©n hµng vµ c¸c c«ng ty b¶o hiÓm rÊt g¾n bã v× cã ®Õn 52,9% sè vèn nhµn rçi cña c¸c c«ng ty ®­îc göi t¹i c¸c ng©n hµng. C¸c kho¶n môc ®Çu t­ kh¸c lµ: gãp vèn liªn doanh: 7.2%, ®Çu t­ bÊt ®éng s¶n 6.8%, cho vay trùc tiÕp 4.7%, ®Çu t­ tr¸i phiÕu 29.2%. Cïng víi B¶o ViÖt, sù tham gia ®Çu t­ trë l¹i nÒn kinh tÕ cña c¸c c«ng ty b¶o hiÓm ®· gãp phÇn ®¸ng kÓ vµo viÖc sím h×nh thµnh thÞ tr­êng vèn ë ViÖt Nam. Tèc ®é t¨ng tr­ëng vèn ®Çu t­ trë l¹i nÒn kinh tÕ cña c¸c c«ng ty b¶o hiÓm kh¸ nhanh, trong giai ®o¹n tõ 1996-2002 kho¶ng 125,3%/ n¨m lµm cho thÞ tr­êng vèn thªm s«i ®éng: Tốc độ tăng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế của các doanh nghiệp bảo hiểm(%) 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 9.6491 45.578 67.834 64.012 65.775 512.1 112.16 Ho¹t ®éng ®Çu t­ tµi chÝnh ®· t¹o nªn phÇn lín lîi nhuËn cho c¸c doanh nghiÖp b¶o hiÓm vµ trë thµnh x­¬ng sèng n©ng ®ì cho c¸c doanh nghiÖp b¶o hiÓm. N¨m 2002, B¶o ViÖt tham gia ®Çu t­ vµo dù ¸n nhµ m¸y xi m¨ng Th¨ng Long t¹i Hoµnh Bå, Qu¶ng Ninh víi tæng sè vèn ®Çu t­ xÊp xØ 350 triÖu USD víi t­ c¸ch lµ cæ ®«ng s¸ng lËp gãp 30% vèn chñ së h÷u. Ngoµi ra cã thÓ kÓ tíi mét sè ho¹t ®éng ®Çu t­ cña c¸c doanh nghiÖp b¶o hiÓm kh¸c nh­ gãp vèn vµo quü hç trî ®Çu t­ quèc gia, ng©n hµng th­¬ng m¹i cæ phÇn ¸ ch©u, khu vui ch¬i gi¶i trÝ d­íi n­íc Hå T©y. HiÖn nay, tæng nguån dù phßng cña c¸c doanh nghiÖp b¶o hiÓm nh©n thä cã thÓ ®Çu t­ 6000 tû ®ång. §¸nh gi¸ mét c¸ch tæng quan, BHTM ViÖt Nam trong n¨m 2002 cã møc t¨ng tr­ëng kho¶ng 48,5%. N¨m 2003, møc t¨ng BHNT dù kiÕn kho¶ng 50%, møc t¨ng chung cña thÞ tr­êng b¶o hiÓm ViÖt Nam dù kiÕn ë møc 38% so víi tæng phÝ víi tæng phÝ b¶o hiÓm trªn 10.590 tû ®ång (b¨ng 1,8% GDP n¨m 2003). CHƯƠNG III: KẾT LUẬN Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là Người được bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm nhằm thực hiện mong muốn để cho mình hoặc để cho một người thứ 3 nào đó trong trường hợp xảy ra rủi ro sẽ được bồi thường hoặc được một khoản tiền bảo hiểm trả bởi một bên khác: đó là Người bảo hiểm. Hoạt động bảo hiểm tổn tại trong nền kinh tế xã hội như là một tất yếu khách quan. Nó được coi là một trong những phương thức hữu hiệu nhất nhằm góp phần xử lý các rủi ro luôn tồn tại trong cuộc sống của con người. Thực chất bảo hiểm là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội dưới hình thái giá trị nhằm hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm cho mục đích bù đắp tổn thất do các rủi ro gây ra, đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được thường xuyên và liên tục. Trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế xã hội, Bảo hiểm đóng vai trò của một công cụ an toàn. Bên cạnh việc góp phần bù đắp tổn thất qua hoạt động bồi thường, bảo hiểm còn tác động nâng cao ý thức đề phòng, hạn chế rủi ro, tổn thất cho mọi thành viên trong xã hội. Trong hệ thống tài chính quốc gia, Bảo hiểm còn đóng vai trò của một trung gian tài chính, góp phần tập trung và tích tụ vốn, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng. Đáp ứng nhu cầu đảm bảo cho các rủi ro khác nhau, bảo hiểm cũng có nhiều loại hình đa dạng và khác nhau về đặc điểm kinh tế kỹ thuật, về pháp lý và về phương thức quản lý TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bảo hiểm trong kinh doanh, TS. Hoàng Văn Châu, TS. Vũ Sĩ Tuấn, TS. Nguyễn Như Tiến, NXB Khoa học kỹ thuật, 2002 2. Bảo hiểm - nguyên tắc và thực hành, TS. David Bland, NXB Tài chính, 1998. 3. Giáo trình bảo hiểm, PGS.TS Hồ Sĩ Hà (chủ biên), NXB Thống kê, 2000. 4. Nghị định 100/1993/NĐ - CP của Chính phủ về hoạt động kinh doanh bảo hiểm 5. Luật kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10 6. Bảo hiểm và thị trường chứng khoán (Tạp chí Tài chính - số 11/2002) 7. Thông tư 71/2001/TT - BTC của Bộ Tài chính qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm 8. Nghị định 77/2003/ NĐ - CP của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính 9. Quyết định 153/2003/QĐ - BTC của Bộ Tài chính về việc ban hành hệ thống chỉ tiêu giám sát doanh nghiệp bảo hiểm 10. Quyết định 175/2003/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003 đến năm 2010” 11. Website: tailieu.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu_luan_copy_2911.doc
Tài liệu liên quan