Tài liệu về vi phạm hành chính

A. MỞ ĐẦU Vi phạm hành chính cũng như mọi vi phạm pháp luật khác đều là những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội , xâm hại đến những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ . Có thể thấy hiện nay những vấn đề vi phạm hành chính về đất đai , về bảo vệ môi trường , các loại thuế đang là vấn đề cấp thiết, tuy chưa đến mức nguy hiểm là tội phạm nhưng nó đang diễn ra ở khắp mọi nơi, hàng ngày, hàng giờ, không những gây khó khăn cho quản lý nhà nước , mà còn là nguyên nhân của những tranh chấp, mâu thuẫn gay gắt trong nội bộ nhân dân và xã hội; nhiều khi chuyển hoá thành vụ việc hình sự, thành điểm nóng, thậm chí trở thành vấn đề chính trị. Về mặt thực tiễn, do chủ quan, coi thường những vi phạm nhỏ nên công tác quản lí nhà nước ở địa phương xử lý không kiên quyết,còn buông lỏng , thiếu nghiêm minh và chưa kịp thời dẫn đến tình trạng coi thường pháp luật, vi phạm ngày càng tràn lan, khó kiểm soát, gây bức xức trong nhân dân. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu về vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực đời sống góp phần lập lại trật tự kỷ cương, phòng, chống vi phạm, tăng cường quản lý nhà nước về đất đai thực sự có ý nghĩa cấp bách cả về lý luận cũng như thực tiễn đặt ra và cũng xuất phát từ những yêu cầu bức xúc về lý luận và thực tiễn nêu trên. nhóm tôi lựa chọn đề tài "Vi phạm hành chính " để nghiên cứu, nhằm góp phần tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về những vi phạm hành chính ,bảo vệ trật tự , an ninh xã hội , đảm bảo cho quá trình đổi mới đất nước được thành công

doc23 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2072 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu về vi phạm hành chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHỦ ĐỀ: VI PHẠM HÀNH CHÍNH A.    MỞ ĐẦU   Vi phạm hành chính cũng như mọi vi phạm pháp luật khác đều là những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội , xâm hại đến những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ . Có thể thấy hiện  nay những vấn đề vi phạm hành chính về đất đai , về bảo vệ môi trường , các loại thuế .. đang là vấn đề cấp thiết,  tuy chưa đến mức nguy hiểm là tội phạm nhưng nó đang  diễn ra ở khắp mọi nơi, hàng ngày, hàng giờ, không những gây khó khăn cho quản lý nhà nước , mà còn là nguyên nhân của những tranh chấp, mâu thuẫn gay gắt trong nội bộ nhân dân và xã hội; nhiều khi chuyển hoá thành vụ việc hình sự, thành điểm nóng, thậm chí trở thành vấn đề chính trị. Về mặt thực tiễn, do chủ quan, coi thường những vi phạm nhỏ nên công tác quản lí nhà nước ở địa phương  xử lý không kiên quyết,còn buông lỏng , thiếu nghiêm minh và chưa kịp thời dẫn đến tình trạng coi thường pháp luật, vi phạm ngày càng tràn lan, khó kiểm soát, gây bức xức trong nhân dân. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu về vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực đời sống  góp phần lập lại trật tự kỷ cương, phòng, chống vi phạm, tăng cường quản lý nhà nước về đất đai thực sự có ý nghĩa cấp bách cả về lý luận cũng như thực tiễn đặt ra  và cũng xuất phát từ những yêu cầu bức xúc về lý luận và thực tiễn nêu trên.  nhóm tôi  lựa chọn đề tài "Vi phạm hành chính " để nghiên cứu, nhằm góp phần tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về những vi phạm hành chính ,bảo vệ trật tự , an ninh xã hội ,  đảm bảo cho quá trình đổi mới đất nước được thành công .  B.NỘI DUNG I , Khái niệm vi phạm pháp luật      Vi phạm pháp luật là một loại sự kiện pháp lý đặc biệt. Trong mọi xã hội có giai cấp nào vi phạm pháp luật cũng bị các nhà làm luật coi là hành vi trái xã hội và bất hợp pháp. Đã co nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm vi phạm pháp luật được đưa ra, nhưng khái quát lại chung ta có thể đưa ra khái niệm như sau: “ Vi phạm pháp luật là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các lợi ích được bảo về bằng ngành luật tương ứng do người có năng lực trách nhiệm pháp lý và đủ tuổi chịu trách nhiệm pháp lý thực hiện một cách có lỗi.” II, Các đặc điểm cơ bản của vi phạm pháp luật      Có nhiều loại vi phạm pháp luật khác nhau nhưng tựu chung lại tất cả đều co những đặc điểm sau:  1.  Vi phạm pháp luật luôn là một hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội và được con người thực hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động. Ý tưởng, tư tưởng chưa thể hiện thành hành vi bị pháp luật cấm thì chưa thể gọi là vi phạm pháp luật (theo phép duy vật biện chứng). Trong giai đoạn Việt Nam đang xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay, việc giáo dục nâng cao nhận thức của công dân về đặc điểm này của vi phạm pháp luật là rất bổ ích và cần thiết. Từ đó, công dân có thể tiếp cận vấn đề trên ba bình diện chính: - Về mặt lịch sử, quan điểm chỉ được phép truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi mà không được truy cứu trách nhiệm đối với quan điểm, tư tưởng, đạo đức, cách suy nghĩ của con người đã được nói đến từ thế kỉ XVIII bởi một đại diện tiêu biểu của chủ nghĩa không tưởng, luật gia người Pháp S.Monteskio đã từng viết: “…các đạo luật nhất thiết chỉ được trừng phạt những hành vi bên ngoài”. - Về mặt triết học, sang thế kỉ XIX, nhà luật học thiên tài người Đức C. Mark đã cho rằng: “Không ai có thể bị tống giam vào tù…trên cơ sở tư cách đạo đức, trên cơ sở các quan điểm chính trị và tôn giáo của mình” và ông khẳng định: “Các đạo luật chống lại khuynh hướng, các đạo luật lấy tiêu chí chính không phải là những hành vi, mà là cách suy nghĩ của con người, điều đó-chẳng có gì hơn, mà chẳng qua chỉ là các chế tài đích thực của tình trạng vô pháp luật”. - Về mặt pháp luật, nhân loại tiến bộ và cộng đồng quốc tế đã thống nhất đi đến một luận điểm thừa nhận hành vi được con người thực hiện một cách có ý thức và có ý chí trong thực tế khách quan thì nó mới bị nhà làm luật coi là vi phạm pháp luật. 2. Vi phạm pháp luật phải là hành vi trái pháp luật vì bằng hành động (hoặc không hành động) nó đã xâm phạm đến các quy định tương ứng (các lợi ích được pháp luật bảo vệ) mà nhà làm luật điều chỉnh trong từng ngành luật cụ thể tức là vi phạm điều cấm được quy định trong luật. Biết được đặc điểm thứ hai của vi phạm pháp luật sẽ giúp cho công dân hiểu mình được làm những gì và không được làm những gì, tránh được “những cái chết” do sự thiếu hiểu biết của mình. 3. Vi phạm pháp luật phải là hành vi được thực hiện bởi người có năng lực trách nhiệ pháp lý. Dưới góc đọ khoa học có thể hiểu: người có năng lực pháp lý là người tại thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật cấm ở trong trạng thái bình thường và hoàn toàn có khả năng nhận thức được đầy đủ tính chất thực tế và tính chất pháp lý của hành vi do mình thực hiện, cũng như khả năng điều khiển được đầy đủ hành vi đó. 4. Vi phạm pháp luật phải là hành vi do người đủ tuổi chịu trách nhiệm pháp lý thực hiện. Dưới góc độ khoa học có thể hiểu người dủ tuổi chịu trách nhiệm pháp lý là người mà tại thời điểm phạm tội đã đạt đến độ tuổi do ngành luật tương ứng quy định để có thể có khả năng nhận thức được đầy đủ ích chất thực tế và tích chất pháp lý của hành vi do mình thực hiện, cũng như có khả năng điều khiển được đầy đủ hành vi đó.  III, Vi phạm hành chính 1.      Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân hay tổ chức thực hiện một cách vô ý hay cố ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là hình sự và theo quy định của vi phạm pháp luật bị xử phạt hành chính. Hành vi vi phạm hành chính được xác định là hành vi vi phạm mà cá nhân hoặc tổ chức khi vi phạm do lỗi cố ý hay vô ý đều được xác định là vi phạm hành chính. Vi phạm hành chính có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn so với tội hình sự .Vi phạm hành chính khác với tội vi phạm hình sự ở tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm . Tính cất nguy hiểm của hành vi phụ thuộc vào khả năng gây thiệt hại của hành vi.Nếu khả năng này lớn thì tính nguy hiểm của hành vi cao và ngược lại mức độ nguy hiểm của hành vi phụ thuộc vào quy mô vi phạm và thiệt hại thực tế đã xảy ra 2.        - vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính không chỉ do luật mà còn do văn bản dưới luật điều chỉnh và chủ yếu thuộc thẩm quyền xử lý của cơ quan nhà nước và theo thủ tục hành chính. Trong thực tế số lượng vi phạm hành chính thường xuyên xảy ra ở các lĩnh vực của đời sống xã hội và tác hại của nó cũng rất lớn . Ví dụ : Do chấp hành luật lệ giao thông không nghiêm nên hàng ngày trên các quốc lộ thường xuyên xảy ra do các hành vi vi phạm luật lệ giao thông dẫn đến mức độ thiệt hại về người và phương tiện rất lớn. Mặc dù vi phạm hành chính rất đa dạng nhưng cũng có đặc điểm.     Về chủ thể của vi phạm hành chính :     Chủ  thể  của vi phạm hành chính là tội phạm có thể cùng là cá nhân thực hiện vi phạm pháp luật. Hành vi trái pháp luật có lỗi mới là vi phạm pháp luật, vì vậy, chủ thể của vi phạm pháp luật phải là người có năng lực hành vi. Năng lực hành vi là khả năng của chủ thể, khả năng này được nhà nước thừa nhận, bằng các hành vi của mình thực hiện trên thực tế các quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý, tức là tham gia vào các quan hệ pháp luật. Năng lực hành vi trách nhiệm pháp lý của con người phụ thuộc vào độ tuổi, tình trạng sức khoẻ (có bị bệnh làm mất hoặc hạn chế khả năng nhận thức về hành vi của mình hay không) và tuỳ theo từng loại trách nhiệm pháp lý mà được pháp luật qui định cụ thể. Theo quy định của pháp luật hành chính và hình sự nước ta, chủ thể vi phạm hành chính và tội phạm đều phải đạt độ tuổi từ đủ 14 tuổi trở lên mà trí tuệ phát triển bình thường. Theo quy định tại Điều 6 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ bị xử phạt đối với những vi phạm hành chính thực hiện do cố ý. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra. Tương tự như vậy, Bộ luật hình sự năm 1999 của n-ớc ta cũng quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại Điều 12 như sau:    1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.    2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Từ những vấn đề trình bày ở trên, chúng ta có thể nhận thấy chủ thể - cá nhân vi phạm hành chính và tội phạm có chung độ tuổi chịu trách nhiệm về hành vi do mình gây ra. Việc quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hành chính và hình sự thể hiện chính sách hành chính và hình sự nhân đạo của nhà nước ta đối với người phạm tội ở tuổi chưa thành niên.     Dấu hiệu pháp lý của hành vi VPHC   Gồm 4 dấu hiệu pháp lý của VPHC: -  Dấu hiệu trong mặt khách quan. -  Dấu hiệu trong mặt chủ quan. -  Dấu hiệu về chủ thể. -  Dấu hiệu về khách thể. + Dấu hiệu trong mặt khách quan:    -  Dấu hiệu bắt buộc là hành vi VPHC (là hành vi xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước và đã bị pháp luật hành chính ngăn cấm). Việc bị ngăn cấm thể hiện rõ trong các văn bản pháp luật quy định về xử phạt VPHC. Những hành vi này bị pháp luật quy định là sẽ bị xử phạt bằng các hình thức, biện pháp xử phạt hành chính.    -  Như vậy, khi xem xét để đi đến kết luận rằng hành vi của cá nhân hay tổ chức có phải là VPHC hay không, bao giờ cũng phải có những căn cứ pháp lý rõ ràng xác định hành vi đó phải được pháp luật quy định là sẽ bị xử phạt bằng các biện pháp xử phạt hành chính. Cần tránh tình trạng áp dụng “nguyên tắc suy đoán” hoặc “áp dụng tương tự pháp luật” trong việc xác định VPHC đối với các tổ chức và cá nhân. + Dấu hiệu trong mặt chủ quan:   -  Dấu hiệu bắt buộc là dấu hiệu lỗi của chủ thể vi phạm, thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý (người thực hiện hành vi này phải trong trạng thái có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình nhưng đã vô tình, thiếu thận trọng mà không nhận thức được điều đó hoặc nhận thức được nhưng vẫn cố tình thực hiện vi phạm.   -  Nếu xác định rằng, chủ thể thực hiện hành vi khi không có khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì kết luận rằng không có vi phạm hành chính xảy ra. + Dấu hiệu về chủ thể:   -  Chủ thể thực hiện hành vi VPHC là các tổ chức, cá nhân có năng lực chịu trách nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật hành chính.   -Theo quy định của pháp luật, cá nhân là chủ thể của VPHC phải là người không mắc các bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi và đủ độ tuổi do pháp luật quy định, cụ thể là:   -  Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi là chủ thể của VPHC trong trường hợp thực hiện với lỗi cố ý. Người thực hiện hành vi với lỗi cố ý là người nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật cấm đoán nhưng vẫn cố tình thực hiện.   -  Người đủ 16 tuổi trở lên có thể là chủ thể của VPHC trong mọi trường hợp. Tổ chức là chủ thể VPHC bao gồm: cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân.   -  Cá nhân, tổ chức nước ngoài cũng là chủ thể VPHC theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác. + Dấu hiệu về khách thể:   -  Dấu hiệu khách thể để nhận biết VPHC là hành vi vi phạm này đã xâm hại đến trật tự quản lý hành chính nhà nước đã được pháp luật hành chính quy định và bảo vệ. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính   1. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự là một năm, kể từ ngày hành vi vi phạm được thực hiện; đối với vi phạm hành chính về xuất cảnh, nhập cảnh thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là hai năm, kể từ ngày hành vi vi phạm được thực hiện. Nếu quá các thời hạn nói trên thì không bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng vẫn bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành chính quy định tại Nghị định này.   2. Đối với cá nhân đã bị khởi tố, truy tố hoặc có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục tố tụng hình sự mà có quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án thì bị xử phạt vi phạm hành chính nếu hành vi của người đó có dấu hiệu vi phạm hành chính; trong trường hợp này, thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là ba tháng, kể từ ngày người có thẩm quyền xử phạt nhận được quyết định đình chỉ và hồ sơ vi phạm.   3. Trong thời hạn được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính mới hoặc cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt thì không áp dụng thời hiệu xử phạt nói trên; thời hiệu xử phạt được tính lại kể từ thời điểm người đó thực hiện hành vi vi phạm hành chính mới hoặc thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc xử phạt.   4. Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nếu có lỗi trong việc để quá thời hiệu xử phạt thì bị xử lý theo quy định tại Điều 121 của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2 Chế tài của vi phạm hành chính Đối với mỗi vi phạm hành chính, cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính sau đây: a) Cảnh cáo Cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo được quyết định bằng văn bản. b) Phạt tiền.   1.Mức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính là từ 5.000 đồng đến 500.000.000 đồng.   2. Căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực quản lý nhà nước được quy định như sau: a) Phạt tiền tối đa đến 20.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: trật tự, an toàn xã hội; quản lý và bảo vệ các công trình giao thông; quản lý và bảo vệ công trình thủy lợi; lao động; đo lường và chất lượng hàng hóa; kế toán; thống kê; tư pháp; bảo hiểm xã hội b) Phạt tiền tối đa đến 30.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường thủy; văn hóa - thông tin; du lịch; phòng, chống tệ nạn xã hội; đất đai; đê điều và phòng chống lụt, bão; y tế; giá; điện lực; bảo vệ và kiểm dịch thực vật; bảo vệ nguồn lợi thủy sản; thú y; quản lý, bảo vệ rừng, lâm sản; quốc phòng; an ninh c) Phạt tiền tối đa đến 70.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: thương mại; hải quan; bảo vệ môi trường; an toàn và kiểm soát bức xạ; trật tự, an toàn giao thông đường sắt; xây dựng; bưu chính, viễn thông và tần số vô tuyến điện; chứng khoán; ngân hàng; chuyển giao công nghệ. d) Phạt tiền tối đa đến 100.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: khoáng sản; sở hữu trí tuệ; hàng hải; hàng không dân dụng; thuế (trừ trường hợp các luật về thuế có quy định khác. đ) Phạt tiền tối đa đến 500.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi xâm phạm vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm nghiên cứu, thăm dò, khai thác nguồn lợi hải sản, dầu khí, các tài nguyên thiên nhiên khác.   3.Đối với hành vi vi phạm hành chính trong những lĩnh vực quản lý nhà nước chưa được quy định tại khoản 2 Điều này thì Chính phủ quy định mức phạt tiền, nhưng tối đa không vượt quá 100.000.000 đồng.   -Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau đây: a) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề; b) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính.  -Ngoài các hình thức xử phạt được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả sau đây: a) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép b) Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra c) Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phương tiện; d) Buộc tiêu hủy vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi và cây trồng, văn hóa phẩm độc hại; đ) Các biện pháp khác do Chính phủ quy định.   4. Người nước ngoài vi phạm hành chính còn có thể bị xử phạt trục xuất. Trục xuất được áp dụng là hình thức xử phạt chính hoặc xử phạt bổ sung trong từng trường hợp cụ thể.    Nội dung cơ bản của Quy định về xử phạt vi phạm hành chính:    Văn bản chế tài xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đầu tư và thực hiện dự án đầu tư gây ô nhiễm môi trường cần có các điều xử phạt đối với các hành vi: Vi phạm quy định khi xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch; Thiếu nội dung đánh giá, dự báo tác động môi trường, biện pháp bảo vệ môi trường trong quá trình xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; Thiếu chỉ tiêu đầu tư cho việc tăng cường năng lực về tổ chức quản lý, giám sát môi trường, ngăn ngừa và xử lý ô     nhiễm, cải tạo và bảo vệ môi trường trong kế hoạch phát triển, chương trình, dự án đầu tư; Không lấy ý kiến rộng rãi của các bộ, ngành, địa phương, các nhà khoa học và chuyên gia có liên quan khi lập các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển; Không công bố công khai và trưng cầu ý kiến nhân dân và Hội đồng nhân dân sống trong vùng quy hoạch đối với quy hoạch đô thị và nông thôn; Vi phạm quy định về cam kết bảo vệ môi trường; Vi phạm quy định về đánh giá tác động môi trường và đánh giá môi trường chiến lược; Vi phạm khi triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án đầu tư, từ đó phát thải vào môi trường các chất thải độc hại… Bên cạnh các hình thức xử phạt bằng tiền, còn cần quy định các biện pháp khắc phục hậu quả, thời gian phải khắc phục xong hậu quả, buộc phải bổ sung các nội dung còn thiếu theo quy định.      1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa phương.      2. Các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của các cơ quan quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực có thẩm quyền xử phạt đối với những hành vi vi phạm hành chính được quy định cụ thể tại các nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước.      3. Thẩm quyền xử phạt của các chức danh theo quy định của Pháp lệnh trong từng trường hợp cụ thể được xác định như sau:    a) Thẩm quyền phạt tiền được xác định căn cứ vào mức tối đa của khung tiền phạt quy định cho mỗi hành vi vi phạm hành chính.    b) Thẩm quyền áp dụng hình thức tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính được xác định căn cứ vào văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước quy định cho chức danh có thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với một hành vi vi phạm cụ thể. Trường hợp Pháp lệnh quy định thẩm quyền tịch thu theo trị giá của tang vật, phương tiện vi phạm thì phải căn cứ vào giá trị thực tế của tang vật, phương tiện vi phạm để xác định thẩm quyền.    c) Thẩm quyền áp dụng hình thức tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề được xác định căn cứ vào văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước. Đối với hành vi vi phạm có quy định áp dụng hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề thì chức danh nào có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi đó cũng có quyền xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép hoặc chứng chỉ hành nghề đối với người vi phạm; trường hợp luật có quy định khác thì theo quy định của luật. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày quyết định xử phạt vi phạm hành chính, người đã ra quyết định xử phạt phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan cấp giấy phép, chứng chỉ hành nghề về việc đã áp dụng hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề.    d) Thẩm quyền áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả được xác định căn cứ vào Pháp lệnh quy định chức danh đó có thẩm quyền áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả; đồng thời căn cứ vào hành vi vi phạm cụ thể có quy định việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả được quy định trong các nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước.    đ) Trong trường hợp mức tiền phạt, trị giá tang vật phương tiện bị tịch thu hoặc một trong các hình thức xử phạt hoặc biện pháp khắc phục hậu quả không thuộc thẩm quyền hoặc vượt quá thẩm quyền thì người đang thụ lý vụ việc vi phạm phải kịp thời chuyển vụ việc vi phạm đó đến người có thẩm quyền xử phạt.       Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính :      -Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Ủy ban nhân dân các cấp 1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có quyền xử phạt theo quy định tại Điều 30 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hoá - thông tin được quy định tại Nghị định này thuộc địa bàn quản lý của địa phương. 2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có quyền xử phạt theo quy định tại Điều 29 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hoá - thông tin được quy định tại Nghị định này thuộc địa bàn quản lý của địa phương. 3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có quyền xử phạt theo quy định tại Điều 28 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hoá - thông tin được quy định tại Nghị định này thuộc địa bàn quản lý của địa phương. -Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan thanh tra chuyên ngành   1. Thanh tra viên chuyên ngành văn hóa - thông tin đang thi hành công vụ có quyền xử phạt theo quy định tại Điều 38 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực văn hóa - thông tin được quy định tại Nghị định này.   2. Chánh thanh tra chuyên ngành văn hóa - thông tin các cấp có quyền xử phạt theo thẩm quyền quy định tại Điều 38 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực văn hóa - thông tin được quy định tại Nghị định này.   3. Thanh tra viên, Chánh thanh tra chuyên ngành các cấp của các ngành có liên quan đến lĩnh vực văn hóa - thông tin có quyền xử phạt theo thẩm quyền quy định tại Điều 38 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực văn hóa - thông tin được quy định tại Nghị định này thuộc phạm vi quản lý nhà nước của ngành mình. - Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Bộ đội biên phòng, Hải quan      Lực lượng Bộ đội biên phòng, Hải quan có quyền xử phạt theo thẩm quyền quy định tại các Điều 32 và 34 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm về xuất khẩu, nhập khẩu các sản phẩm văn hoá được quy định tại Nghị định này. - Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Cảnh sát nhân dân    Lực lượng Cảnh sát nhân dân có quyền xử phạt theo thẩm quyền quy định tại Điều 31 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hoá - thông tin có liên quan đến trật tự, an toàn xã hội thuộc thẩm quyền quản lý được quy định tại Nghị định này. -Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan Quản lý thị trường    Lực lượng Quản lý thị trường có quyền xử phạt theo thẩm quyền quy định tại Điều 37 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm về kinh doanh dịch vụ các sản phẩm văn hoá - thông tin được quy định tại Nghị định này. - Thủ tục xử phạt    Thủ tục xử phạt những hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa - thông tin được áp dụng theo các quy định tại Chương VI Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và Chương IV Nghị định số 134/2003/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính. - Thu, nộp tiền phạt    Tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hoá - thông tin mà bị phạt tiền thì phải nộp tiền tại địa điểm theo quy định của pháp luật. Thủ tục thu, nộp tiền phạt thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Tài chính. -Thủ tục tịch thu và xử lý tang vật, phương tiện vi phạm   1. Khi áp dụng hình thức tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hoá - thông tin, người có thẩm quyền xử phạt phải thực hiện đúng thủ tục quy định tại Điều 60 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính.   2. Người ra quyết định tịch thu có trách nhiệm tổ chức bảo quản tang vật, phương tiện bị tịch thu. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm, người ra quyết định tịch thu phải chuyển giao quyết định xử phạt, biên bản tịch thu và toàn bộ tang vật, phương tiện bị tịch thu cho cơ quan có thẩm quyền để tổ chức bán đấu giá theo quy định tại Điều 61 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, trừ đối với băng đĩa và các sản phẩm văn hoá đã có nội dung.   3. Đối với tang vật là di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, người ra quyết định phải báo cáo Bộ Văn hoá - Thông tin để Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin giao cho cơ quan thích hợp quản lý, sử dụng. Trong mọi trường hợp chuyển giao tang vật sang sở hữu nhà nước, thủ tục chuyển giao và quản lý tang vật thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 32 Nghị định số 134/2003/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính.   4. Tiền thu được từ bán tang vật, phương tiện bị tịch thu, sau khi trừ các chi phí theo quy định của pháp luật, phải nộp vào ngân sách nhà nước. -Thủ tục tước quyền sử dụng giấy phép Thủ tục tước quyền sử dụng các loại giấy phép trong lĩnh vực văn hóa - thông tin thực hiện theo quy định tại Điều 59 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính. - Thủ tục tiêu huỷ văn hoá phẩm độc hại    1. Đối với văn hoá phẩm bị tịch thu và cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin quyết định tiêu hủy thì phải thành lập Hội đồng xử lý để tiêu huỷ. Thành phần Hội đồng xử lý bao gồm đại diện cơ quan quản lý nhà nước về văn hoá - thông tin, cơ quan công an, tài chính và các cơ quan có liên quan cùng cấp.   2. Khi tiến hành tiêu huỷ văn hoá phẩm, cơ quan có trách nhiệm phải lập biên bản tiêu huỷ. Biên bản phải có chữ ký xác nhận của các thành viên Hội đồng xử lý. Trong trường hợp cần thiết có thể mời đại diện các cơ quan, tổ chức hữu quan chứng kiến việc tiêu hủy.   3. Bộ Văn hoá - Thông tin hướng dẫn cụ thể thủ tục tiêu huỷ các loại văn hoá phẩm cần phải tiêu huỷ theo quy định tại Nghị định này.    Tính trái pháp luật của vi phạm hành chính : ·  hành vi mà tổ chức cá nhân thực hiện là hành vi trái pháp luật về quản lí nhà nước nghĩa là tổ chức cá nhân đó thực hiện hoặc thực hiện ko đúng những yêu cầu mà pháp luật về quản lí hành chính nhà nước đề ra ·  hành vi vi phạm hành chính của tổ chức phải có lỗi , có thể là lỗi cố ý hoặc vô ý. chủ thể thực hiện hàn vi vi phạm hành chính trong trạng thái có đủ khả năng nhận thức dc hành vi đó là trái pháp luật hành chính nhưng vãn cố ý thực hiện hoặc do quá tự tin cẩu thả trong xử sự dẫn đến hành vi trái pháp luật về quản lí hành chính nhà nước xảy ra ·  hành vi trái pháp luật về quản lí nhà nước do tổ chức cá nhân thực hiện ko phải là tội phạm nghĩa là hành vi này có mức độ gây nguy hiểm cho xã hội thấp hơn tội phạm. đây là dấu hiệu quan trọng để phan biệt vi phạm hành chính với tội phạm. để đánh giá mức độ nguy hiểm của vi phạm hành chính phải căn cứ vào các yếu tố như: mức độ gây thiêt hại cho xã hội cuả hành vi , tính chất, mưc độ lỗi, tầm quan trọng của khác thể được bảo vệ, nhân thân người vi phạm.. ·  hành vi trái pháp luật về quản lí nhà nước do tổ chức, cá nhân thực hiện phải dc pháp luật hành chính qui định bị xử phạt hành chính. chỉ có quốc hội uỷ ban thường vụ quốc hội và chính phủ mới có quyền ban hành văn bản pháp luật qui định về vi phạm hành chính và các biện pháp xử lí đối với vi phạm hành chính. quốc hội qui định về vi phạm hành chính, hình thức, biện pháp xử lí đối với vi phạm hành chính trong các văn bản luật , uỷ ban thường vụ quốc hội qui định về vi phạm hành chính, hình thức biện pháp đối với vi phạm hành chính trong các pháp lệnh. Chính phủ qui định về các vi phạm hành chính , hình thức biện pháp xử lí đối với vi phạm hành chính trong các nghị định   Các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử lí vi phạm hành chính 1. Trong trường hợp cần ngăn chặn kịp thời vi phạm hành chính hoặc để bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính, người có thẩm quyền có thể áp dụng các biện pháp sau đây theo thủ tục hành chính:  a) Tạm giữ người;  b) Tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính;  c) Khám người;  d) Khám phương tiện vận tải, đồ vật;  đ) Khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính;  e) Bảo lãnh hành chính;  g) Quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất;  h) Truy tìm đối tượng phải chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh trong trường hợp bỏ trốn. 2. Khi áp dụng các biện pháp quy định tại khoản 1 Điều này, người có thẩm quyền phải tuân thủ nghiêm ngặt quy định tại các điều từ Điều 44 đến Điều 52 của Pháp lệnh này; nếu vi phạm thì bị xử lý theo quy định tại Điều 121 của Pháp lệnh này. - Tạm giữ người theo thủ tục hành chính 1. Việc tạm giữ người theo thủ tục hành chính chỉ được áp dụng trong trường hợp cần ngăn chặn, đình chỉ ngay những hành vi gây rối trật tự công cộng, gây thương tích cho người khác hoặc cần thu thập, xác minh những tình tiết quan trọng làm căn cứ để quyết định xử lý vi phạm hành chính. 2. Mọi trường hợp tạm giữ người đều phải có quyết định bằng văn bản và phải giao cho người bị tạm giữ một bản. 3. Thời hạn tạm giữ người theo thủ tục hành chính không được quá 12 giờ, kể từ thời điểm bắt đầu giữ người vi phạm; trong trường hợp cần thiết, thời hạn tạm giữ có thể kéo dài hơn nhưng không được quá 24 giờ. Đối với người vi phạm quy chế biên giới hoặc vi phạm hành chính ở vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh, hải đảo thì thời hạn tạm giữ có thể kéo dài hơn nhưng không được quá 48 giờ, kể từ thời điểm bắt đầu giữ người vi phạm. 4. Theo yêu cầu của người bị tạm giữ, người ra quyết định tạm giữ phải thông báo cho gia đình, tổ chức nơi làm việc hoặc học tập của họ biết. Trong trường hợp tạm giữ người chưa thành niên vi phạm hành chính vào ban đêm hoặc giữ trên 6 giờ, thì người ra quyết định tạm giữ phải thông báo ngay cho cha mẹ hoặc người giám hộ của họ biết. 5. Nghiêm cấm việc giữ người vi phạm hành chính trong các phòng tạm giữ, phòng tạm giam hình sự hoặc những nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho người bị tạm giữ. 6. Chính phủ ban hành Quy chế tạm giữ người theo thủ tục hành chính. -Thẩm quyền tạm giữ người theo thủ tục hành chính 1. Những người sau đây có quyền quyết định tạm giữ người theo thủ tục hành chính:  a) Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, thị trấn, Trưởng Công an phường;  b) Trưởng Công an cấp huyện;  c) Trưởng phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Trưởng phòng Cảnh sát giao thông, Trưởng phòng Cảnh sát kinh tế, Trưởng phòng Cảnh sát hình sự, Trưởng phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm ma túy, Trưởng phòng Quản lý xuất cảnh, nhập cảnh của Công an cấp tỉnh;  d) Thủ trưởng đơn vị Cảnh sát cơ động từ cấp đại đội trở lên hoạt động có tính chất độc lập, Trạm trưởng Trạm Công an cửa khẩu;  đ) Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm, Đội trưởng Đội Kiểm lâm cơ động;  e) Chi cục trưởng Hải quan, Đội trưởng Đội kiểm soát thuộc Cục Hải quan, Đội trưởng Đội Kiểm soát chống buôn lậu và Hải đội trưởng Hải đội kiểm soát trên biển thuộc Cục điều tra chống buôn lậu Tổng cục Hải quan;  g) Đội trưởng Đội Quản lý thị trường;  h) Chỉ huy trưởng Tiểu khu biên phòng, Chỉ huy trưởng Hải đoàn biên phòng, Chỉ huy trưởng Hải đội biên phòng, Trưởng đồn biên phòng và Thủ trưởng đơn vị bộ đội biên phòng đóng ở biên giới, hải đảo;  i) Hải đội trưởng, Hải đoàn trưởng Cảnh sát biển;  k) Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay, bến cảng. 2. Trong trường hợp những người quy định tại khoản 1 Điều này vắng mặt thì cấp phó được ủy quyền có quyền quyết định tạm giữ người theo thủ tục hành chính và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình. - Tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính 1. Việc tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính chỉ được áp dụng trong trường hợp cần để xác minh tình tiết làm căn cứ quyết định xử lý hoặc ngăn chặn ngay vi phạm hành chính. Những người được quy định tại Điều 45 của Pháp lệnh này, Chánh thanh tra chuyên ngành cấp sở và Chánh Thanh tra chuyên ngành bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có quyền quyết định tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính. 2. Trong trường hợp có căn cứ để cho rằng nếu không tạm giữ ngay thì tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có thể bị tẩu tán, tiêu hủy thì thủ trưởng trực tiếp của chiến sĩ Cảnh sát nhân dân, Bộ đội biên phòng, kiểm lâm viên, nhân viên Hải quan, kiểm soát viên thị trường hoặc thanh tra viên chuyên ngành được quyền ra quyết định tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định, người ra quyết định phải báo cáo thủ trưởng của mình là một trong những người có thẩm quyền tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính được quy định tại khoản 1 Điều này và được sự đồng ý bằng văn bản của người đó; trong trường hợp không được sự đồng ý của họ thì người đã ra quyết định tạm giữ phải hủy ngay quyết định tạm giữ và trả lại vật, tiền, hàng hóa, phương tiện đã bị tạm giữ. 3. Người ra quyết định tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính phải lập biên bản về việc tạm giữ. Trong biên bản phải ghi rõ tên, số lượng, chủng loại tang vật, phương tiện bị tạm giữ và phải có chữ ký của người ra quyết định tạm giữ, người vi phạm. Người ra quyết định tạm giữ có trách nhiệm bảo quản tang vật, phương tiện đó; nếu do lỗi của người này mà tang vật, phương tiện bị mất, bán, đánh tráo hoặc hư hỏng thì họ phải chịu trách nhiệm bồi thường. Trong trường hợp tang vật, phương tiện vi phạm cần được niêm phong thì phải tiến hành ngay trước mặt người vi phạm; nếu người vi phạm vắng mặt thì phải tiến hành niêm phong trước mặt đại diện gia đình, đại diện tổ chức, đại diện chính quyền và người chứng kiến. 4- Đối với tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng bạc, đá quý, kim khí quý, các chất ma túy và những vật thuộc chế độ quản lý đặc biệt khác, thì việc bảo quản được thực hiện theo quy định của pháp luật. Đối với tang vật vi phạm hành chính là loại hàng hóa, vật phẩm dễ bị hư hỏng thì người ra quyết định tạm giữ phải xử lý theo quy định tại khoản 3 Điều 61 của Pháp lệnh này. 5. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày tạm giữ, người ra quyết định tạm giữ phải xử lý tang vật, phương tiện bị tạm giữ theo những biện pháp ghi trong quyết định xử lý hoặc trả lại cho cá nhân, tổ chức nếu không áp dụng hình thức phạt tịch thu đối với tang vật, phương tiện bị tạm giữ. Thời hạn tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có thể được kéo dài đối với những vụ việc phức tạp, cần tiến hành xác minh nhưng tối đa không quá sáu mươi ngày, kể từ ngày tạm giữ tang vật, phương tiện. Việc kéo dài thời hạn tạm giữ tang vật, phương tiện phải do những người được quy định tại khoản 1 Điều này quyết định. 6. Việc tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính phải có quyết định bằng văn bản kèm theo biên bản tạm giữ và phải giao cho người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm một bản. - Khám người theo thủ tục hành chính 1. Việc khám người theo thủ tục hành chính chỉ được tiến hành khi có căn cứ cho rằng người đó cất giấu trong người đồ vật, tài liệu, phương tiện vi phạm hành chính. 2. Những người được quy định tại Điều 45 của Pháp lệnh này có quyền quyết định khám người theo thủ tục hành chính. Trong trường hợp có căn cứ để cho rằng nếu không tiến hành khám ngay thì đồ vật, tài liệu, phương tiện vi phạm hành chính có thể bị tẩu tán, tiêu hủy, thì ngoài những người được quy định tại Điều 45 của Pháp lệnh này, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân, cảnh sát viên Đội nghiệp vụ Cảnh sát biển, chiến sĩ Bộ đội biên phòng, kiểm lâm viên, kiểm soát viên thị trường đang thi hành công vụ được khám người theo thủ tục hành chính và báo cáo ngay bằng văn bản cho thủ trưởng của mình là một trong những người được quy định tại Điều 45 của Pháp lệnh này và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc khám người. 3. Việc khám người phải có quyết định bằng văn bản, trừ trường hợp cần khám ngay theo quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều này. 4. Trước khi tiến hành khám người, người khám phải thông báo quyết định cho người bị khám biết. Khi khám người, nam khám nam, nữ khám nữ và phải có người cùng giới chứng kiến. 5. Mọi trường hợp khám người đều phải lập biên bản. Quyết định khám người và biên bản khám người phải được giao cho người bị khám một bản. - Khám phương tiện vận tải, đồ vật theo thủ tục hành chính 1.Việc khám phương tiện vận tải, đồ vật theo thủ tục hành chính chỉ được tiến hành khi có căn cứ cho rằng trong phương tiện vận tải, đồ vật đó có cất giấu tang vật vi phạm hành chính. 2. Những người được quy định tại Điều 45 của Pháp lệnh này, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân, cảnh sát viên Đội nghiệp vụ Cảnh sát biển, chiến sĩ Bộ đội biên phòng, kiểm lâm viên, nhân viên thuế vụ, kiểm soát viên thị trường, thanh tra viên chuyên ngành đang thi hành công vụ có quyền khám phương tiện vận tải, đồ vật trong phạm vi thẩm quyền của mình. 3. Khi tiến hành khám phương tiện vận tải, đồ vật phải có mặt chủ phương tiện vận tải, đồ vật hoặc người điều khiển phương tiện vận tải và một người chứng kiến; trong trường hợp chủ phương tiện, đồ vật hoặc người điều khiển phương tiện vắng mặt thì phải có hai người chứng kiến. 4. Mọi trường hợp khám phương tiện vận tải, đồ vật đều phải lập biên bản và phải giao cho chủ phương tiện vận tải, đồ vật hoặc người điều khiển phương tiện vận tải một bản. -Khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính 1. Khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính chỉ được tiến hành khi có căn cứ cho rằng ở nơi đó có cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính. 2. Những người được quy định tại Điều 45 của Pháp lệnh này có quyền quyết định khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; trong trường hợp nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là nơi ở thì quyết định khám phải được sự đồng ý bằng văn bản của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện trước khi tiến hành. 3. Khi khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính phải có mặt người chủ nơi bị khám hoặc người thành niên trong gia đình họ và người chứng kiến. Trong trường hợp người chủ nơi bị khám, người thành niên trong gia đình họ vắng mặt mà việc khám không thể trì hoãn thì phải có đại diện chính quyền và hai người chứng kiến. 4. Không được khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính vào ban đêm, trừ trường hợp khẩn cấp nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản. 5. Mọi trường hợp khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính phải có quyết định bằng văn bản và phải lập biên bản. Quyết định khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và biên bản phải được giao cho người chủ nơi bị khám một bản. -Bảo lãnh hành chính 1. Bảo lãnh hành chính là việc giao cho gia đình, tổ chức xã hội nhận quản lý, giám sát người có hành vi vi phạm pháp luật thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh trong thời gian cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục xem xét, quyết định việc áp dụng các biện pháp này nếu người đó có nơi cư trú nhất định. 2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định giao việc bảo lãnh hành chính cho gia đình, tổ chức xã hội nơi đối tượng cư trú. Trong trường hợp đối tượng là người chưa thành niên thì trách nhiệm bảo lãnh hành chính được giao cho cha mẹ hoặc người giám hộ. Gia đình, tổ chức xã hội, người được giao trách nhiệm bảo lãnh hành chính có trách nhiệm không để đối tượng tiếp tục vi phạm pháp luật và bảo đảm sự có mặt của đối tượng tại nơi cư trú khi được yêu cầu. Việc bảo lãnh hành chính chấm dứt khi hết thời hạn bảo lãnh ghi trong quyết định giao bảo lãnh hoặc khi đối tượng được đưa đi chấp hành biện pháp quy định tại khoản 1 Điều này. 3. Chính phủ quy định cụ thể về bảo lãnh hành chính. -Quản lý đối với người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất Việc quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất do Chính phủ quy định. - Truy tìm đối tượng đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh trong trường hợp bỏ trốn 1. Trong trường hợp người đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh bỏ trốn trước khi được đưa vào trường hoặc cơ sở, thì cơ quan Công an cấp huyện nơi người đó cư trú ra quyết định truy tìm đối tượng. Trong trường hợp người đang chấp hành tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh bỏ trốn thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng hoặc Giám đốc cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh ra quyết định truy tìm đối tượng. Cơ quan Công an có trách nhiệm phối hợp với trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh trong việc truy tìm đối tượng để đưa người đó trở lại trường hoặc cơ sở. 2. Đối với người có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành quyết định tại trường giáo dưỡng quy định tại khoản 1 Điều này, nếu khi bị bắt lại mà người đó đã đủ 18 tuổi thì Trưởng Công an cấp huyện đề nghị Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện hủy quyết định đưa vào trường giáo dưỡng và lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục.  IV. Để làm rõ những vấn đề trên nhóm chúng tôi đưa ra một sỗ tình huống  cụ thể như sau :   1:  Doanh nghiệp V chuyên kinh doanh xăng dầu. Trước đây, nước thải của Công ty vẫn thải ra môi trường thông qua kênh dẫn đổ ra sông H. Từ khi Luật Bảo vệ môi trường 2005 có hiệu lực, có các Đoàn kiểm tra về bảo vệ môi trường lấy mẫu và kết luận doanh nghiệp chúng tôi vi phạm 2 lỗi. Đó là: Không lập hồ sơ, đăng ký có phát sinh chất thải nguy hại đối với trường hợp phải đăng ký với cơ quan có chuyên môn về bảo vệ môi trường cấp tỉnh; Xả nước thải vào nguồn nước các chất gây ô nhiễm vượt quá TCCP.   Tình huống trên thì đơn vị nào có quyền ra Quyết định xử phạt? Và Công ty phải nộp phạt là bao nhiêu ? Trả lời:  Theo Nghị định số 81/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 của Chính phủ về Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT thì Công ty HH đã vi phạm Khoản 4, Điều 15 và khoản 1 , điều 22 của nghị định  Khoản 4, Điều 15 quy định: Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với hành vi không lập hồ sơ, đăng ký có phát sinh chất thải nguy hại đối với trường hợp phải đăng ký với cơ quan có chuyên môn về bảo vệ môi trường cấp tỉnh. Theo Khoản 1, Điều 22, hành vi xả, thải nước thải vào môi trường nước các chất gây ô nhiễm vượt quá TCCP thì bị phạt cảnh cáo hoặc bị phạt tiền từ 100.000 đồng đến  500.000đồng   Quyết định xử phạt này sẽ do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh ra Quyết định .   2:   Tháng 9/2008, Bộ tài nguyên môi trường đã phát hiện ra vụ việc sai phạm của công ty Bột ngọt Vedan (Công ty TNHH Vedan Việt Nam).Theo đó thì công ty Vedan đã hằng ngày sả nước thải bẩn (chưa qua xử lý) trực tiếp ra sông Thị Vải (Đồng Nai) suốt 14 năm qua kể từ khi đi vào hoạt động (1994): khoảng 45000m3/1tháng. Hành động này gây ô nhiễm nặng cho dòng sông Thị Vải, gây chết các sinh vật sống ở sông này và ảnh hưởng trầm trọng đến sức khỏe người dân ven sông... Trả lời: ¤ Mặt khách quan:   - Hành vi nguy hiểm: sả nước thải bẩn chưa qua xử lý ra sông Thi Vải: 45000m3/1tháng. Đây là hành vi trái pháp luật hành chính.   - Hậu quả: dòng sông bị ô nhiễm nặng, phá hủy môi trường sống và làm thủy sản chết hàng loạt, gây thiệt hại cho các hộ nuôi thủy sản và ảnh hưởng trầm trọng đến sức khỏe người dân sống ven sông. Những thiệt hại đó do hành vi trái pháp luật của công ty Vedan gây ra trực tiếp và gián tiếp.   - Thời gian: 14 năm (từ năm 1994-2008).   - Địa điểm: sông Thị Vải (thuộc địa phận tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Tp.Hồ Chí Minh).   - Phương tiện: sử dụng hệ thống ống sả ngầm. ¤ Mặt khách thể: Việc làm của công ty Vedan đã xâm hại đến các quy tắc quản lý nhà nước: vi phạm trật tự quản lý nhà nước, làm tổn hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. ¤ Mặt chủ quan:   - Lỗi: là lỗi cố ý gián tiếp. Vì, Công ty Vedan khi thực hiện hành vi này thì nhận thấy trước hậu quả, tuy không mong muốn nhưng vẫn để hậu quả xảy ra.   - Mục đích: nhằm giảm bớt chi phí xử lý nước thải. Theo quy định thì công ty Vedan phải đầu tư khoảng 1 chục triệu để xử lý 1m3 dịch thải đậm đặc. Đáng ra phải chi từ 15%-20% vốn đầu tư cho việc xử lý nước thải thì Công ty Vedan chỉ dành 1,5% vốn cho việc đó. ¤ Mặt chủ thể vi phạm:   - Công ty Vedan (thuộc Công ty TNHH Vedan Việt Nam) là một công ty thực phẩm với 100% vốn đầu tư Đài Loan.   - Được xây dựng từ năm 1991.   - Có giấy phép hoạt động từ năm 1994. Dẫn đến, là một tổ chức có đầy đủ trách nhiệm pháp lý khi thực hiện hành vi trái pháp luật này. C. KẾT LUẬN   Sau quá trình phân tích ở trên nhận thấy rằng vi phạm hành chính là một vi phạm pháp luật mang tính nguy hiểm cho xã hội và hơn thế  trong giai đoạn hiện nay đất nước ta đang trong quá trình đổi mới với việc xây dựng nền kinh tế hang hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường. Thì áp dụng đúng pháp luật nói chung và đúng pháp luật về xử phạt hành chính nói riêng sẽ góp phần tích cực vào quá trình đổi mới đất nước, bảo vệ trật tự, an ninh xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước, đảm bảo cho quá trình đồi mới đất nước được thành công, tạo ra một động lực, một tiền lệ tốt để các doanh nghiệp làm ăn chân chính có ý thức hơn trong đấu tranh bảo vệ thương hiệu của mình cũng như đấu tranh với những hành vi không lành mạnh trong xây dựng và phát triển thương hiệu, cùng nhau tạo ra một môi trường phát triển bền vững, minh bạch và công bằng cho cộng đồng các doanh nghiệp Ngoài ra vấn đề trên còn giúp cho mọi công dân có nắm bắt rõ và sâu sắc h ơn các quy định xử lý , các biện pháp và bảo đảm xử phạt vi phạm hành chính , các loại chế tài áp dụng cho các vi phạm trong các trường hợp, để từ đó có thể ngăn chặn và ý thức rõ khi thực hiện luật hành chính.    Đối với mỗi học sinh –sinh viên là những công dân Việt Nam cần :  + Có ý thức cao trong việc chấp hành tốt  các luật nói chung và luật hành chính nói riêng  + Tuyên truyền cho cộng đồng hiểu và nắm rõ hơn luật hành chính và vi phạm hành chính gây ra hậu quả gì cho xã hội để cùng nhau thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh  + Học hỏi , rút kinh nghiệm  từ các hành vi vi phạm     Đối với góc độ cơ quan nhà nước cần :   + Nghiêm khắc răn đe  , chấn chỉnh , xử phạt các hành vi vi phạm hành chính trong mọi mặt đời sống của xã hội   + tôn trọng ý kiến , tận tụy , lắng nghe nhân dân khi có hành vi cần giải quyết   +Gỉải quyết kịp thời , đúng pháp luật hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại , tố cáo .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTài liệu về vi phạm hành chính.doc